Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giới Thiệu Tác Phẩm - Đào Nguyên

24 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5951)
Giới Thiệu Tác Phẩm - Đào Nguyên

 

Thiền Sư Đức Huy Trùng Biên
SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng dịch Việt
Nhà Xuất Bản Phương Đông PL 2552-DL 2008 No 2025 Trọn Bộ 2 Tập

 

Giới thiệu tác phẩm:
SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

 

sactubachtruongthanhquy-bia-smĐại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō) đã dành riêng một Bộ: Bộ Chư Tông - gồm hơn bốn tập, từ cuối tập 44 và các tập 45, 46, 47, 48 để tập hợp giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của các Tông phái thuộc Phật giáo Trung Hoa, mở đầu là tác phẩm Đại Thừa Nghĩa Chương (N0 1851) của Đại sư Tuệ Viễn (Tuỳ) và sau hết là tác phẩm Sắc tu Bách Trượng thanh quy (N0 2025) do Thiền sư Đức Huy (Nguyên) trùng biên. Tất nhiên, hầu hết các tác phẩm thuộc Bộ Chư Tông kể trên đều do các Đại sư, các Học giả của Phật học Trung Hoa trứ thuật, sáng táchiển nhiên những tác phẩm ấy có giá trị, có những ảnh hưởng nhất định. Do vậy, trong quá trình hơn 50 năm Việt dịch để hình thành cùng hoàn thành Đại Tạng Kinh Việt Nam, một số trứ thuật, sáng tác thuộc Bộ Chư Tông ấy đã được Việt dịch. Chúng ta có thể kể: Tam Luận Huyền Nghĩa (N0 1852), Đại Thừa Huyền Luận (N0 1853), Nhị Đế Nghĩa (N0 1854-Đại sư Cát Tạng), Bảo Tạng Luận (N0 1857), Triệu Luận (N0 1858-Đại sư Tăng Triệu), Triệu Luận Sớ (N0 1859- Đại sư Nguyên Khang), Bát Thức Quy Củ Bổ Chú (N0 1865- Đại sư Phổ Thái), Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương Hoàng Sám, N0 1909), Từ Bi Thủy Sám (N0 1910), Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn (N0 1924- Đại sư Tuệ Tư), Bích Nham Lục (N0 2003), Vô Môn Quan (N0 2005- Đại sư Tông Thiệu), Pháp Bảo Đàn Kinh (N0 2008), Thiếu Thất Lục Môn (Sáu cửa vào động Thiếu Thất, N0 2009), Tín Tâm Minh (N0 2010- Đại sư Tăng Xán), Chứng Đạo Ca (N0 2014- Đại sư Huyền Giác), Thiền Lâm Bảo Huấn (N0 2022- Đại sư Tịnh Thiện trùng tập), Truy Môn Cảnh Huấn (N0 2029- Đại sư Như Cẩm tục tập), Thiền Quan Sách Tấn (N0 2024- Đại sư Châu Hoành) v.v…Và hôm nay lại them một tác phẩm nữa đã được Việt dịch: Đó là bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy, do Hòa thượng Thích Phước Sơn cùng nhà nghiên cứu Phật học Lý Việt Dũng đồng dịch.

Sách Bách Trượng thanh quy vốn do Đại sư Bách Trượng Hoài Hải (720- 784) biên soạn vào thế kỷ thứ 8, đời Đường, là một nỗ lực nhằm tập hợp, hệ thống hoá, làm cương lĩnh sinh hoạt cho Tăng Ni tại các Tòng lâm ở Trung Hoa, sau khi Phật giáo đã du nhập và phát triển nơi đất nước rộng lớn này gần 7 thế kỷ. Bách Trượng Thanh Quy đã được lưu hành rộng khắp nơi, có giá trị như một kim chỉ nam hướng dẫn mọi sinh hoạt trong đời sống của người xuất gia, trải qua mấy trăm năm. Nhưng rồi Bách Trượng thanh quy đã bị thất lạc. Đến thập niên 30 của thế kỷ 14, đời vua Thuận Đế nhà Nguyên, thiền sư Đông Dương Đức Huy – cháu nối dòng pháp đời thứ 18 của tổ Bách Trượng đã tạo được sự hỗ trợ tốt đẹp từ triều đình nhà Nguyên, căn cứ theo các bộ Thanh Quy hiện hành, đối chiếu với truyền thống sinh hoạt nơi Tổ đình núi Bách Trượng, tham khảo các tài liệu đã trích dẫn từ Bách Trượng thanh quy, tu chính, bổ khuyết để soạn thành Bộ Thanh Quy mới mang tính hoàn chỉnh, đó là bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy nổi tiếng, truyền đến ngày nay.

Bản Việt dịch Sắc tu Bách Trượng thanh quy của Hòa thượng Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng căn cứ theo bản hiện có trong Taishō, N0 2025, T.48, được phân làm hai tập:

Tập 1: Từ quyển 1 đến quyển 4 gồm 6 chương: Chúc Ly, Báo Ân, Báo Bổn, Tôn Tổ, Trụ Trì, Lưỡng Tự.

Tập 2: Từ quyển 5 đến quyển 8, gồm 3 chương: Đại Chúng, Các Ngày Vía và Pháp Khí. Nơi mỗi chương được chia làm nhiều tiểu mục. Mỗi một tiểu mục, nhị vị Dịch giả đều thực hiện:

- In nguyên bản chữ Hán.
- Phiên âm.
- Dịch nghĩa.

Phần chú thích được tập hợp hầu hết các thuật ngữ trong thiền môn, sắp xếp theo mẫu tự ABC đặt ở cuối sách. Ngoài ra, phần Phụ lục gồm 1 bài Minh, 1 bài Ký, 2 bài Tựa cũng được Việt dịch, giới thiệu.

Tính chất “Sắc tu” của sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy được thể hiện rõ nơi hai chương đầu (Chúc ly, Báo ân) thuộc quyển 1, với các tiểu mục như: Lễ chúc thọ Thánh hoàng, lễ chúc thọ Hoàng thái tử…(chương Chúc Ly). Các ngày Giỗ kỵ Quốc gia, Cầu đảo…(chương Báo Ân). Hai chương Báo Bổn, Tôn Tổ thuộc quyển 2 gồm 6 tiểu mục: Lễ Phật Đản sinh, Lễ Phật Thành đạoBát Niết bàn (chương Báo Bổn), Lễ giỗ kỵ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lễ giỗ kỵ Tổ Tôn Tổ) nêu rõ về các ngày Lễ, ngày Giỗ mang tính căn bản, tính nhớ nguồn của người tu Phật nơi các Tự viện. Từ chương 5 (Trụ Trì) đến chương 9 (Pháp Khí) là phần chính của sách, nên sự ghi nhận, mô tả ở đấy là rất chi tiết, đầy đủ. Chẳng hạn như chương Trụ trì gồm 6 phần: công việc hằng ngày của Trụ trì, Thỉnh tân Trụ trì, Vào Tự viện mới, Thoái viện, Qua đời, Thương nghi tiến cứ tân Trụ trì, với hơn 50 tiểu mục. Hoặc chương Đại chúng (Chương 7) gồm 23 phần với hơn 30 tiểu mục. Chương Pháp khí (chương 9) gồm 7 phần (Chuông, Bảng, Mõ, Chuỳ, Khánh, Não bạc, Trống) riêng Chuông có 3 tiểu mục, Trống có 6 tiểu mục v.v…

Một điều cần được nhấn mạnh trong những tư duy liên hệ ở đây là: Bên Trung Hoa, sách Bách Trượng thanh quy của Đại sư Hoài Hải ra đời sau khi Phật Giáo Trung Quốc đã có đến 700 năm lịch sử. Và khi Sắc tu Bách Trượng thanh quy được ấn hành, phổ biến thì Phật giáo Trung Quốc đã tồn tại cùng phát triển trên 1300 năm. Ở Việt Nam, chỉ kể về thời hiện đại, từ khi có phong trào chấn hưng Phật giáo dấy khởi khắp ba miền vào thập niên 30 của thế kỷ 20, cùng với công việc chuyển dịch để hình thành Đại tạng Kinh Việt Nam, hơn 70 năm sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy mới được Việt dịch. Thời gian rồi cứ trôi đi. Rất nhiều, rất nhiều hình tướng rồi cũng đổi thay chuyển biến. Nhưng có những thứ là bất biến, là thường trụ. Vì thường trụ trên nẻo vô thường nên cần phải được duy trì, bảo vệ. Ở đây chính là tính chất “Thanh quy”, tính chất “Thanh tịnh hoà hợp” trong sinh hoạt nơi các Tự viện. Đó có lẽ là bức thông điệp ngắn gọn mà sâu xa của sách Sắc tu Bách Trượng thanh tuy muốn gởi đến cho hàng Phật tử xuất gia trong mọi thế hệ, thời đại.

Bàn về các giáo phái của Phật giáo phát triển toàn thịnh, Giáo sư Tưởng Duy Kiều (1872-?) xác nhận: “Phật giáo tuy xuất xứ tại Ấn độ nhưng các giáo phái được mở mang rực rỡ đặc biệt và sự nghiên cứu tổ chức có hệ thống, chúng ta thấy chỉ có ở nước Trung hoa”. (Đại cương triết học Phật giáo, Thích Đạo Quang dịch, 1958, trang 61). Học giả Phạm Công Thiện đã đánh giá về 10 Huyền Môn của Tông Hoa Nghiêm: “Tất cả siêu hình học, tất cả triết học, tất cả ý niệm, tất cả hệ thống tư tưởng của phương Đông và phương Tây, tất cả hệ thống tư tưởng từ Platon, Aristote v.v… đều là một phần, một mảnh trong 10 Huyền Môn trên”. (Hố Thẳm Tư Tưởng, Nhà xuất bản An Tiêm, 1967, trang 146).

Những nêu dẫn như thế giúp chúng ta thấy, Đại Tạng Kinh Việt Nam, để có được sự phong phú ngoài công việc biên dịch ba tạng Kinh, Luật, Luận theo hệ Nam truyền và Bắc truyền cần có sự góp mặt của một số tác phẩm tiêu biểu thuộc các bộ sớ giải, chư tông, sử truyện thuộc Phật giáo Trung Hoa như Taishō đã tập hợp. Mong rằng sau Sắc tu Bách Trượng thanh quy chúng ta sẽ tiếp tục đón nhận những tác phẩmgiá trị khác được Việt dịch.

Tháng 10 năm 2008
Đào Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6521)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11245)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12233)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11578)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12784)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34713)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10725)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10446)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13059)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16233)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21810)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9595)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7105)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10371)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12718)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12761)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16209)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16509)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13837)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16561)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12096)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13787)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9178)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16284)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14327)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12683)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12070)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11787)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15647)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11496)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14013)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11999)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12610)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14977)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11948)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13110)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14514)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20657)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13194)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10927)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20673)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14334)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20342)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17631)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14002)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31847)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12005)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant