Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3 Chế Lập Duyên Khởi

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7372)
Chương 3  Chế Lập Duyên Khởi

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 3 
Chế Lập Duyên Khởi 

 
Tất cả Giới Luật trong Phật giáo đều do đức Phật chế, có hai loại khác nhau: Một loại phải đợi nhân duyên mới chế, một loại không cần. Loại có nhân duyên rồi chế là Thanh Văn Luật Nghi Giới; loại không cần nhân duyênBồ Tát Tam Tụ Giới. Gọi là “đợi nhân duyên mới chế” là vì phải có một nhân duyên nào xảy ra, đức Phật mới nhân đó chế giới. Cho nên Sa Dinhân duyên chế lập Sa Di Giới, Tỳ Kheonhân duyên chế lập Tỳ Kheo Giới. Hiện nay quý vị thọ Bát Quan Trai Giới là một loại Luật Nghi Giới, tất nhiên phải có duyên khởi chế lập của nó. Đại Thừa Bồ Tát Giới không vậy, do Như Lai nhất thời chế lập, trong một lần Ngài chỉ bày cặn kẽ giới Đại Thừa Bồ Tát mà chẳng phải đợi đến một nhân duyên nào xảy ra mới chế giới. Cho nên giới Đại Thừa, Tiểu Thừa không chỉ khác nhau ở nội dung mà còn khác ở phương thức chế lập. 

Đức Phậtchúng ta chế Bát Quan Trai Giới do nhân duyên nào, đó là điều hôm nay tôi muốn trình bày đến chư vị. Chư vị phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới, điều này thực tốt, song nếu không biết duyên khởi chế lập Bát Quan Trai Giới thì thực không mỹ mãn. 

Cầu thọ Bát Quan Trai Giới, thực mà nói, vốn không cần hạn định thời gian, như thọ hằng ngày cũng được, một tháng thọ hai mươi ngày, mười lăm ngày gì cũng được. Thọ càng nhiều ngày càng được lợi ích, song vì một số người đầu óc rối ren chuyện gia đình, vì để duy trì đời sống gia đình, đôi khi phải cầu niềm vui thế tục, không thể xả bỏ hết được, cũng không có nhiều thì giờ để thường đến thọ Bát Quan Trai Giới. Đức Phật vì muốn thích ứng với thời gian của mọi người nên chế định thọ bát trong lục nhật trai. Như kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca thuyết minh cho điều này: “Người ta có nhiều nỗi lo chuyện nhà, cho nên ta dùng cách cho thọ Bát Giới trong lục nhật trai. Nếu có người hiền thiện nào muốn được quả A La Hán, muốn mau thành Phật, hoặc muốn sanh Thiên, phải tự đoan nghiêm tâm, nhất ý bất loạn, một tháng mười lăm ngày trai cũng tốt, hai mươi ngày trai cũng tốt. Người lo nhiều chuyện gia đình chỉ cần một tháng sáu ngày”. Đức Phật chế định thọ Bát Quan Trai vào lục trai nhật hoàn toàn vì hàng tại gia học Phật. 

Theo tình hình hiện nay xét, phải nói rằng sự chế định này của đức Phật quả là sự chọn lựa từ nơi trí huệ của Ngài, bởi vì đến cái thời đại phát triển máy móc này, đừng nói một tháng thọ bát sáu ngày khó làm, mà đến một tháng một ngày cũng không phải dễ. Ngày xưa vào thời đại nông nghiệp, công việc đã không bận bịu như ngày nay, mà đời sống cũng không chật vật như hiện giờ. Cứ xem tình trạng hiện nay, ai nấy cũng bận cả ngày, bận đến bù đầu bù cổ, đến chuyện nhà còn lo không xuể. Vì vậy, từ vợ đến chồng cả ngày lo chuyện gia đình, giờ lại bảo ông hay bà bỏ chuyện nhà đi thọ bát thì quả là chuyện nan đắc. Bởi thế, quý vị trong trăm thứ lo, bỏ chút thời giờ nghỉ thọ Bát Quan Trai Giới, thực rất đáng tán thán

Bậc Đại Thánh Thích Ca Mâu Ni xuất hiện cách đây hơn 2.500 năm quan sát tình thế lúc ấy, biết thế nhân không dễ thọ giới, nên mới chế trong lục nhật trai thọ Bát Quan Trai Giới, phải nói đức Phật đã sớm biết thời kỳ Mạt Pháp càng khó thực hiện. Sự thực quả vậy, đừng nói một tháng sáu ngày, một tháng một ngày cũng không mấy ai phát tâm

Lục trai nhật đức Phật chế định là sáu ngày nào? Theo nông lịch của chúng ta thì vào các ngày 8, 14, 15, 23, 29 và 30 mỗi tháng. Nhưng vì nông lịch có tháng đủ, tháng thiếu không có ngày 30, phải lấy 28 và 29 thế 29 và 30, như vậy vẫn đủ một tháng sáu ngày. 

Hàng cư sĩ tại gia thọ Bát Quan Trai Giới danh xưng khác với hàng cư sĩ không thọ Bát Giới. Dù thọ Tam Quy Ngũ Giới nhưng không thọ Bát Quan Trai Giới thì chỉ gọi là Ưu Bà Tắc hoặc Ưu Bà Di. Còn nếu có thọ Bát Quan Trai Giới thì được gọi là “tịnh hạnh ưu bà tắc” hoặc “tịnh hạnh ưu bà di”. Tịnh hạnh ở đây có tánh cách rất trọng yếu. Như thọ Ngũ Giới vốn không chủ trương tuyệt hẳn dâm dục, sự quan hệ chính thường giữa vợ chồng vẫn được chấp nhận, cho nên gọi là “tận hình thọ bất tà dâm” (đến chết không tà dâm). Nhưng trong một ngày đêm thọ Bát Quan Trai Giới, chẳng những không được tà dâm, mà ngay đến sự quan hệ chính thường giữa vợ chồng cũng bị cấm chỉ, cho nên khi tuyên giới thường nói: “Nhất nhật nhất dạ bất dâm dục” (một ngày một đêm không dâm dục) là để hiển thị tinh thần hoàn toàn thoát ly quan hệ nam nữ. Có vậy mới thành chân chánh thanh tịnh hạnh. Cho nên tịnh hạnh ưu bà tắc, tịnh hạnh ưu bà di chẳng phải hành Tam Quy Y, thọ Ngũ Giới mà được gọi. Phải thọ Bát Quan Trai Giới vào lục nhật trai mới có danh xưng là “tịnh hạnh”. 

Phật pháp nói chữ “trai” trong lục trai nhật, chủ yếu chỉ thọ Bát Quan Trai Giới. Điều này đã giảng trong phần Danh Nghĩa. Nhưng thuở giờ nhiều người ngộ hội, cho rằng ăn chay là Trai, cho nên dân gian vẫn thường hay nói: “Phát tâm tin Phật, ăn chay trường kỳ gọi là trường trai. Còn nếu chỉ phát tâm ăn chay vào sáu ngày gọi là hoa trai”. Đúng vậy, chỉ chuyên ăn chay không còn ăn thịt là điều Phật pháp đề xướng cực lực, hy vọng trong lúc trường trai, bồi dưỡng tâm đồng tình, tăng trưởng tâm từ bi. Nhưng nói chính xác: Trai của Phật pháp không phải chỉ ăn chay, còn phải thọ trì giới “không ăn quá ngọ” và các giới của Bát Giới, mới được là chơn chánh trì trai. Điểm này chúng ta cần phải phân biệt cho rõ, không nên nhập bừa làm một. 

Nhân duyên chính đức Phật chế định cho thọ Bát Quan Trai Giới trong lục nhật trai là để cho hàng tại gia nhị chúng gieo trồng căn lành giải thoát, thú hướng xuất ly, nên vào những ngày lục trai, nên đến trước chư Tăng thỉnh truyền tám giới này, nương nhờ thời gian ngắn ngủi này xa rời mọi sự phiền lụythế gian, chuyên tâm nhất chí tu học Phật pháp để tuy thân còn ở nhà mà không hề bị bụi trần làm mê, vững bước trên con đường giải thoát. Đức Phật đại từ đối với sự hóa độ hàng đệ tử này, một mặt quan sát tìm thời gian cho họ tu học, một mặt không quên dẫn dắt họ hướng đến giải thoát. Đây là thiện xảo phương tiện của Ngài. Đức Phật luôn vì chúng ta nghĩ bày, chúng ta nên tuân theo sự chỉ dạy của Ngài thực hành từng bước chắc, để khỏi cô phụ ân đức hóa độ của Ngài. 

Tại sao thọ Bát Quan Trai Giới vào các ngày lục trai? Căn cứ theo Kinh, Luật, có hai lý do khác nhau, phân biệt như sau: 

a. Thứ nhất, theo ngài Long Thọ trong Trí Độ Luận: sở dĩ đức Phật chọn lục trai nhật tu Bát Quan Trai Giới vì theo truyền thuyết của các tôn giáo cổ bên Ấn, trong sáu ngày này thế gian thường có loài quỷ dữ theo sau con người, rình đoạt lấy sanh mạng. Nếu không đoạt mạng thì cũng gây cho họ chuyện nghịch ý. Vì vậy, vào thời kỳ dân trí chưa mở mang, người ta cho rằng sáu ngày là những ngày cực xấu, và ai cũng sợ hãi khi tới những ngày này. Do vậy, theo truyền thuyết có một vị thánh nhân đại trí huệ, vì muốn trừ diệt sự khủng bố này, nên dạy mọi người phải làm phúc, tu thiện vào sáu ngày đó. Nhưng sự trì trai tu phúc đó không giống sự thọ trì Bát Quan Trai Giới của Phật giáo, chỉ dạy cả ngày đừng ăn gì cả, vì cho rằng như vậy quỷ dữ không theo được. Theo Phật giáo thì quỷ phần nhiều là ngạ quỷ, các tôn giáo xưa của Ấn Độ cũng đều nhận như vậy. Bởi vì là ngạ quỷ (quỷ đói) nên khi thấy người ăn uống, phải chịu đựng cơn đói rất là khổ sở. Nếu may gặp loại quỷ có chút thiện lương, có khổ sở và đói cũng nhẫn nại chịu đựng. Còn chẳng may gặp quỷ dữ ắt sanh khởi ác tâm, cho rằng tại sao loài người được no đủ mà mình chịu đói khát nên nghĩ cách làm khổ con người. Rồi thì loài người vì tránh họa quỷ nên trong ngày đó không dám ăn. Đó là truyền thuyết của Ấn Giáo. 

Các tôn giáo cổ ở Ấn đã bày ra lục trai nhật, và truyền đến đời Phật vẫn được thịnh hành. Bấy giờ, đức Phật thấy trì trai tu phúc là một việc tốt, nhưng Ngài sửa đổi lại thành Bát Quan Trai Giới, dạy mọi người: trì trai tu thiện làm phúc rất đúng, nhưng đâu phải chỉ trọn ngày không ăn là đủ, còn phải trì giới mới thực sự trừ tai tránh nạn được. Như Trí Độ Luận nói: “Phải như chư Phật giữ tám giới trong một ngày một đêm, không ăn quá ngọ, công đức này đem mình đến Niết Bàn”. Đức Phật coi nặng chuyện không ăn quá ngọ vì Ngài cho rằng tảo và ngọ phạn, hai bữa này không ảnh hưởng đến sự đói khổ của ngạ quỷ, còn buổi chiều là giờ ăn của ngạ quỷ, nên hễ thấy ai ăn thì ngạ quỷ phải chịu sự đói khổ dày vò. Vì lẽ ấy, đức Phật thay vì cấm ăn như Ấn Giáo, thì cấm ăn quá ngọ và thêm các giới khác. Như vậy, không những tu thiện, tăng phúc, tiêu tai miễn nạn, mà còn nhờ công đức này đến được Niết Bàn. Do đây biết rằng nghi thức tôn giáo trì trai vào lục trai nhật không phải là của Phật giáo bày ra, mà có sẵn ở Ấn, đức Phật chỉ sửa đổi thành Bát Quan Trai Giới, để không phải chỉ trừ tai nạn, mà còn để gây trồng nhân xuất gia giải thoát. Đó là thiện xảo phương tiện của Phật. 

Phật pháp sửa đổi nhiều lại nhiều nghi thức của Ấn giáo cổ xưa, như kinh Tạp A Hàm quyển 93 từng đề cập đến việc bà la môn dùng ba thứ lửa để tế tự. Đức Phật xem hành động đốt lửa tế trời của bà la môn hoàn toànmê tín. Nhưng khi đi hóa độ bà la môn, Ngài khéo dùng thiện xảo phương tiện, không trực tiếp chỉ cái sai lầm của họ, mà vẫn khen họ dùng tam hỏa tế trời rất hay, “nhưng có điều trong giáo pháp của ta, cũng có ba thứ lửa. Nếu được giống như thứ lửa của ta thì còn đạt được công đức vô kể”. Bà la môn nghe lấy làm kỳ quái, không biết Ngài thờ lửa gì, nên cầu hỏi Phật. Ngài bèn khai thị: “Ba thứ lửa của ta là: Cúng dường cha mẹ gọi là lửa căn bản (gốc). Cúng dường vợ con, quyến thuộc gọi là lửa nhà. Cúng dường sa môn, bà la môn gọi là lửa phúc điền”. 

Mục đích thờ lửa của bà la môn không ngoài mong muốn được chư thiên ban phúc, nhưng đâu biết chỉ như vậy thôi thì thực không sao đạt được phúc. Đức Phật nhận rằng cầu Thiên ban phúc chẳng bằng cầu phúc ngay ở thế gian hiển thật này. Đó là con đường cầu phúc hợp lý nhất, vì lẽ nơi gia đình không lỗi nhờ hiếu thuận cúng dường cha mẹ, làm cho tình vợ chồng thêm hòa thuận; về mặt tôn giáo thì cúng dường sa môn, bà la môn được công đức vô cùng. Bà la môn nghe đức Phật nói, thấy được cách thờ lửa của Ngài rất hợp lý, nên vứt bỏ hết khí cụ thờ lửa, theo Ngài học đạo. Nên biết lửa đại biểu cho sự ấm áp. Quan hệ giữa người với người quan trọng nhất vẫn là đạt được sự ôn noãn. Gia đìnhtôn giáo cũng vậy, phải được sự ôn noãn, nên gọi là tam hỏa (ba thứ lửa). 

Ngoài ra còn có tín đồ thần giáo lễ bái sáu phương. Đức Phật cũng dạy lễ bái sáu phương, nhưng đó là nghĩa vụ giữa cha con, thầy trò, vợ chồng, bạn bè, quyến thuộc, chư Tổ, sư trưởngtín đồ (Trung A Hàm: Thiện Sinh Kinh). Qua các sự việc trên, chúng ta đều nhận thấy: để cảm hóa tín đồ các tôn giáo khác, không nên đả kích, chê bai họ là sai trái, mà nên khéo léo dùng lý chỉ cái hay cho họ, người có chút lý trí ắt sẽ tiếp nhận mọi điều hợp lý, trừ ra những kẻ cực kỳ cố chấp. Đức Phật đã dùng lề lối này sửa đổi lại nhiều nghi thức của các tôn giáo cổ thành cách thức hợp tình, hợp lý của Phật giáo có nhiều hiệu quả hơn nữa. Vì vậy, trong Phật pháp có nhiều nghi thức căn bản không phải của Phật giáo lập ra. 

Thứ hai, theo kinh Tứ Thiên Vương: Sở dĩ đức Phật cho thọ Bát Quan Trai Giới vào lục trai nhật, vào các ngày này, chư Thiên thường đến nhân gian để xem xét thiện ác. Vì vậy, đức Phật dạy đồ chúng: Mỗi ngày trai, các người phải chú ý tâm mình, xem hướng thiện hay hướng ác? Nếu là hướng thiện thì phải gìn giữ luôn luôn. Nếu là hướng ác thì phải lập tức dừng ngay lại. Chẳng những quan sát tâm như vậy mà ngay đến thân và khẩu cũng phải cẩn thận, không thể lơ đãng. Đức Phật dựa vào truyền thuyết của Ấn giáo: Đế Thích Thiên của Dục Giới đầy đủ phúc đức, bên dưới có Tứ Thiên Vương. Vào các ngày trai, Đế Thích sai sứ giả đi tuần tra nhân gian, xem thiên hạ làm thiện nhiều hay ác nhiều. Nếu ác nhiều thì trừng phạt, gây cho nhân loại nhiều điều nghịch ý. Nếu thiện nhiều thì ủng hộ bằng cách cho nhân loại nhiều việc tốt lành. Đó là trách nhiệm của Tứ Thiên Vương. Theo trong kinh: Ngày 8 mỗi tháng, Tứ Thiên Vương phái sứ giả đi tuần tra nhân gian, xem hoạt động của nhân loại, bất luận thiện hay ác đều phải báo cáo, như ông Táo của Trung Quốc có bức liễn đề: “Trên trời tâu chuyện tốt, dưới đất được bình an”. Ngày 14 của mỗi tháng, sai Thái Tử của Tứ Thiên Vương đi tuần tra. Ngày 15, Tứ Thiên Vương đích thân đi. Ngày 23 lại sai sứ giả tuần xét. Ngày 29 đến Thái Tử tuần tra. Ngày 30 Tứ Thiên Vương đi xem xét. Luận Tỳ Bà Sa quyển 41 nói: “Vào các ngày trăng sáng, tối, thường ngày 8 hoặc 14, hoặc 15, chư thiên 33 từng trời tập họp ở Thiện Pháp Đường, luận kể thế gian bao nhiêu thiện ác, thấy người làm thiện thì ủng hộ, thấy người làm ác thì hủy đi”. Đế Thích cân nhắc việc thiện ác ở thế gian, hoàn toàn theo lời báo cáo của Tứ Thiên Vương. Trong kinh nói: Chư thiên đi tuần nhân gian, nếu thấy nhân loại trì giới như pháp, cần hành bố thí, hiếu thuận cha mẹ, liền báo với Thiên Đế Thích. Đế Thích hoan hỷ ban phúc cho nhân loại, khiến thế gian mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Nếu ngược lại, nhân loại hẳn không thể sống bình yên. Đế Thích có kệ: "Tháng sáu ngày thần du, thọ trì thanh tịnh giới, người này mạng chung rồi, công đức chẳng khác tôi”. Đức Phật nghe Đế Thích nói kệ rồi, liền bảo các tỳ kheo: “Đế Thích nói kệ tuy không phải cứu cánh, nhưng không phải là sai, các ông nên tin vậy”. 

Như vậy, chúng ta biết rằng: Bất cứ nơi đâu, chỉ cần có người thọ trì Bát Quan Trai Giới thì ác quỷ nào cũng phải lánh xa, nơi đó được tốt lành, nên nơi sáu ngày đó thọ trì Bát Quan Trai Giới được công đức nhiều hơn các ngày khác. Có điều ở đây xin mọi người lưu ý để tránh hiểu lầm, đừng cho rằng trong sáu ngày có chư Thiên lai vãng nên quy quy củ củ, không dám làm bậy, qua trai nhật rồi đâu lại vào đó. Nên biết rằng làm người ở thế gian này, bất cứ lúc nào, ba nghiệp thân, khẩu, ý đều phải như pháp thanh tịnh, hành vi phải hợp đạo lý

Theo Thành Thật Luận: “Tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín gọi là ba tháng lành, là tháng Tỳ Sa Môn thiên vương phân trấn Nam Châu”, tại gia nhị chúng nên thọ trai phúc, tại sao trong kinh chưa nói đến? Thọ trai vào ba tháng lành đối với Phật đương nhiên là chuyện tốt vô cùng, nhưng đối với tục nhân thực khó mà thi hành nên phải tùy thuận sức và khả năng họ, không bó buộc cứng ngắc ép họ phải thực hành. Còn lục trai nhậtthời gian ngắn, thực hành tương đối dễ, không đến nỗi cảm thấy bất tiện, nên đức Phật chọn thọ Bát Quan Trai Giới vào lục trai nhật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49653)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34577)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33415)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43854)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39373)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38420)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52864)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36555)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32192)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40386)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31412)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36120)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28653)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29179)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31833)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28754)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33301)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29070)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60936)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39675)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26606)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29617)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37290)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40025)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26803)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42588)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37207)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28247)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28851)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26350)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27119)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26152)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34535)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27760)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30431)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33195)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28510)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30023)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25452)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21804)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51216)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26645)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28569)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27658)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24303)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27413)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31867)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30129)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27651)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35372)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27393)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29961)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22973)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24130)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22973)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant