Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Minh-giáo-tung Thiền-sư Tôn Tăng Thiên

25 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6193)
2. Minh-giáo-tung Thiền-sư Tôn Tăng Thiên

TRUY MÔN CẢNH HUẤN 
Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu Việt dịch

 

2. MINH-GIÁO-TUNG THIỀN-SƯ TÔN TĂNG THIÊN

Giáo tất tôn Tăng. Hà vị dã? Tăng dã giả, dĩ Phật vi tính, dĩ Như-lai vi gia, dĩ Pháp vi thân, dĩ tuệ vi mệnh, dĩ Thiền-duyệt vi thực. Cố, bất thị tục-nhân, bất doanh thế gia, bất tu hình-hài, bất tham sinh, bất cụ tử, bất nhục ngũ vị. Kỳ phòng thân hữu giới, nhiếp tâm hữu định, biện minh hữu tuệ. Ngữ kỳ giới dã, khiết thanh tam hoặc, như tất thân bất ô. Ngữ kỳ định dã, điềm tư lự chính, thần minh, nhi chung nhật bất loạn. Ngữ kỳ tuệ dã, sùng đức biện hoặc nhi tất nhiên. Dĩ thử tu chi chi vị nhân. Dĩ thử thành chi chi vị quả.

CHƯƠNG: TÔN TĂNG
Của thiền-Sư Minh-Giáo-Tung (15)

Phật-Giáo quyết định phải tôn-kính Tăng. Sao vậy? Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn. Cho nên, vị Tăng, không nương nhờ vào người trần-tục, không mưu tính gì nơi nhà thế-gian, không sửa sang hình-hài, không tham sống, không sợ chết và không ham đắm năm vị (16) ngon tốt. Vị Tăng ngăn ngừa thân nhờ có giới, thu nhiếp tâm nhờ có định, biện tỏ chân-lý nhờ có tuệ. Nói về giới, làm trong sạch ba hoặc, toàn thân không bị ô nhiễm. Nói về định, suy nghĩ điềm-chính, thần-khí sáng suốt, trọn ngày tâm không tán loạn. Nói về tuệ, ưa chuộng đức thực, biện giải mê lầm, đem lại lẽ tất nhiên của chân-lý. Dùng những pháp đó để tu là “nhân”. Đạt thành những pháp đó là “quả”.

Kỳ ư vật dã, hữu từ, hữu bi, hữu đại thệ, hữu đại huệ. Từ dã giả, đương dục vạn vật. Bi dã giả, thường dục chửng chúng khổ. Thệ dã giả, thệ dữ thiên hạ kiến chân-đế. Huệ dã giả, huệ quần sinhchính pháp. Thần nhi thông chi, thiên địa bất năng yểm. Mật nhi hành chi, quỷ thần bất năng trắc.

Vị Tăng, đối với người và vật, có tâm từ, có tâm bi, có thệ nguyện rộng lớn, có ân huệ bao la. Tâm từ, muốn vạn vật thường an lành. Tâm bi, muốn cứu vớt mọi nỗi khổ. Thệ-nguyện, nguyện cùng mọi người thấy rõ chân-lý cao siêu. Ân-huệ, đem lại ơn lành cho quần sinh bằng chính-pháp. Thần-khí thông suốt, sự vật trong trời đất đều thấy rõ, không thể che dấu được. Làm việc trong vòng ẩn-mật, quỷ thần không sao lường được.

Kỳ diễn pháp dã, biện thuyết bất trệ. Kỳ hộ pháp dã, phấn bất cố thân. Năng nhẫn, nhân chi bất khả nhẫn. Năng hành, nhân chi bất năng hành. Kỳ chính mệnh dã, cái thực nhi thực bất vi sỉ. Kỳ quả dục dã, phẩn y chuyết bát nhi bất vi bần. Kỳ vô tranh dã, khả nhục nhi bất khả khinh. Kỳ vô oán dã, khả đồng nhi bất khả tổn.

Vị Tăng, khi diễn giải giáo-pháp, biện thuyết trôi chảy không chút ngưng trệ. Khi phải hộ vệ đạo-pháp, hăng hái không nghĩ đến thân. Nhẫn nhịn những điều người ta không thể nhẫn được. Làm được những việc người ta không thể làm được. Nuôi sống thân-mệnh mình một cách chân-chính bằng sự đi xin ăn mà không cho là xấu hổ. Giữ gìn hạnh ít ham muốn, mặc áo phẩn-tảo, mang bát mẻ vá mà không cho là nghèo. Không ưa tranh cãi, có thể bị nhục nhưng không thể để bị khinh. Không oán hận ai, có thể hòa đồng nhưng không thể để bị tổn đức.

thực tướng đãi vật. Dĩ chí từ tu kỷ. Cố, kỳ ư thiên hạ dã, năng tất hòa, năng phổ kính. Kỳ ngữ vô vọng, cố, kỳ vi tín dã chí. Kỳ pháp vô ngã, cố, kỳ vi nhượng dã thành. Hữu uy khả cảnh, hữu nghi khả tắc. Thiên, nhân vọng nhi nghiễm nhiên. Năng phúc ư thế, năng đạo ư tục. Kỳ vong hình dã, ủy cầm thú nhi bất quái. Kỳ độc tụng dã, mạo hàn thử nhi bất phế.

Vị Tăng, đem tướng chân thực tiếp đãi người. Lấy hạnh chí-từ tu sửa mình. Cho nên, đối với xã-hội luôn luôn hòa-ái và luôn luôn kính cả. Với lời nói không dối trá, nên đặt sự tin tưởng đến chỗ rất mực. Với sự vật coi vô ngã, nên đặt sự kính nhường hết sức thành thực. Có uy-đức đáng răn sợ, có dung-nghi đang bắt chước. Trời và người chiêm ngưỡng vào, thấy vẻ nghiêm-trang đáng sợ. Luôn luôn đem lại hạnh phúc cho đời và luôn luôn dắt dẫn cho hàng thế-tục. Khi bỏ thân hình mình cho loài cầm thú mà không coi là quái gở. Khi tụng kinh ngồi thiền, gội nắng rét vẫn không bao giờ biếng bỏ.

Dĩ pháp nhi xuất dã, du nhân gian, biến tụ lạc. Thị danh nhược cốc hưởng, thị lợi nhược du trần, thị vật sắc nhược dương diệm. Hú ẩu bần bệnh, ngõa hợp dư đài nhi bất vi ty. Dĩ đạo nhi xử dã, tuy thâm sơn cùng cốc, thảo kỳ y, mộc kỳ thực, yến nhiên tự đắc. Bất khả dĩ lợi dụ, bất khả dĩ thế khuất. Tạ thiên tử chư hầu nhi bất vi cao. Kỳ độc lập dã, dĩ đạo tự thắng. Tuy hình ảnh tương điếu nhi bất vi cô. Kỳ quần cư dã, dĩ pháp vi thuộc. Hội tứ hải chi nhân nhi bất vi hỗn.

Đem giáo-pháp ra đời hoằng hóa, trải khắp cả nhân gian và cùng khắp nơi thôn xóm. Coi danh-vọng như tiếng vang qua cửa hang, coi lợi lộc như hạt bụi bay lãng-đãng, coi vật sắc như nắng mùa hè. Ấm áp với sự nghèo, bệnh, chắp vá với những vật thường, mà không cảm là thấp hèn. Xử sự theo đạo-lý, dù ở nơi núi sâu hang cùng, mặc áo cỏ, ăn vỏ cây vẫn an nhiên tự-đắc. Không thể đem lợi lộc dụ dỗ, không thể dùng quyền-thế khuất phục. Tạ từ sự thỉnh mời của thiên-tử, chư hầu mà không lấy thế để cao ngạo. Giữ tinh-thần độc-lập, tự thắng mình bằng đạo. Dù nhìn hình-ảnh coi như đáng thương, nhưng không cho là cô đơn. Khi ở chỗ đông người, lấy đạo-pháp làm quyến-thuộc. Gặp gỡ những người xa lạ từ bốn biển tới vẫn không bị hỗn-tạp.

Kỳ khả học dã, tuy tam tạng, thập nhị bộ, bách gia dị đạo chi thư, vô bất tri dã. Tha phương thù tục chi ngôn, vô bất thông dã. Tổ thuật kỳ pháp tắc, hữu văn hữu chương dã. Hành kỳ trung đạo, tắc bất không bất hữu dã. Kỳ tuyệt học dã, ly niệm thanh-tịnh, thuần chân nhất như, bất phục hữu sở phân biệt dã.

Tăng hồ kỳ vi nhân chí, kỳ vi tâm phổ, kỳ vi đức bị, kỳ vi đại đạo, kỳ vi hiền, phi thế chi sở vị hiền dã, kỳ vi thánh, phi thế chi sở vị thánh dã. Xuất thế thù thắng chi hiền thánh dã. Tăng dã, như thử khả bất tôn hồ!

Về học vấn, vị Tăng, tuy đã lầu thông ba tạng kinh, luật, luận và mười hai bộ phận giáo (17), nhưng các sách của bách gia chư tử và của đạo khác cũng đều biết hết. Những ngôn ngữ, những phong-tục xa lạ của các phương khác cũng đều thông suốt. Luôn luôn noi theo pháp tắc của các bậc xa xưa, có văn có chương. Thực hành theo trung-đạo, không nghiêng về “không” và không nghiêng về “hữu”. Chỗ học tuyệt vời của vị Tăng là “ly niệm thanh tịnh, thuần chân nhất như” (18) (lìa bỏ vọng-niệm, đạt tới chỗ thanh-tịnh, thuần một màu chân-thật và như nhất), không còn chút phân biệt nào.

Tăng là con người vượt bậc hơn con người, có tâm rộng rãi, có đức đầy đủ, có đạo lớn lao. Là bậc hiền, nhưng không phải bậc hiền của thế-gian. Là bậc thánh, nhưng không phải là bậc thánh của thế-gian. Là bậc hiền thánh thù-thắng xuất thế-gian.

Vị Tăng như thế há không tôn kính sao!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19780)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28886)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20625)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19367)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30404)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36331)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33128)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35456)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20903)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21860)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25193)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25733)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31188)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18511)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25070)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23717)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28859)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20800)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31405)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25479)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29637)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22433)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25654)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23197)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25691)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23669)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40553)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23296)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22377)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22029)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23450)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16920)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23245)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24255)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41017)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18906)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20425)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27678)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38037)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34013)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36731)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23945)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29121)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60039)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27538)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68632)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24458)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24422)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22622)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26298)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26469)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20735)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19987)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27480)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46279)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53450)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23531)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21022)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25502)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29174)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant