Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Tựa

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6149)
Lời Tựa

KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Trọn bộ mười quyển
Đời Tống nước Kế Tân
Tam Tạng Pháp sư Cầu Na Bạt Ma Dịch Phạn văn sang Hán văn
Tỳ kheo Thích Thiện Thông Dịch ra Việt văn

 Lời Tựa

 Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.

Nói đến giới Bồ tát, ta thường nghĩ ngay đến mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh được nói trong kinh Phạm Võng, hoặc sáu giới trọng hai mươi tám giới khinh trong kinh Thi Ca La Việt. Theo ý nghĩa nơi kinh này, thì giới Bồ tát không chỉ hạn hẹp trong bao nhiêu đó mà là rộng rãi vô cùng, bao quát tất cả. Phàm những gì mà một Bồ tát từ khi sơ phát tâm cho đến khi chứng quả Phật, bao nhiêu quá trình tu tập mà vị đó trải qua, bao nhiêu công hạnh vị đó thực hiện và những quả đức đã chứng nhập, đều được gọi là “Thiện giới”. Do ý nghĩa ấy mà bậc tiên đức đã nói “Về giới Bồ tát, nếu tính đến lượng đông với hư không, về cảnh thì lan khắp pháp giới”, tất cả những Giới, Hạnh, Quả như vậy được tóm thâu trong ba cú nghĩa: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới, chúng ta quen gọi là Tam tụ luật nghi của Bồ tát.

Vì “Thiện giới” bao hàm tất cả những nghĩa như vậy, cho nên trong kinh này nơi cuối quyển 9, khi ngài Ưu Ba Ly hỏi về tên kinh, đức Phật đã dạy: “Ưu Ba Ly! Kinh này gọi là Thiện giới, gọi là Bồ tát địa, gọi là Luật Bồ tát, gọi là Luận Bồ tát, gọi là Như Lai Tạng, gọi là Căn bản của tất cả thiện pháp, gọi là Nhân của sự an lạc, gọi là Sự chứa nhóm các hạnh ba la mật…”

Trọn bộ kinh gồm 10 quyển, chia làm 30 phẩm. Chín quyển đầu thuyết minh tất cả hạnh môn của Bồ tát địaPhật địa, một quyển sau dạy về thể thức truyền giới, tự thệ thọ giới, cũng như thuyết minh tám giới trọng và 55 giới khinh của Bồ tát, xem như một bộ giới bổn, ngoài bộ giới Bổn Phạm Võng. Điểm đặc biệt của quyển giới bổn này là dạy rõ vừa pháp giá vừa pháp khai trong 55 giới khinh của Bồ tát, mà từ trước đến nay chưa thấy có bản dịch nào nói đến, cho nên phần giới bổn trong bộ kinh này có thể triển khai nhiều phương diện, giúp ích cho những vị đã thọ học giới Bồ tát, muốn biết để thực hành.

Qua 30 phẩm kinh, đức Phật đã giảng nói một cách cô đọng, sâu thẳm về vô biên hạnh của Bồ tát, như Mười Ba la mật, Bốn nhiếp pháp, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Mười hai nhân duyên, Bốn Vô lượng tâm, Ba giải thoát môn, Bốn pháp ấn…Ngoài những hạnh môn của Bồ tát, ngài còn dạy rõ về 140 pháp bất cộng của chư Phật, như nhân địathành quả 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, Bốn tịnh hạnh, Mười lực, Bốn vô sở úy, Ba niệm xứ, Ba bất hộ, Đại bi, Thường không quên mất, Trí đoạn tập nhân phiền não, Nhứt thiết chủng trí…

Có một điểm đáng lưu ýchúng tôi muốn trình bày là: trong khi diễn nói những hạnh môn ba la mật của Bồ tát đức Phật dạy về hành trình của 41 ngôi vị, nhất là 10 địa trong hàng thập thánh, phần này rất cô đọng nhưng đã tóm nhiếp giáo nghĩa bậc Thập địa nơi kinh Hoa Nghiêm, hoặc trong kinh Phạm Võng (quyển thượng) Kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp, kinh Lăng Nghiêm v.v…Như vậy, kinh Bồ tát Thiện giới này là Bồ tát luật, Bồ tát luận, là Như Lai Tạng, quả thật không sai.

Trong khi dịch thuật bộ này, chúng tôi nhận thấy rằng, nội dung của kinh chứa đựng quá nhiều thuật ngữ, cũng như pháp số mà nhiều kinh khác có chỗ cũng nói đến. Có lẽ các nhà sớ giải Trung hoa đã nương vào kinh này, để giải thích thuật ngữ, pháp số nằm trong những hạnh môn của Bồ tát địa.

Tóm lại, tuy chỉ gồm trong 10 quyển nhưng đã bao gồm tất cả những giáo lý tối thượng Phật thừa, mà đức Thế Tôn của chúng ta đã thành tựu, và ngài vì hàng Bồ tát Vị lai mà nói ra.

Kinh này được tam tạng pháp sư Cầu Na Bạt Ma người Ấn độ. Cầu Na Bạt Ma (Gunavarman), người Hoa dịch là Công Đức Khải, ngài đến kinh đô Kiến Nghiệp năm Nguyên Gia thứ 8 đời vua Tống Văn Đế, từng dịch hơn một chục bộ kinh, luật được vua Tống rất khen ngợi cung kính.

Vì một nhân duyên nào đó, khiến tôi gặp kinh này và phát nguyện dịch ra Việt văn, để góp phần văn hóa Phật giáo nước nhà, và giúp thêm tư liệu cho chư vị tại gia xuất gia rộng đường duyệt lãm. Mặc dù cố gắng hết mình và sửa đi sửa lại nhiều lần, nhưng thánh ý cao viễn vô biên, tâm phàm không sao trắc lượng, chắc chắn không tránh khỏi mọi sự vụng về sai lạc, rất mong chư vị thiện tri thức cao minh chỉ bày cho những chỗ khuyết điểm, để khi có cơ hội ấn hành sau, được hoàn chỉnh hơn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tháng quý Thu, năm Ất Hợi 1995

Dịch giả kính ghi
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12499)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14096)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11170)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11978)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13107)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13610)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11323)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12891)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13033)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11602)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17864)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11408)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11468)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18956)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12523)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13126)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11797)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11682)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12736)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12622)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13933)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12957)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12911)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13273)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12739)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12667)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11717)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11712)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12316)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12374)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19808)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11949)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11981)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16868)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12660)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15051)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16099)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12861)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12209)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11905)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13141)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16494)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13222)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12476)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11804)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19828)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11138)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11245)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10395)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11080)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10025)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11735)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant