Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giới Thiệu Tác Phẩm - Đào Nguyên

24 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5953)
Giới Thiệu Tác Phẩm - Đào Nguyên

 

Thiền Sư Đức Huy Trùng Biên
SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng dịch Việt
Nhà Xuất Bản Phương Đông PL 2552-DL 2008 No 2025 Trọn Bộ 2 Tập

 

Giới thiệu tác phẩm:
SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

 

sactubachtruongthanhquy-bia-smĐại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō) đã dành riêng một Bộ: Bộ Chư Tông - gồm hơn bốn tập, từ cuối tập 44 và các tập 45, 46, 47, 48 để tập hợp giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của các Tông phái thuộc Phật giáo Trung Hoa, mở đầu là tác phẩm Đại Thừa Nghĩa Chương (N0 1851) của Đại sư Tuệ Viễn (Tuỳ) và sau hết là tác phẩm Sắc tu Bách Trượng thanh quy (N0 2025) do Thiền sư Đức Huy (Nguyên) trùng biên. Tất nhiên, hầu hết các tác phẩm thuộc Bộ Chư Tông kể trên đều do các Đại sư, các Học giả của Phật học Trung Hoa trứ thuật, sáng táchiển nhiên những tác phẩm ấy có giá trị, có những ảnh hưởng nhất định. Do vậy, trong quá trình hơn 50 năm Việt dịch để hình thành cùng hoàn thành Đại Tạng Kinh Việt Nam, một số trứ thuật, sáng tác thuộc Bộ Chư Tông ấy đã được Việt dịch. Chúng ta có thể kể: Tam Luận Huyền Nghĩa (N0 1852), Đại Thừa Huyền Luận (N0 1853), Nhị Đế Nghĩa (N0 1854-Đại sư Cát Tạng), Bảo Tạng Luận (N0 1857), Triệu Luận (N0 1858-Đại sư Tăng Triệu), Triệu Luận Sớ (N0 1859- Đại sư Nguyên Khang), Bát Thức Quy Củ Bổ Chú (N0 1865- Đại sư Phổ Thái), Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương Hoàng Sám, N0 1909), Từ Bi Thủy Sám (N0 1910), Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn (N0 1924- Đại sư Tuệ Tư), Bích Nham Lục (N0 2003), Vô Môn Quan (N0 2005- Đại sư Tông Thiệu), Pháp Bảo Đàn Kinh (N0 2008), Thiếu Thất Lục Môn (Sáu cửa vào động Thiếu Thất, N0 2009), Tín Tâm Minh (N0 2010- Đại sư Tăng Xán), Chứng Đạo Ca (N0 2014- Đại sư Huyền Giác), Thiền Lâm Bảo Huấn (N0 2022- Đại sư Tịnh Thiện trùng tập), Truy Môn Cảnh Huấn (N0 2029- Đại sư Như Cẩm tục tập), Thiền Quan Sách Tấn (N0 2024- Đại sư Châu Hoành) v.v…Và hôm nay lại them một tác phẩm nữa đã được Việt dịch: Đó là bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy, do Hòa thượng Thích Phước Sơn cùng nhà nghiên cứu Phật học Lý Việt Dũng đồng dịch.

Sách Bách Trượng thanh quy vốn do Đại sư Bách Trượng Hoài Hải (720- 784) biên soạn vào thế kỷ thứ 8, đời Đường, là một nỗ lực nhằm tập hợp, hệ thống hoá, làm cương lĩnh sinh hoạt cho Tăng Ni tại các Tòng lâm ở Trung Hoa, sau khi Phật giáo đã du nhập và phát triển nơi đất nước rộng lớn này gần 7 thế kỷ. Bách Trượng Thanh Quy đã được lưu hành rộng khắp nơi, có giá trị như một kim chỉ nam hướng dẫn mọi sinh hoạt trong đời sống của người xuất gia, trải qua mấy trăm năm. Nhưng rồi Bách Trượng thanh quy đã bị thất lạc. Đến thập niên 30 của thế kỷ 14, đời vua Thuận Đế nhà Nguyên, thiền sư Đông Dương Đức Huy – cháu nối dòng pháp đời thứ 18 của tổ Bách Trượng đã tạo được sự hỗ trợ tốt đẹp từ triều đình nhà Nguyên, căn cứ theo các bộ Thanh Quy hiện hành, đối chiếu với truyền thống sinh hoạt nơi Tổ đình núi Bách Trượng, tham khảo các tài liệu đã trích dẫn từ Bách Trượng thanh quy, tu chính, bổ khuyết để soạn thành Bộ Thanh Quy mới mang tính hoàn chỉnh, đó là bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy nổi tiếng, truyền đến ngày nay.

Bản Việt dịch Sắc tu Bách Trượng thanh quy của Hòa thượng Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng căn cứ theo bản hiện có trong Taishō, N0 2025, T.48, được phân làm hai tập:

Tập 1: Từ quyển 1 đến quyển 4 gồm 6 chương: Chúc Ly, Báo Ân, Báo Bổn, Tôn Tổ, Trụ Trì, Lưỡng Tự.

Tập 2: Từ quyển 5 đến quyển 8, gồm 3 chương: Đại Chúng, Các Ngày Vía và Pháp Khí. Nơi mỗi chương được chia làm nhiều tiểu mục. Mỗi một tiểu mục, nhị vị Dịch giả đều thực hiện:

- In nguyên bản chữ Hán.
- Phiên âm.
- Dịch nghĩa.

Phần chú thích được tập hợp hầu hết các thuật ngữ trong thiền môn, sắp xếp theo mẫu tự ABC đặt ở cuối sách. Ngoài ra, phần Phụ lục gồm 1 bài Minh, 1 bài Ký, 2 bài Tựa cũng được Việt dịch, giới thiệu.

Tính chất “Sắc tu” của sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy được thể hiện rõ nơi hai chương đầu (Chúc ly, Báo ân) thuộc quyển 1, với các tiểu mục như: Lễ chúc thọ Thánh hoàng, lễ chúc thọ Hoàng thái tử…(chương Chúc Ly). Các ngày Giỗ kỵ Quốc gia, Cầu đảo…(chương Báo Ân). Hai chương Báo Bổn, Tôn Tổ thuộc quyển 2 gồm 6 tiểu mục: Lễ Phật Đản sinh, Lễ Phật Thành đạoBát Niết bàn (chương Báo Bổn), Lễ giỗ kỵ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lễ giỗ kỵ Tổ Tôn Tổ) nêu rõ về các ngày Lễ, ngày Giỗ mang tính căn bản, tính nhớ nguồn của người tu Phật nơi các Tự viện. Từ chương 5 (Trụ Trì) đến chương 9 (Pháp Khí) là phần chính của sách, nên sự ghi nhận, mô tả ở đấy là rất chi tiết, đầy đủ. Chẳng hạn như chương Trụ trì gồm 6 phần: công việc hằng ngày của Trụ trì, Thỉnh tân Trụ trì, Vào Tự viện mới, Thoái viện, Qua đời, Thương nghi tiến cứ tân Trụ trì, với hơn 50 tiểu mục. Hoặc chương Đại chúng (Chương 7) gồm 23 phần với hơn 30 tiểu mục. Chương Pháp khí (chương 9) gồm 7 phần (Chuông, Bảng, Mõ, Chuỳ, Khánh, Não bạc, Trống) riêng Chuông có 3 tiểu mục, Trống có 6 tiểu mục v.v…

Một điều cần được nhấn mạnh trong những tư duy liên hệ ở đây là: Bên Trung Hoa, sách Bách Trượng thanh quy của Đại sư Hoài Hải ra đời sau khi Phật Giáo Trung Quốc đã có đến 700 năm lịch sử. Và khi Sắc tu Bách Trượng thanh quy được ấn hành, phổ biến thì Phật giáo Trung Quốc đã tồn tại cùng phát triển trên 1300 năm. Ở Việt Nam, chỉ kể về thời hiện đại, từ khi có phong trào chấn hưng Phật giáo dấy khởi khắp ba miền vào thập niên 30 của thế kỷ 20, cùng với công việc chuyển dịch để hình thành Đại tạng Kinh Việt Nam, hơn 70 năm sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy mới được Việt dịch. Thời gian rồi cứ trôi đi. Rất nhiều, rất nhiều hình tướng rồi cũng đổi thay chuyển biến. Nhưng có những thứ là bất biến, là thường trụ. Vì thường trụ trên nẻo vô thường nên cần phải được duy trì, bảo vệ. Ở đây chính là tính chất “Thanh quy”, tính chất “Thanh tịnh hoà hợp” trong sinh hoạt nơi các Tự viện. Đó có lẽ là bức thông điệp ngắn gọn mà sâu xa của sách Sắc tu Bách Trượng thanh tuy muốn gởi đến cho hàng Phật tử xuất gia trong mọi thế hệ, thời đại.

Bàn về các giáo phái của Phật giáo phát triển toàn thịnh, Giáo sư Tưởng Duy Kiều (1872-?) xác nhận: “Phật giáo tuy xuất xứ tại Ấn độ nhưng các giáo phái được mở mang rực rỡ đặc biệt và sự nghiên cứu tổ chức có hệ thống, chúng ta thấy chỉ có ở nước Trung hoa”. (Đại cương triết học Phật giáo, Thích Đạo Quang dịch, 1958, trang 61). Học giả Phạm Công Thiện đã đánh giá về 10 Huyền Môn của Tông Hoa Nghiêm: “Tất cả siêu hình học, tất cả triết học, tất cả ý niệm, tất cả hệ thống tư tưởng của phương Đông và phương Tây, tất cả hệ thống tư tưởng từ Platon, Aristote v.v… đều là một phần, một mảnh trong 10 Huyền Môn trên”. (Hố Thẳm Tư Tưởng, Nhà xuất bản An Tiêm, 1967, trang 146).

Những nêu dẫn như thế giúp chúng ta thấy, Đại Tạng Kinh Việt Nam, để có được sự phong phú ngoài công việc biên dịch ba tạng Kinh, Luật, Luận theo hệ Nam truyền và Bắc truyền cần có sự góp mặt của một số tác phẩm tiêu biểu thuộc các bộ sớ giải, chư tông, sử truyện thuộc Phật giáo Trung Hoa như Taishō đã tập hợp. Mong rằng sau Sắc tu Bách Trượng thanh quy chúng ta sẽ tiếp tục đón nhận những tác phẩmgiá trị khác được Việt dịch.

Tháng 10 năm 2008
Đào Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14092)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10840)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11975)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33628)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11317)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12888)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13028)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17862)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18950)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12518)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13122)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11791)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11678)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12734)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12614)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13928)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12907)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13266)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11708)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11700)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12308)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11939)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11975)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16089)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12858)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12206)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13218)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12466)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11794)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11238)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11726)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant