Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Minh-giáo-tung Thiền-sư Tôn Tăng Thiên

25 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6148)
2. Minh-giáo-tung Thiền-sư Tôn Tăng Thiên

TRUY MÔN CẢNH HUẤN 
Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu Việt dịch

 

2. MINH-GIÁO-TUNG THIỀN-SƯ TÔN TĂNG THIÊN

Giáo tất tôn Tăng. Hà vị dã? Tăng dã giả, dĩ Phật vi tính, dĩ Như-lai vi gia, dĩ Pháp vi thân, dĩ tuệ vi mệnh, dĩ Thiền-duyệt vi thực. Cố, bất thị tục-nhân, bất doanh thế gia, bất tu hình-hài, bất tham sinh, bất cụ tử, bất nhục ngũ vị. Kỳ phòng thân hữu giới, nhiếp tâm hữu định, biện minh hữu tuệ. Ngữ kỳ giới dã, khiết thanh tam hoặc, như tất thân bất ô. Ngữ kỳ định dã, điềm tư lự chính, thần minh, nhi chung nhật bất loạn. Ngữ kỳ tuệ dã, sùng đức biện hoặc nhi tất nhiên. Dĩ thử tu chi chi vị nhân. Dĩ thử thành chi chi vị quả.

CHƯƠNG: TÔN TĂNG
Của thiền-Sư Minh-Giáo-Tung (15)

Phật-Giáo quyết định phải tôn-kính Tăng. Sao vậy? Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn. Cho nên, vị Tăng, không nương nhờ vào người trần-tục, không mưu tính gì nơi nhà thế-gian, không sửa sang hình-hài, không tham sống, không sợ chết và không ham đắm năm vị (16) ngon tốt. Vị Tăng ngăn ngừa thân nhờ có giới, thu nhiếp tâm nhờ có định, biện tỏ chân-lý nhờ có tuệ. Nói về giới, làm trong sạch ba hoặc, toàn thân không bị ô nhiễm. Nói về định, suy nghĩ điềm-chính, thần-khí sáng suốt, trọn ngày tâm không tán loạn. Nói về tuệ, ưa chuộng đức thực, biện giải mê lầm, đem lại lẽ tất nhiên của chân-lý. Dùng những pháp đó để tu là “nhân”. Đạt thành những pháp đó là “quả”.

Kỳ ư vật dã, hữu từ, hữu bi, hữu đại thệ, hữu đại huệ. Từ dã giả, đương dục vạn vật. Bi dã giả, thường dục chửng chúng khổ. Thệ dã giả, thệ dữ thiên hạ kiến chân-đế. Huệ dã giả, huệ quần sinhchính pháp. Thần nhi thông chi, thiên địa bất năng yểm. Mật nhi hành chi, quỷ thần bất năng trắc.

Vị Tăng, đối với người và vật, có tâm từ, có tâm bi, có thệ nguyện rộng lớn, có ân huệ bao la. Tâm từ, muốn vạn vật thường an lành. Tâm bi, muốn cứu vớt mọi nỗi khổ. Thệ-nguyện, nguyện cùng mọi người thấy rõ chân-lý cao siêu. Ân-huệ, đem lại ơn lành cho quần sinh bằng chính-pháp. Thần-khí thông suốt, sự vật trong trời đất đều thấy rõ, không thể che dấu được. Làm việc trong vòng ẩn-mật, quỷ thần không sao lường được.

Kỳ diễn pháp dã, biện thuyết bất trệ. Kỳ hộ pháp dã, phấn bất cố thân. Năng nhẫn, nhân chi bất khả nhẫn. Năng hành, nhân chi bất năng hành. Kỳ chính mệnh dã, cái thực nhi thực bất vi sỉ. Kỳ quả dục dã, phẩn y chuyết bát nhi bất vi bần. Kỳ vô tranh dã, khả nhục nhi bất khả khinh. Kỳ vô oán dã, khả đồng nhi bất khả tổn.

Vị Tăng, khi diễn giải giáo-pháp, biện thuyết trôi chảy không chút ngưng trệ. Khi phải hộ vệ đạo-pháp, hăng hái không nghĩ đến thân. Nhẫn nhịn những điều người ta không thể nhẫn được. Làm được những việc người ta không thể làm được. Nuôi sống thân-mệnh mình một cách chân-chính bằng sự đi xin ăn mà không cho là xấu hổ. Giữ gìn hạnh ít ham muốn, mặc áo phẩn-tảo, mang bát mẻ vá mà không cho là nghèo. Không ưa tranh cãi, có thể bị nhục nhưng không thể để bị khinh. Không oán hận ai, có thể hòa đồng nhưng không thể để bị tổn đức.

thực tướng đãi vật. Dĩ chí từ tu kỷ. Cố, kỳ ư thiên hạ dã, năng tất hòa, năng phổ kính. Kỳ ngữ vô vọng, cố, kỳ vi tín dã chí. Kỳ pháp vô ngã, cố, kỳ vi nhượng dã thành. Hữu uy khả cảnh, hữu nghi khả tắc. Thiên, nhân vọng nhi nghiễm nhiên. Năng phúc ư thế, năng đạo ư tục. Kỳ vong hình dã, ủy cầm thú nhi bất quái. Kỳ độc tụng dã, mạo hàn thử nhi bất phế.

Vị Tăng, đem tướng chân thực tiếp đãi người. Lấy hạnh chí-từ tu sửa mình. Cho nên, đối với xã-hội luôn luôn hòa-ái và luôn luôn kính cả. Với lời nói không dối trá, nên đặt sự tin tưởng đến chỗ rất mực. Với sự vật coi vô ngã, nên đặt sự kính nhường hết sức thành thực. Có uy-đức đáng răn sợ, có dung-nghi đang bắt chước. Trời và người chiêm ngưỡng vào, thấy vẻ nghiêm-trang đáng sợ. Luôn luôn đem lại hạnh phúc cho đời và luôn luôn dắt dẫn cho hàng thế-tục. Khi bỏ thân hình mình cho loài cầm thú mà không coi là quái gở. Khi tụng kinh ngồi thiền, gội nắng rét vẫn không bao giờ biếng bỏ.

Dĩ pháp nhi xuất dã, du nhân gian, biến tụ lạc. Thị danh nhược cốc hưởng, thị lợi nhược du trần, thị vật sắc nhược dương diệm. Hú ẩu bần bệnh, ngõa hợp dư đài nhi bất vi ty. Dĩ đạo nhi xử dã, tuy thâm sơn cùng cốc, thảo kỳ y, mộc kỳ thực, yến nhiên tự đắc. Bất khả dĩ lợi dụ, bất khả dĩ thế khuất. Tạ thiên tử chư hầu nhi bất vi cao. Kỳ độc lập dã, dĩ đạo tự thắng. Tuy hình ảnh tương điếu nhi bất vi cô. Kỳ quần cư dã, dĩ pháp vi thuộc. Hội tứ hải chi nhân nhi bất vi hỗn.

Đem giáo-pháp ra đời hoằng hóa, trải khắp cả nhân gian và cùng khắp nơi thôn xóm. Coi danh-vọng như tiếng vang qua cửa hang, coi lợi lộc như hạt bụi bay lãng-đãng, coi vật sắc như nắng mùa hè. Ấm áp với sự nghèo, bệnh, chắp vá với những vật thường, mà không cảm là thấp hèn. Xử sự theo đạo-lý, dù ở nơi núi sâu hang cùng, mặc áo cỏ, ăn vỏ cây vẫn an nhiên tự-đắc. Không thể đem lợi lộc dụ dỗ, không thể dùng quyền-thế khuất phục. Tạ từ sự thỉnh mời của thiên-tử, chư hầu mà không lấy thế để cao ngạo. Giữ tinh-thần độc-lập, tự thắng mình bằng đạo. Dù nhìn hình-ảnh coi như đáng thương, nhưng không cho là cô đơn. Khi ở chỗ đông người, lấy đạo-pháp làm quyến-thuộc. Gặp gỡ những người xa lạ từ bốn biển tới vẫn không bị hỗn-tạp.

Kỳ khả học dã, tuy tam tạng, thập nhị bộ, bách gia dị đạo chi thư, vô bất tri dã. Tha phương thù tục chi ngôn, vô bất thông dã. Tổ thuật kỳ pháp tắc, hữu văn hữu chương dã. Hành kỳ trung đạo, tắc bất không bất hữu dã. Kỳ tuyệt học dã, ly niệm thanh-tịnh, thuần chân nhất như, bất phục hữu sở phân biệt dã.

Tăng hồ kỳ vi nhân chí, kỳ vi tâm phổ, kỳ vi đức bị, kỳ vi đại đạo, kỳ vi hiền, phi thế chi sở vị hiền dã, kỳ vi thánh, phi thế chi sở vị thánh dã. Xuất thế thù thắng chi hiền thánh dã. Tăng dã, như thử khả bất tôn hồ!

Về học vấn, vị Tăng, tuy đã lầu thông ba tạng kinh, luật, luận và mười hai bộ phận giáo (17), nhưng các sách của bách gia chư tử và của đạo khác cũng đều biết hết. Những ngôn ngữ, những phong-tục xa lạ của các phương khác cũng đều thông suốt. Luôn luôn noi theo pháp tắc của các bậc xa xưa, có văn có chương. Thực hành theo trung-đạo, không nghiêng về “không” và không nghiêng về “hữu”. Chỗ học tuyệt vời của vị Tăng là “ly niệm thanh tịnh, thuần chân nhất như” (18) (lìa bỏ vọng-niệm, đạt tới chỗ thanh-tịnh, thuần một màu chân-thật và như nhất), không còn chút phân biệt nào.

Tăng là con người vượt bậc hơn con người, có tâm rộng rãi, có đức đầy đủ, có đạo lớn lao. Là bậc hiền, nhưng không phải bậc hiền của thế-gian. Là bậc thánh, nhưng không phải là bậc thánh của thế-gian. Là bậc hiền thánh thù-thắng xuất thế-gian.

Vị Tăng như thế há không tôn kính sao!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22059)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15908)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14929)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14344)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18496)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13450)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11718)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13151)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16064)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10986)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17468)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12792)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13581)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12786)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14775)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16243)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13025)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11998)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12656)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12690)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14028)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14010)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16354)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12289)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14287)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11180)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10929)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13119)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13795)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13062)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13406)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10122)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10136)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13595)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16159)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10887)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10978)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant