KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.39. BẤT TU PHƯỚC HUỆ GIỚI
(giới không tu
phước huệ)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử thường ưng giáo hóa nhứt thiết chúng sanh” cho đến câu “phạm khinh cấu tội”.
1. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo tăng phường nơi núi rừng,
vườn ruộng, xây dựng Phật tháp, chỗ an cư, tọa thiền trong mùa Đông, mùa Hạ.
Tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo.
Người Phật tử
phải giảng thuyết kinh luật Đại Thừa cho tất cả chúng sanh trong lúc tật bịnh,
nước có giặc giã, có nạn, ngày cha mẹ, anh em, hòa thượng, A Xà Lê khuất tịch
và mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất cũng nên giảng thuyết kinh luật Đại
Thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai
nạn, bão lụt, hỏa hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to, biển lớn, gặp quỷ La
Sát v.v... đều cũng đọc tụng kinh luật Đại Thừa. Nhẫn đến tất cả tội báo, tam
ác, bát nạn, thất nghịch, gông cùm, xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người
nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật bịnh đều nên giảng kinh luật Đại
Thừa này. Nếu hàng tân học Phật tử không thực hành những điều trên đây thời
phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Một vị Phật
tử dù là Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều phải xem trọng giới hạnh của mình. Điều ấy
đương nhiên không sai. Nhưng đó chỉ là những lễ nghi thuộc phạm vi cá nhân mà
thôi. Do đó, phải quyết tiến lên một bậc nữa, tự tu phước huệ và dẫn dắt tất cả
chúng sanh đồng tu phước huệ, giải trừ tất cả khổ nạn cho chúng sanh. Như thế
mới xứng đáng với tư cách của một vị Bồ Tát Đại Thừa.
Đem chánh pháp
cứu độ chúng sanh như thế nào? Giúp chúng sanh trừ những tai nạn hiện tại và vị
lai bằng cách nào?
Về số lượng pháp
mình và người cần phải tu, nói ra thì rất nhiều nhưng đại khái cũng không ngoài
tu phước và tu huệ,
- Nếu phước báo
không có thì sẽ thường gặp nhiều chướng duyên, khiến cho bạn không thể đúng như
pháp mà tiến tu.
- Nếu trí huệ
thiển bạc thì rất dễ bị đi vào con đường sai lầm, khiến cho bạn vĩnh viễn không
thể nào về đến nhà.
Vì thế, Phật
pháp chủ trương “phước huệ song tu” như chim cần hai cánh và như hai bánh của
chiếc xe, nếu thiếu một không thể bay hay chạy đưọc. Cũng vậy, hai món phước và
huệ nếu thiếu bất cứ món nào, cũng khó mà thành tựu thắng quả.
Trong kinh có kể
một truyện cổ như sau:
Có một vị thánh
nhân đã chứng quả A La Hán, là một bậc phước điền thù thắng trên thế gian, xứng
đáng thọ nhận sự cúng dường của nhân thiên, nhưng vì trong thời quá khứ, khi tu
học Phật pháp, Ngài chỉ chuyên tu tập trí huệ, xem thường việc vun bồi phước
đức, nên trong đời hiện tại dù đã chứng quả A La Hán, nhưng việc cúng dường của
Phật tử đối với Ngài hết sức thiếu thốn, thậm chí cơm không đủ no lòng.
Trái lại có một
con đại tượng, cùng thời với Ngài, được người nuôi dưỡng rất đầy đủ. Dù chỉ là
súc sanh, nhưng nó chẳng những được ăn uống rất ngon, rất thừa thãi, mà lại còn
được mang chuỗi anh lạc rất quý báu trên thân. Đại tượng ấy sở dĩ bị đọa trong
loài súc sanh, vì trong đời quá khứ từng vun bồi phước đức rất nhiều, nhưng lại
xem thường việc tu tập trí huệ, nên không thể phân biệt thiện ác, phải quấy đến
nỗi si mê, tăm tối, làm những chuyện trái giới luật nên phải cảm thọ quả báo
mang thân súc sanh.
Theo truyện
trên, chúng ta thấy làm một người Phật tử quyết định phải đồng thời phước huệ
song tu. Đức Bổn Sư Thích Ca sở dĩ thành Phật chẳng qua là phước huệ của Ngài
đã viên mãn mà thôi. Chúng ta tu học theo Phật, sao không lấy hình ảnh Phật làm
tấm gương sáng cho mình, để cố gắng phước huệ song tu?
Nhưng tu phước
và huệ như thế nào?
Chính trong kinh
văn có dạy rõ là Tài Thí và Pháp Thí.
- Tài thí là vun
bồi phước đức.
- Pháp thí là
tăng ích trí huệ.
Như thế việc tu
phước huệ không phải là một điều khó khăn, chỉ cần chịu thực hành tài thí và
pháp thí là được.
Pháp thí là vì
người giảng giải kinh luật Đại Thừa, vì Phật pháp nếu không có người giảng giải
thì không thể hiểu rõ được, vì thế cần phải giảng giải.
Tài thí là cứu
giúp những người trong cảnh nghèo khổ khó khăn, hoặc kiến tạo chỗ nơi để người
tu hành có thể an tâm hành đạo.
Thực hành như
thế nào mới gọi là phước huệ song tu.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, việc giáo hóa chúng sanh
không phải chỉ làm một lần là xong, mà cần phải thường khuyến hóa tất cả chúng
sanh”.
“Thường
khuyến hóa” nghĩa là làm việc khuyến hóa liên tục không gián đoạn. Những chúng
sanh có nhân duyên hóa độ với mình, nếu ngày nào hóa độ chưa xong, thì ngày ấy
không được đình chỉ sự giáo hóa. Điều tối yếu là phải dẫn dắt chúng sanh đúng
như pháp tu hành. Hơn nữa, người tu hành phải có nơi, có chỗ an tu, không phải
bất cứ chỗ nào cũng tùy tiện mà ở tu được. Vì thế, Bồ Tát cần phải khuyến hóa
chúng sanh làm những việc sau đây để cho các vị tu hành nương thân hành
đạo:
1. Kiến lập tăng
phường: để cho chúng tăng tập họp lại một nơi an tâm tu niệm.
2. Kiến tạo núi
rừng: Để cho đại chúng nhờ chỗ mát mẻ của rừng núi mà thân tâm được an lạc, để
tu niệm, không bị cảm giác nóng bức khó chịu.
3. Kiến tạo vườn
tược: để trồng các thứ rau cải, cây ăn trái, để cung cấp cho đại chúng thọ dụng
trong khi tu hành.
4. Kiến tạo
ruộng nương: Để thâu hoạch ngũ cốc dồi dào, làm lương thực cung cấp cho đại
chúng, giúp đại chúng an tâm khỏi phải để tâm đến việc sinh sống hằng
ngày.
5. Xây dựng tháp
Phật: Để cho chúng sanh có nơi chiêm lễ và cũng là nơi thiên nhân vun bồi phước
điền thù thắng. Tháp là nơi thờ linh cốt thánh nhân (xá lợi của Phật và Bồ
Tát), trong kinh gọi là “sanh thân tháp”. Nếu thành tâm chiêm bái, cúng dường
tháp Phật, phước đức không thể tính kể, so lường được.
Như trong kinh A
Hàm nói: “Vào thời quá khứ, sau khi Phật Tỳ Bà Thi nhập diệt, có một tỳ kheo
hiệu là Phạm Ni Thi. Một ngày nọ, ngài đem hết tâm hoan hỷ thành kính tuyệt
đỉnh của mình cầm chiếc đèn soi vào trong tháp của Phật. Nhờ phước đức ấy, khi
đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế, tỳ kheo Phạm Thi Ni được phước báo quang minh
trên thân rực rỡ, so với quang minh trên thân của chư thiên hai mươi tám từng
trời thì quang minh của chư thiên không thể sánh kịp.
Ngài còn được
gặp đức Bổn Sư Thích Ca, và được đắc quả. Nhờ tâm thành kính hoan hỷ, dùng đèn
soi vào trong tháp Phật, còn được công đức thù thắng như thế, huống chi xây
dựng tháp Phật, đương nhiên được công đức không thể nghĩ bàn.
6. Kiến tạo chỗ
an cư, tọa thiền trong mùa Đông, mùa Hạ: để cho chúng tăng có chỗ an cư trong
tiết Hạ và tọa thiền trong tiết Đông thiên. Trong khoảng thời gian hai mùa này,
chúng tăng nhờ những phương tiện đó mà sách lệ tiến tu, không đến nỗi biếng
nhác, giải đãi, luống trôi giờ vàng ngọc của người xuất gia hành đạ.
7. Tất cả những
cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo: Câu kinh văn này chứng tỏ nơi hành đạo không
phải là một nơi có rất nhiều nơi. Vì thế phàm những nơi nào có lợi cho việc tu
hành, đều nên kiến tạo cơ sở, để cho chúng chúng tăng đến nơi nào cũng có chỗ
để an tâm, chuyên lo tu niệm.
Giáo hóa tất cả
chúng sanh như thế, bất cứ trường hợp tự mình khuyến hóa hay nhờ người khác
khuyến hóa, đều được hưởng phước báo nhân thiên và thiện căn xuất thế. Vì thế,
tuyệt đối không được xem thường vấn đề này.
Có điều cần phải
đặc biệt lưu ý là khi kiến tạo những cơ sở nói trên, tuyệt đối phải tránh xa
những chỗ sau đây:
- Chỗ đình miễu
thờ quỷ thần.
- Gần xóm
làng.
- Gần chỗ mãi
dâm.
- Gần quán
rượu.
- Gần nhà đồ tể.
- Gần bọn cướp
lâu la.
Có tránh
xa những nơi ấy, mới không bị sự xúc não không cần thiết và tránh khỏi sự chê
bai, dị nghị của hàng nhân sĩ trong xã hội. Nhờ vậy, đại chúng mới được hoàn
cảnh, môi trường thuận tiện cho việc an tâm tịnh tu đạo nghiệp.
Trong luật
Tiểu Thừa, Đức Phật dạy quý tỳ kheo khi lập tự viện hay am thất còn phải tránh
xa hai nơi: nạn xứ và phòng xứ, huống chi Bồ Tát là người thực hành công hạnh
tự lợi, lợi tha, lẽ đương nhiên, càng phải xa lìa nạn xứ và phòng xứ.
Trong Luật dạy,
nạn xứ là nơi có ác thú, rắn độc, muỗi mòng, kiến trùng v.v... Các thứ ấy
thường gây sự não loạn, khiến người không thể hành đạo.
Còn phòng xứ là
chỉ phạm vi trong vòng một dặm chung quanh tự viện, am cốc, nếu có giếng nước
nơi mọi người thường lui tới múc nước hay đường sá nơi mọi người qua lại, hoặc
gần sườn núi cheo leo, hay hầm sâu hố thẳm, hoặc gần chỗ nha môn, quan quyền,
chỗ ngoại đạo, chỗ chùa tỳ kheo ni v.v... Những chỗ như vậy thường có chướng
ngại to lớn cho việc tu hành thanh tịnh nên phải tránh xa.
Sau khi tìm được
nơi không có nạn xứ và phòng xứ thì nên tìm vị chủ nhân cuộc đất ấy, giảng nói
Phật pháp, khiến cho họ hoan hỷ phát tâm xả thí, sau đó mới được kiến lập tăng
phường nơi đó. Tuyệt đối không được cưỡng ép, lui tới thường xuyên khuyến hóa
chủ nhân chấp thuận, khiến cho họ thối thất tín tâm đối với Phật pháp.
Thế nên cổ đức
có hai câu răn dạy như sau:
Văn thí như tỵ
trái,
Kiến tăng do
phùng thù.
Dịch:
Nghe nói bố thí
như trốn nợ,
Thấy Tăng đến
nhà tợ kẻ thù.
Nếu đi quyên góp
làm cho thí chủ cảm thấy khó chịu đến mức độ như hai câu diễn tả bên trên thì
làm sao có thể kiến tạo các cơ sở hành đạo được?
Khi Phật còn tại
thế, trong thành Khoáng Dã có rất nhiều tỳ kheo. Vì muốn tạo lập phòng xá để có
nơi cư trú tu hành, các tỳ kheo cùng nhau đến nhà thí chủ khất cầu. Các thí chủ
không thể đáp ứng nên mỗi khi trông thấy quý tỳ kheo từ đằng xa, họ liền vào
nhà đóng cửa, để tránh sự cầu xin của quý thầy. Ngài Ca Diếp thấy vậy bèn đem
việc ấy bạch lên Phật. Đức Phật triệu tập chư tỳ kheo đến quở trách, rồi dạy
rằng:
Vào thời quá khứ
ở bên sông Hằng, có người phạm chí ở đấy tu niệm. Ông thường bị một con rồng ở
dưới sông leo lên quấn quanh thân ông, khiến ông không thể an tâm hành đạo. Ông
quá buồn rầu đến nỗi sanh bệnh.
Ta thấy ông đáng
thương như vậy, bèn đến bảo rằng: - Việc gì mà ông phải buồn rầu đến sanh bệnh
như vậy? Nếu ông muốn rồng đừng quấy phá nữa chỉ cần xin nó viên ngọc dưới cổ
là được.
Phạm chí nghe
lời làm như vậy, quả nhiên rồng không còn đến quấn thân ông nữa.
Phật lại dạy
tiếp rằng:
- Vào thời quá
khứ có quý tỳ kheo tọa thiền trong rừng, mỗi đêm thường bị chim đến kêu la, làm
náo động khiến các thầy không thể tọa thiền.
Quý thầy bị
chướng ngại như vậy, không biết làm thế nào để ở yên được. Phật biết thế bèn
đến bảo quý thầy rằng: “Chim kêu có gì đáng ngại. Các ông muốn chim đừng đến
kêu, chỉ cần xin nó hai cái cánh là được”. Quả nhiên, đàn chim không còn đến
kêu la, làm rối loạn việc tọa thiền của các thầy nữa.
Các ông thử
tưởng, loài điểu thú kia còn không muốn kẻ khác đến cầu xin nó cái gì, huống
chi các ông là người tu hành mà cứ luôn đến nhà người cầu xin thứ này, thứ kia
cho nhiều, làm sao tránh khỏi sự chán ghét của mọi người, họ sẽ không còn muốn
thấy các ông đi khất hóa nữa.
Trong bộ Bồ Tát
Lược Sớ, quyển bảy của tổ Hoằng Tán nói: “Người xuất gia thời nay có những
người mượn việc công để tạo việc riêng cho cá nhân mình. Mượn danh nghĩa chúng
Tăng đi quyên góp để bỏ túi riêng. Thật là một việc làm hoàn toàn mê muội,
không hiểu rõ luật nhân quả. Tuy được hưởng thọ nhất thời, nhưng rồi nghìn kiếp
sau khó mà đền trả. Xài dùng của tín chủ một cách lãng phí rồi, muôn đời khó
tái phục nhân thân. Tổn mình, tổn người mượn hư danh làm chuyện khuyến hóa làm
phước, thật là kẻ đại tặc trong Phật môn!
Tu phước nghiệp
dù có nhiều môn, nhưng việc kiến lập những nơi hành đạo để thành tựu việc dụng
công tu niệm cho người tu hành thì công đức không gì hơn. Vì thế, chẳng những
nên khuyên bảo người làm, mà chính mình cũng cần phải thực hành như vậy. Tuy
nhiên, cũng cần phải tùy theo lực lượng và khả năng của mình, nếu sức mình
không thể làm nổi, thì không nên miễn cưỡng hoặc ép buộc người tạo lập tăng
phường. Tuyệt đối tránh sự làm việc phước đức mà có lẫn chút miễn cưỡng, thì
mới hòng tránh khỏi điều tội lỗi. Vì tinh thần Phật pháp bao giờ cũng hợp tình,
hợp lý, không bao giờ bắt buộc người vào chỗ khó khăn.
Trong bộ Tịch
Quang Phạm Võng Kinh Trực Giải, quyển bốn nói: “Nếu đi quyên tải một cách phi
lý, mượn việc chúng Tăng dùng của công làm của riêng cho mình, mê muội lý nhân
quả, đó là việc thiên đường chưa thành tựu mà địa ngục đã thành tựu được. Tu
phước kiểu đó chi bằng đừng làm để tránh tội thì tốt hơn. Với thật tâm muốn cho
ngôi Tam Bảo được hưng thạnh, minh bạch được lý nhân quả, không có điểm nào sai
lầm mảy may, lìa tướng nhân ngã, thấu rõ ý nghĩa tam luân không tịch. Tu phước
được như vậy mới là người thực hành Bồ Tát đạo”.
Như trên đã nói
về vấn đề tu phước, còn về việc tu huệ thì như thế nào?
Chính là sự tu
tập trí huệ Đại Thừa Bồ Tát. Do đó, kinh văn dạy tiếp theo rằng: “Người Phật tử
nên vì tất cả chúng sanh giảng nói kinh luật Đại Thừa. Nhưng muốn giảng nói
kinh luật Đại Thừa cho người, đầu tiên là tự mình phải có trí lực đầy đủ. Tức
là chính mình đối với kinh luật Đại Thừa phải có chỗ nhận thức đầy đủ và rõ
ràng. Nhược bằng chính mình không hiểu rõ kinh luật thì làm sao có thể vì người
giảng nói một cách thông suốt vô ngại?”
Tất cả kinh luật
đều do Đức Phật tuyên thuyết, nhưng vì sao ở đây chỉ nhất quyết bảo phải giảng
nói kinh luật Đại Thừa?
Vì kinh luật Đại
Thừa có công năng sanh thiện diệt ác, lại còn tiêu tội được phước, vì bản thân
của Bồ Tát thuộc về Đại Thừa, nên tất nhiên phải dẫn dắt chúng sanh tu tập trí
huệ Đại Thừa.
Vì lý do ấy nên
phải vì chúng sanh giảng nói kinh luật Đại Thừa. Nói tổng quát, tu huệ là như
vậy. Sau đây xin giảng riêng từng điểm.
Kinh văn
dạy phải giảng nói kinh luật Đại Thừa, nhưng trong những trường hợp đặc biệt
nào mới thật sự nên giảng nói?
Đó là
những trường hợp:
1. Lúc có
tật bịnh: Vì kinh luật Đại Thừa có công nặng trị liệu túc bệnh vô minh, là thứ
bệnh có từ vô thỉ của tất cả chúng sanh, đồng thời diệt trừ tất cả ác nghiệp
tội báo, làm cho chúng sanh thân tâm được an ổn, khoái lạc.
2. Lúc
nước có tai nạn: lúc quốc gia bị nước ngoài xâm lăng, vì công đức của kinh Đại
Thừa có công năng bảo hộ quốc gia, diệt trừ các tai nạn và các thứ oán
tặc.
3. Khi gặp
nạn giặc cướp: Vì công đức của kinh Đại Thừa có thể diệt trừ lục tặc ở bên
trong và các giặc cướp ở bên ngoài. Nhờ giảng nói kinh luật Đại Thừa làm cho
bọn giặc cướp chấm dứt ác tâm, sanh khởi từ niệm, không còn nhiễu loạn, gây sự
thống khổ cho nhân sanh.
Ngoài những
trường hợp nêu trên, khi các tôn vong quá cố của mình khuất tịch, như ngày cha
mẹ, anh em, hòa thượng, a xà lê khuất tịch, và mỗi tuần thất nhẫn đến tuần thất
thứ bảy, cũng nên giảng nói kinh luật Đại Thừa.
Vì công đức của
kinh luật Đại Thừa này có thể tư trợ cho thần thức của các vong nhân ở nơi minh
giới được giải thoát tất cả sự thống khổ chốn u minh, hoặc thác sanh vào cõi
trời, cõi người, hưởng thọ phước báo, hoặc được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ,
hoặc cuối cùng được chứng quả vô thượng Bồ Đề.
Vì pháp lực Đại
Thừa không thể nghĩ bàn, chẳng những có thể cứu vãn các tai nạn hiện tại, mà
còn giúp ích cho chúng sanh chốn u đồ. Vì thế, vào ngày quá cố của các tiên
vong và trong những ngày tuần thất, nếu không vì các vong nhân quá cố giảng nói
kinh luật Đại Thừa thì các vong nhân ở chốn U Minh không được nghe pháp, đó
không phải là bị mất sự lợi ích vi diệu thậm thâm hay sao?
Thế nên cần phải
giảng kinh luật Đại Thừa để thể hiện tâm hiếu thảo đối với các tôn vong, và
cũng để thấy rõ ý nghĩa chân thực của “Hiếu gọi là giới”.
Hơn nữa, trong
tất cả những trai hội cầu nguyện, cũng cần phải đọc tụng, giảng nói kinh luật
Đại Thừa. Vì công đức thù thắng của kinh luật này có thể thỏa mãn tất cả chỗ
mong cầu và sở nguyện của chúng sanh, không để cho chúng sanh không được lợi
ích gì hết.
Hoặc những lúc
đi làm ăn, nghĩa là phải lo cho sự sống. Mọi người trên thế gian này có thân
mạng, đương nhiên phải vì sự sống mà bôn
Vì kinh luật Đại
Thừa có công năng làm đầy đủ pháp tài như ý, có thể đem lại sự lợi ích về tài
bảo cho chúng sanh, chu cấp, giúp đỡ cho thế gian không bị thiếu thốn.
Cho nên tín đồ
các quốc gia thuộc phái Phật giáo Nam Truyền, trước khi khai trương, làm ăn,
buôn bán đều phải thỉnh chư Tăng tụng kinh, niệm Phật và rưới thánh thủy, chính
là do nơi tinh thần này. Rất tiếc cho Phật giáo Trung Hoa từ xưa đến nay không
tin hiểu điều này, nên nhiều nhân sĩ trong xã hội lầm nhận và cho rằng Phật
giáo là một tôn giáo chỉ dành riêng cho người đã chết, đối với người sống dường
như không được lợi ích gì, có thể nói, đây là một điều đáng tiếc vô cùng!
Hoặc khi bị tai
nạn hỏa hoạn đốt thiêu.
Hoặc lúc bị lụt
lớn trôi chìm.
Hoặc khi bị bão
lớn thổi ghe thuyền.
..những tai nạn
như thế cũng cần nên đọc tụng, giảng nói kinh Đại Thừa.
Trong khi bạn bị
đại hỏa thiêu đốt, kinh Đại Thừa có công năng giúp bạn được giải thoát tất cả
sự nhiệt não, được sự mát mẻ lớn lao. Lại còn có thể diệt trừ lửa sân hận trong
nội tâm, không bị nó thiêu đốt rừng công đức của bạn.
Lúc bạn bị
lụt to trôi nổi, kinh luật Đại Thừa giúp bạn tránh khỏi cuồng phong, sóng lớn,
kích động khổ não, và được sóng yên gió lặng, còn thể giải trừ gió vô minh của
bạn, khiến cho bạn đang bị chơi vơi trong bể khổ, bỗng được ngồi yên ổn trên
pháp thuyền Bát Nhã, cứu độ tất cả chúng sanh, thẳng đến bờ kia Niết Bàn. Thế
nên, cần phải đọc tụng, giảng nói kinh Đại Thừa.
Hoặc khi
vào trong sông to, biển lớn, gặp phải nạn quỷ La Sát v.v... cũng nên đọc tụng
kinh luật Đại Thừa. Vì kinh luật Đại Thừa có công đức rất thù thắng có thể
khiến cho quỷ la sát tăng trưởng thiện tâm, dứt bỏ tâm hãm hại người, lại còn
phát tâm hộ trì Phật pháp.
Nhẫn đến nếu
muốn diệt trừ tất cả tội báo, muốn tránh khỏi tam ác, bát nạn, thất nghịch cũng
nên giảng nói kinh luật Đại Thừa.
Vì tội báo của
chúng sanh phải cảm thọ, không phải là một hay hai thứ mà là rất nhiều thứ, cho
nên nói là “tất cả tội báo”. Kinh luật Đại Thừa có thể nói là một bộ sách Đại
Ân Xá của chốn địa ngục, diệt trừ tất cả tội chướng, nên diệt trừ được tất cả
tội báo.
“Tam ác” là chỉ
cho tam ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, là những nơi chúng sanh bị thọ
khổ. Vì kinh luật Đại Thừa này là nguồn gốc đoạn diệt ác pháp, sanh trưởng
thiện pháp, nên có thể khiến chúng sanh ra khỏi tam ác đạo và siêu sanh lên cõi
Nhân Thiên.
“Bát nạn” là tám
thứ nạn như thế trí biện thông, sanh trước Phật hay sau Phật v.v... Vì kinh
luật Đại Thừa này có công đức thù thắng, có thể chuyển họa hoạn thành phước
đức, chuyển tai nạn thành kiết tường, nên có thể vượt ra khỏi các nạn và được
tất cả các quả báo thù thắng.
“Thất nghịch” là
bảy thứ tội nghịch như giết cha, giết mẹ, giết A La Hán v.v... Vì kinh luật Đại
Thừa là nguồn gốc của hiếu thuận, cho nên có thể diệt trừ tội báo của tội thất
nghịch.
Hoặc là bị gông
cùm, xiềng xích trói buộc tay chân. Vậy phải nên giảng nói, đọc tụng kinh luật
Đại Thừa. Vật tròng vào cổ gọi là gông, nơi tay chân gọi là cùm, nơi thân mình
gọi là xiềng xích. Những thứ ấy trói buộc người, không cho tự do hoạt
động.
Nhưng tại sao
phải lâm vào cảnh trói buộc ấy?
Nhìn thoáng qua,
có thể cho là do những nguyên nhân bên ngoài, nhưng xét kỹ thì đó chính là do
nghiệp lực bên trong chiêu cảm, nên phải mang lấy những sự trói buộc ấy.
Kinh luật Đại
Thừa có tất cả những diệu dụng giải thoát, nên có thể giải thoát tất cả khổ đau
bên trong lẫn bên ngoài đang trói buộc thân tâm nên phải mang lấy sự trói buộc
ấy.
Hoặc có những
người nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều bệnh tật, đều nên đọc tụng
giảng nói kinh luật Đại Thừa.
“Nhiều dâm” là
chỉ cho những người tâm dâm dục quá nặng, “nhiều sân” là tâm sân hận lẫy lừng,
“nhiều ngu si” là vô cùng ngu si, “nhiều tật bịnh” là đau bệnh liên miên, nặng
nề, luôn bị các ma bệnh ràng buộc khổ não. Kinh luật Đại Thừa sẽ làm phát khởi
tâm thanh tịnh, tâm từ bi, tâm trí huệ. Nên nếu đọc tụng, giải nói kinh luật
Đại Thừa, sẽ được phát khởi tâm thanh tịnh diệt trừ tâm đa dâm, tâm từ bi diệt
trừ tâm đa sân, tâm trí huệ diệt trừ tâm ngu si. Vì thế, công đức giảng nói
kinh luật Đại Thừa rất là thù thắng.
Vì kinh luật Đại
Thừa này xuất sanh tất cả các thiện pháp môn, nên có thể trị liệu tất cả các
bệnh trần lao, hiểm nghèo của chúng sanh. Do đó nếu thường hay đọc tụng, giảng
nói kinh luật Đại Thừa, thì bất luận thế nào, cả mình và người đều được lợi
ích.
Theo đúng luật,
một vị tân học Bồ Tát phải tinh tấn tu nhiều phước huệ. Nếu hàng tân học Bồ Tát
không thực hành điều này, nghĩa là không tu phước huệ thì sẽ phạm khinh cấu
tội.
Giới này thất
chúng Phật tử đều phải tuân giữ, nhưng phần quy định cho Đại Thừa và Tiểu Thừa
không giống nhau.
- Đối với Tiểu
Thừa Thanh Văn, Đức Phật chế định lúc kiết hạ an cư, quý tỳ kheo phải sửa sang,
tu bổ phòng xá để có nơi an ổn tu tập. Ngoài thời gian này thì không ở trong
hạn lệ Phật quy định.
- Còn đối với
Đại Thừa, Đức Phật dạy tất cả thời khóa đều phải tu phước nghiệp. Nếu gặp những
cơ duyên nên làm mà không làm, tùy theo mỗi việc mà kết tội khinh cấu.
Nếu đem Tam Tụ
Tịnh Giới phối hợp với giới này thì có sự tương ứng như sau:
- Giảng nói kinh
luật thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Phước huệ song
tu thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Khuyến hóa tất
cả chúng sanh tu phước huệ là Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Kinh
văn
1. Phiên
âm:
Như thị cửu giới
ưng đương học, kính tâm phụng trì. Phạm Đàn phẩm đương giảng minh.
2. Dịch
nghĩa:
Chín giới như
thế cần phải học, hết lòng kính trọng phụng trì, trong phẩm Phạm Đàn có giảng
rõ.
Lời giảng
Ba câu kinh văn
trên là tóm lược kết khuyến chín giới trên. Hành giả đối với chín giới này cần
phải đúng như pháp tu học, từng giờ, từng khắc phải hết lòng kính trọng phụng
trì.
Trên đây chỉ là
lược giảng, nếu muốn biết thêm, nên xem trong phẩm Phạm Đàn có giảng rõ.