Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh A Di Đà

14 Tháng Chín 201000:00(Xem: 37212)
Kinh A Di Đà

KINH PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ


Hán dịch: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Tỳ Kheo Thích Minh Định dịch ra chữ Việt



CÚNG HƯƠNG


Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mêChóng quay về bờ giác.


TÁN PHẬT


Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

ĐẢNH LỄ


Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trụ Tam-Bảo. (1 lạy)

 Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại-Hải-Chúng Bồ-Tát.

(1 lạy)

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên
Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần)



Phật Nói Kinh A Di Ðà

Tôi nghe như vầy : Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng, một ngàn hai trăm năm mươi người tụ hội, đều là các bậc đại A La Hán, hàng trí thức trong chúng : Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hi La, Li Bà Ða, Châu Lợi Bàn Ðà Già, Nan Ðà, A Nan Ðà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Ðề, Tân Ðầu Lư Phả La Ðoạ, Ca Lưu Ðà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Ðà, các vị đại đệ tử như vậy. Cùng với các vị đại Bồ Tát : Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Bồ Tát A Dật Ða, Bồ Tát Càn Ðà A Ðề, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, các vị đại Bồ Tát như vậy, và Thích Ðề Hoàn Nhơn, vô lượng chư Thiên đại chúng đều tụ hội.
 

Bấy giờ, Ðức Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất rằng : Từ đây qua phương tây, hơn mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, cõi nước đó có Ðức Phật hiệuA Di Ðà, hiện nay đang thuyết pháp. Xá Lợi Phất ! Vì sao cõi đó tên là Cực Lạc ? Vì cõi đó chúng sinh chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng thọ các sự vui, nên gọi là Cực Lạc.


Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc có bảy tầng lan can, bảy tầng mành lưới, bảy tầng hàng cây, đều do bốn thứ báu bao bọc chung quanh, cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc.

Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc có ao làm bằng bảy báu, nước có tám thứ công đức, đầy dẫy trong đó, đáy ao dùng cát vàng rải làm đất, bốn bên thềm đường, dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp làm thành, phía trên có lầu các, cũng dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, châu đỏ, mã não nghiêm sức. Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, hoa màu xanh thì ánh sáng xanh, màu vàng thì ánh sáng vàng, màu đỏ thì ánh sáng đỏ, màu trắng thì ánh sáng trắng, tốt đẹp thơm tho trong sạch. Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời, mưa xuống hoa trời Mạn Ðà La. Chúng sinh cõi đó, thường vào buổi sáng sớm, đều lấy túi y đựng đầy hoa đẹp, đem đi cúng dường vạn ức Ðức Phật trong mười phương, khi đến bữa ăn bèn trở về nước của mình, ăn cơm xong đi kinh hành. Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu như : Chim hạt trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn nói pháp : năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo, các pháp như vậy thảy, chúng sinh trong cõi đó, nghe tiếng đó rồi, đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá Lợi Phất ! Ông chớ cho rằng những thứ chim đó là do tội báo sinh ra. Vì sao ? Vì cõi Phật đó chẳng có ba đường ác. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó tên ba đường ác còn không có, hà huống là có thật. Những thứ chim đó đều do Ðức Phật A Di Ðà, muốn khiến cho pháp âm tuyên lưubiến hoá làm ra. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu, và các mành lưới báu, vang ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn thứ nhạc, đồng thời hoà tấu, người nghe tiếng đó rồi, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Xá Lợi Phất ! Ý ông thế nào, sao Ðức Phật đó hiệu là A Di Ðà ? Xá Lợi Phất ! Ðức Phật đó quang minh vô lượng, chiếu sáng khắp mười phương thế giới, chẳng có chướng ngại, nên hiệu là A Di Ðà. Lại nữa Xá Lợi Phất ! Tuổi thọ của Ðức Phật đó, và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Ðà. Xá Lợi Phất ! Ðức Phật A Di Ðà thành Phật đến nay đã mười kiếp rồi. Lại nữa Xá Lợi Phất ! Ðức Phật đó có vô lượng vô biên hàng đệ tử Thanh Văn, đều là A La Hán, chẳng phải dùng tính toán mà biết được, các chúng Bồ Tát cũng lại như thế. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc, chúng sinh được vãng sinh về đó, đều là những vị bất thối chuyển, trong đó có nhiều vị còn một đời nữa sẽ được bổ xứ, chẳng phải dùng tính toán có thể biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên để nói. Xá Lợi Phất ! Chúng sinh nghe rồi, phải nên phát nguyện, nguyện sinh về cõi đó. Vì sao ? Vì được ở chung một chỗ với những bậc thượng thiện nhơn. Xá Lợi Phất ! Không thể dùng chút ít căn lành phước đức nhân duyên, mà được sinh về cõi đó.

Xá Lợi Phất ! Nếu có người thiện nam thiện nữ nào, nghe nói về Ðức Phật A Di Ðà, mà trì danh hiệu của Ngài : hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tán loạn, thì người đó khi lâm chung, sẽ được Ðức Phật A Di Ðà và các Thánh chúng, hiện ra ở trước người đó, lúc người đó lâm chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Xá Lợi Phất ! Ta thấy lợi ích đó, nên nói lời nầy. Nếu có chúng sinh nghe nói như thế, phải nên phát nguyện, sinh về cõi đó.

Xá Lợi Phất ! Như ta hôm nay, khen ngợi sự lợi ích công đức không thể nghĩ bàn của Ðức Phật A Di Ðà.

Phương đông cũng có Ðức Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Ðại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm, các Ðức Phật như vậy nhiều như số cát sông Hằng, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng : Chúng sinh các ông, nên tin sự khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn nầy, Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Thế giới phương nam, có Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Ðại Diệm Kiên, Phật Tu Di Ðăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn, các Ðức Phật như vậy nhiều như số cát sông Hằng, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng : Chúng sinh các ông, nên tin sự khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn nầy, Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Thế giới phương tây, có Ðức Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Ðại Quang, Phật Ðại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang, các Ðức Phật như vậy nhiều như số cát sông Hằng, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng : Chúng sinh các ông, nên tin sự khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn nầy, Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Thế giới phương bắc, có Ðức Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sinh, Phật Võng Minh, các Ðức Phật như vậy nhiều như số cát sông Hằng, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng : Chúng sinh các ông, nên tin sự khen ngợi công đức công đức không thể nghĩ bàn nầy, Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Thế giới phương dưới, có Ðức Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Ðạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp, các Ðức Phật như vậy nhiều như số cát sông Hằng, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng : Chúng sinh các ông, nên tin sự khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn nầy, Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Thế giới phương trên, có Ðức Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Ðại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Sa La Thụ Vương, Phật Bảo Hoa Ðức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn, các Ðức Phật như vậy nhiều như số cát sông Hằng, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng : Chúng sinh các ông, nên tin sự khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn nầy, Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Ý ông thế nào, vì sao gọi là Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm ? Xá Lợi Phất ! Nếu có người thiện nam người thiện nữ nào, nghe Kinh nầy mà thọ trì, và nghe danh hiệu của các Ðức Phật, thì các thiện nam thiện nữ đó, đều được tất cả chư Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thế Xá Lợi Phất, các ông nên tin thọ lời ta nói, và lời của các Ðức Phật nói.

Xá Lợi Phất ! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sinh về cõi nước của Ðức Phật A Di Ðà, thì những người đó, đều được không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nơi cõi nước đó, hoặc đã sinh về, hoặc đang sinh về, hoặc sẽ sinh về. Bởi thế Xá Lợi Phất, những người thiện nam thiện nữ, nếu có người tin, phải nên phát nguyện, sinh về cõi nước đó.

Xá Lợi Phất ! Như ta hôm nay, khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của các Ðức Phật, các Ðức Phật đó cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta, mà nói rằng : Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni làm được việc rất khó ít có, ở trong cõi Ta Bà, đời ác năm trược : kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, mà đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì các chúng sinh nói pháp mà tất cả thế gian khó tin. Xá Lợi Phất ! Nên biết ta ở trong đời ác năm trược, thực hành việc khó nầy, mà đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì tất cả thế gian nói pháp khó tin nầy, đó là rất khó.

Ðức Phật nói Kinh nầy rồi, Xá Lợi Phất và các Tỳ Kheo, tất cả thế gian trời người A tu la thảy, được nghe Phật nói, đều hoan hỉ tin thọ, lễ Phật mà lui ra.


Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh


Bồ Tát Quán Tự Tạithực hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Ða thì, thấy rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách.

 
Xá Lợi Tử ! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc ; sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.

 
Xá Lợi Tử ! Các pháp đó không tướng, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới ; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết ; không có khổ tập diệt đạo, không có trí huệ cũng không đắc được.

 
Vì không chỗ đắc, nên Bồ Tát nương vào Bát Nhã Ba La Mật, tâm không quái ngại, vì không quái ngại, nên không có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đạt đến Niết Bàn. Các Ðức Phật ba đời, đều nương vào Bát Nhã Ba La Mật, cho nên đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

 
Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Ða là Chú đại thần, là Chú đại minh, là Chú vô thượng, là Chú vô đẳng đẳng, trừ được tất cả khổ, chân thật không hư.

 
Cho nên nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, bèn nói Chú rằng : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.(3 lần)



Vãng Sinh Tịnh Ðộ Thần Chú

Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.(3 lần)


Phật A Di Ðà thân sắc vàng

Tướng tốt quang minh không ai bằng

Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di

Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển

Trong quang minhvô số hoá Phật

Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh

Chín phẩm sen vàng lên bờ giác



Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.

Nam Mô A Di Ðà Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.(3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)
 

HỒI HƯỚNG


Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.


Tam quy y


Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12057)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10752)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9936)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10162)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15326)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14317)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12086)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15331)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13152)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14785)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12657)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16533)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19628)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12646)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12243)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11827)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10884)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13483)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11934)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11832)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12752)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13599)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12881)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12159)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12194)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11457)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19670)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24575)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10672)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant