Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3 Chế Lập Duyên Khởi

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7364)
Chương 3  Chế Lập Duyên Khởi

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 3 
Chế Lập Duyên Khởi 

 
Tất cả Giới Luật trong Phật giáo đều do đức Phật chế, có hai loại khác nhau: Một loại phải đợi nhân duyên mới chế, một loại không cần. Loại có nhân duyên rồi chế là Thanh Văn Luật Nghi Giới; loại không cần nhân duyênBồ Tát Tam Tụ Giới. Gọi là “đợi nhân duyên mới chế” là vì phải có một nhân duyên nào xảy ra, đức Phật mới nhân đó chế giới. Cho nên Sa Dinhân duyên chế lập Sa Di Giới, Tỳ Kheonhân duyên chế lập Tỳ Kheo Giới. Hiện nay quý vị thọ Bát Quan Trai Giới là một loại Luật Nghi Giới, tất nhiên phải có duyên khởi chế lập của nó. Đại Thừa Bồ Tát Giới không vậy, do Như Lai nhất thời chế lập, trong một lần Ngài chỉ bày cặn kẽ giới Đại Thừa Bồ Tát mà chẳng phải đợi đến một nhân duyên nào xảy ra mới chế giới. Cho nên giới Đại Thừa, Tiểu Thừa không chỉ khác nhau ở nội dung mà còn khác ở phương thức chế lập. 

Đức Phậtchúng ta chế Bát Quan Trai Giới do nhân duyên nào, đó là điều hôm nay tôi muốn trình bày đến chư vị. Chư vị phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới, điều này thực tốt, song nếu không biết duyên khởi chế lập Bát Quan Trai Giới thì thực không mỹ mãn. 

Cầu thọ Bát Quan Trai Giới, thực mà nói, vốn không cần hạn định thời gian, như thọ hằng ngày cũng được, một tháng thọ hai mươi ngày, mười lăm ngày gì cũng được. Thọ càng nhiều ngày càng được lợi ích, song vì một số người đầu óc rối ren chuyện gia đình, vì để duy trì đời sống gia đình, đôi khi phải cầu niềm vui thế tục, không thể xả bỏ hết được, cũng không có nhiều thì giờ để thường đến thọ Bát Quan Trai Giới. Đức Phật vì muốn thích ứng với thời gian của mọi người nên chế định thọ bát trong lục nhật trai. Như kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca thuyết minh cho điều này: “Người ta có nhiều nỗi lo chuyện nhà, cho nên ta dùng cách cho thọ Bát Giới trong lục nhật trai. Nếu có người hiền thiện nào muốn được quả A La Hán, muốn mau thành Phật, hoặc muốn sanh Thiên, phải tự đoan nghiêm tâm, nhất ý bất loạn, một tháng mười lăm ngày trai cũng tốt, hai mươi ngày trai cũng tốt. Người lo nhiều chuyện gia đình chỉ cần một tháng sáu ngày”. Đức Phật chế định thọ Bát Quan Trai vào lục trai nhật hoàn toàn vì hàng tại gia học Phật. 

Theo tình hình hiện nay xét, phải nói rằng sự chế định này của đức Phật quả là sự chọn lựa từ nơi trí huệ của Ngài, bởi vì đến cái thời đại phát triển máy móc này, đừng nói một tháng thọ bát sáu ngày khó làm, mà đến một tháng một ngày cũng không phải dễ. Ngày xưa vào thời đại nông nghiệp, công việc đã không bận bịu như ngày nay, mà đời sống cũng không chật vật như hiện giờ. Cứ xem tình trạng hiện nay, ai nấy cũng bận cả ngày, bận đến bù đầu bù cổ, đến chuyện nhà còn lo không xuể. Vì vậy, từ vợ đến chồng cả ngày lo chuyện gia đình, giờ lại bảo ông hay bà bỏ chuyện nhà đi thọ bát thì quả là chuyện nan đắc. Bởi thế, quý vị trong trăm thứ lo, bỏ chút thời giờ nghỉ thọ Bát Quan Trai Giới, thực rất đáng tán thán

Bậc Đại Thánh Thích Ca Mâu Ni xuất hiện cách đây hơn 2.500 năm quan sát tình thế lúc ấy, biết thế nhân không dễ thọ giới, nên mới chế trong lục nhật trai thọ Bát Quan Trai Giới, phải nói đức Phật đã sớm biết thời kỳ Mạt Pháp càng khó thực hiện. Sự thực quả vậy, đừng nói một tháng sáu ngày, một tháng một ngày cũng không mấy ai phát tâm

Lục trai nhật đức Phật chế định là sáu ngày nào? Theo nông lịch của chúng ta thì vào các ngày 8, 14, 15, 23, 29 và 30 mỗi tháng. Nhưng vì nông lịch có tháng đủ, tháng thiếu không có ngày 30, phải lấy 28 và 29 thế 29 và 30, như vậy vẫn đủ một tháng sáu ngày. 

Hàng cư sĩ tại gia thọ Bát Quan Trai Giới danh xưng khác với hàng cư sĩ không thọ Bát Giới. Dù thọ Tam Quy Ngũ Giới nhưng không thọ Bát Quan Trai Giới thì chỉ gọi là Ưu Bà Tắc hoặc Ưu Bà Di. Còn nếu có thọ Bát Quan Trai Giới thì được gọi là “tịnh hạnh ưu bà tắc” hoặc “tịnh hạnh ưu bà di”. Tịnh hạnh ở đây có tánh cách rất trọng yếu. Như thọ Ngũ Giới vốn không chủ trương tuyệt hẳn dâm dục, sự quan hệ chính thường giữa vợ chồng vẫn được chấp nhận, cho nên gọi là “tận hình thọ bất tà dâm” (đến chết không tà dâm). Nhưng trong một ngày đêm thọ Bát Quan Trai Giới, chẳng những không được tà dâm, mà ngay đến sự quan hệ chính thường giữa vợ chồng cũng bị cấm chỉ, cho nên khi tuyên giới thường nói: “Nhất nhật nhất dạ bất dâm dục” (một ngày một đêm không dâm dục) là để hiển thị tinh thần hoàn toàn thoát ly quan hệ nam nữ. Có vậy mới thành chân chánh thanh tịnh hạnh. Cho nên tịnh hạnh ưu bà tắc, tịnh hạnh ưu bà di chẳng phải hành Tam Quy Y, thọ Ngũ Giới mà được gọi. Phải thọ Bát Quan Trai Giới vào lục nhật trai mới có danh xưng là “tịnh hạnh”. 

Phật pháp nói chữ “trai” trong lục trai nhật, chủ yếu chỉ thọ Bát Quan Trai Giới. Điều này đã giảng trong phần Danh Nghĩa. Nhưng thuở giờ nhiều người ngộ hội, cho rằng ăn chay là Trai, cho nên dân gian vẫn thường hay nói: “Phát tâm tin Phật, ăn chay trường kỳ gọi là trường trai. Còn nếu chỉ phát tâm ăn chay vào sáu ngày gọi là hoa trai”. Đúng vậy, chỉ chuyên ăn chay không còn ăn thịt là điều Phật pháp đề xướng cực lực, hy vọng trong lúc trường trai, bồi dưỡng tâm đồng tình, tăng trưởng tâm từ bi. Nhưng nói chính xác: Trai của Phật pháp không phải chỉ ăn chay, còn phải thọ trì giới “không ăn quá ngọ” và các giới của Bát Giới, mới được là chơn chánh trì trai. Điểm này chúng ta cần phải phân biệt cho rõ, không nên nhập bừa làm một. 

Nhân duyên chính đức Phật chế định cho thọ Bát Quan Trai Giới trong lục nhật trai là để cho hàng tại gia nhị chúng gieo trồng căn lành giải thoát, thú hướng xuất ly, nên vào những ngày lục trai, nên đến trước chư Tăng thỉnh truyền tám giới này, nương nhờ thời gian ngắn ngủi này xa rời mọi sự phiền lụythế gian, chuyên tâm nhất chí tu học Phật pháp để tuy thân còn ở nhà mà không hề bị bụi trần làm mê, vững bước trên con đường giải thoát. Đức Phật đại từ đối với sự hóa độ hàng đệ tử này, một mặt quan sát tìm thời gian cho họ tu học, một mặt không quên dẫn dắt họ hướng đến giải thoát. Đây là thiện xảo phương tiện của Ngài. Đức Phật luôn vì chúng ta nghĩ bày, chúng ta nên tuân theo sự chỉ dạy của Ngài thực hành từng bước chắc, để khỏi cô phụ ân đức hóa độ của Ngài. 

Tại sao thọ Bát Quan Trai Giới vào các ngày lục trai? Căn cứ theo Kinh, Luật, có hai lý do khác nhau, phân biệt như sau: 

a. Thứ nhất, theo ngài Long Thọ trong Trí Độ Luận: sở dĩ đức Phật chọn lục trai nhật tu Bát Quan Trai Giới vì theo truyền thuyết của các tôn giáo cổ bên Ấn, trong sáu ngày này thế gian thường có loài quỷ dữ theo sau con người, rình đoạt lấy sanh mạng. Nếu không đoạt mạng thì cũng gây cho họ chuyện nghịch ý. Vì vậy, vào thời kỳ dân trí chưa mở mang, người ta cho rằng sáu ngày là những ngày cực xấu, và ai cũng sợ hãi khi tới những ngày này. Do vậy, theo truyền thuyết có một vị thánh nhân đại trí huệ, vì muốn trừ diệt sự khủng bố này, nên dạy mọi người phải làm phúc, tu thiện vào sáu ngày đó. Nhưng sự trì trai tu phúc đó không giống sự thọ trì Bát Quan Trai Giới của Phật giáo, chỉ dạy cả ngày đừng ăn gì cả, vì cho rằng như vậy quỷ dữ không theo được. Theo Phật giáo thì quỷ phần nhiều là ngạ quỷ, các tôn giáo xưa của Ấn Độ cũng đều nhận như vậy. Bởi vì là ngạ quỷ (quỷ đói) nên khi thấy người ăn uống, phải chịu đựng cơn đói rất là khổ sở. Nếu may gặp loại quỷ có chút thiện lương, có khổ sở và đói cũng nhẫn nại chịu đựng. Còn chẳng may gặp quỷ dữ ắt sanh khởi ác tâm, cho rằng tại sao loài người được no đủ mà mình chịu đói khát nên nghĩ cách làm khổ con người. Rồi thì loài người vì tránh họa quỷ nên trong ngày đó không dám ăn. Đó là truyền thuyết của Ấn Giáo. 

Các tôn giáo cổ ở Ấn đã bày ra lục trai nhật, và truyền đến đời Phật vẫn được thịnh hành. Bấy giờ, đức Phật thấy trì trai tu phúc là một việc tốt, nhưng Ngài sửa đổi lại thành Bát Quan Trai Giới, dạy mọi người: trì trai tu thiện làm phúc rất đúng, nhưng đâu phải chỉ trọn ngày không ăn là đủ, còn phải trì giới mới thực sự trừ tai tránh nạn được. Như Trí Độ Luận nói: “Phải như chư Phật giữ tám giới trong một ngày một đêm, không ăn quá ngọ, công đức này đem mình đến Niết Bàn”. Đức Phật coi nặng chuyện không ăn quá ngọ vì Ngài cho rằng tảo và ngọ phạn, hai bữa này không ảnh hưởng đến sự đói khổ của ngạ quỷ, còn buổi chiều là giờ ăn của ngạ quỷ, nên hễ thấy ai ăn thì ngạ quỷ phải chịu sự đói khổ dày vò. Vì lẽ ấy, đức Phật thay vì cấm ăn như Ấn Giáo, thì cấm ăn quá ngọ và thêm các giới khác. Như vậy, không những tu thiện, tăng phúc, tiêu tai miễn nạn, mà còn nhờ công đức này đến được Niết Bàn. Do đây biết rằng nghi thức tôn giáo trì trai vào lục trai nhật không phải là của Phật giáo bày ra, mà có sẵn ở Ấn, đức Phật chỉ sửa đổi thành Bát Quan Trai Giới, để không phải chỉ trừ tai nạn, mà còn để gây trồng nhân xuất gia giải thoát. Đó là thiện xảo phương tiện của Phật. 

Phật pháp sửa đổi nhiều lại nhiều nghi thức của Ấn giáo cổ xưa, như kinh Tạp A Hàm quyển 93 từng đề cập đến việc bà la môn dùng ba thứ lửa để tế tự. Đức Phật xem hành động đốt lửa tế trời của bà la môn hoàn toànmê tín. Nhưng khi đi hóa độ bà la môn, Ngài khéo dùng thiện xảo phương tiện, không trực tiếp chỉ cái sai lầm của họ, mà vẫn khen họ dùng tam hỏa tế trời rất hay, “nhưng có điều trong giáo pháp của ta, cũng có ba thứ lửa. Nếu được giống như thứ lửa của ta thì còn đạt được công đức vô kể”. Bà la môn nghe lấy làm kỳ quái, không biết Ngài thờ lửa gì, nên cầu hỏi Phật. Ngài bèn khai thị: “Ba thứ lửa của ta là: Cúng dường cha mẹ gọi là lửa căn bản (gốc). Cúng dường vợ con, quyến thuộc gọi là lửa nhà. Cúng dường sa môn, bà la môn gọi là lửa phúc điền”. 

Mục đích thờ lửa của bà la môn không ngoài mong muốn được chư thiên ban phúc, nhưng đâu biết chỉ như vậy thôi thì thực không sao đạt được phúc. Đức Phật nhận rằng cầu Thiên ban phúc chẳng bằng cầu phúc ngay ở thế gian hiển thật này. Đó là con đường cầu phúc hợp lý nhất, vì lẽ nơi gia đình không lỗi nhờ hiếu thuận cúng dường cha mẹ, làm cho tình vợ chồng thêm hòa thuận; về mặt tôn giáo thì cúng dường sa môn, bà la môn được công đức vô cùng. Bà la môn nghe đức Phật nói, thấy được cách thờ lửa của Ngài rất hợp lý, nên vứt bỏ hết khí cụ thờ lửa, theo Ngài học đạo. Nên biết lửa đại biểu cho sự ấm áp. Quan hệ giữa người với người quan trọng nhất vẫn là đạt được sự ôn noãn. Gia đìnhtôn giáo cũng vậy, phải được sự ôn noãn, nên gọi là tam hỏa (ba thứ lửa). 

Ngoài ra còn có tín đồ thần giáo lễ bái sáu phương. Đức Phật cũng dạy lễ bái sáu phương, nhưng đó là nghĩa vụ giữa cha con, thầy trò, vợ chồng, bạn bè, quyến thuộc, chư Tổ, sư trưởngtín đồ (Trung A Hàm: Thiện Sinh Kinh). Qua các sự việc trên, chúng ta đều nhận thấy: để cảm hóa tín đồ các tôn giáo khác, không nên đả kích, chê bai họ là sai trái, mà nên khéo léo dùng lý chỉ cái hay cho họ, người có chút lý trí ắt sẽ tiếp nhận mọi điều hợp lý, trừ ra những kẻ cực kỳ cố chấp. Đức Phật đã dùng lề lối này sửa đổi lại nhiều nghi thức của các tôn giáo cổ thành cách thức hợp tình, hợp lý của Phật giáo có nhiều hiệu quả hơn nữa. Vì vậy, trong Phật pháp có nhiều nghi thức căn bản không phải của Phật giáo lập ra. 

Thứ hai, theo kinh Tứ Thiên Vương: Sở dĩ đức Phật cho thọ Bát Quan Trai Giới vào lục trai nhật, vào các ngày này, chư Thiên thường đến nhân gian để xem xét thiện ác. Vì vậy, đức Phật dạy đồ chúng: Mỗi ngày trai, các người phải chú ý tâm mình, xem hướng thiện hay hướng ác? Nếu là hướng thiện thì phải gìn giữ luôn luôn. Nếu là hướng ác thì phải lập tức dừng ngay lại. Chẳng những quan sát tâm như vậy mà ngay đến thân và khẩu cũng phải cẩn thận, không thể lơ đãng. Đức Phật dựa vào truyền thuyết của Ấn giáo: Đế Thích Thiên của Dục Giới đầy đủ phúc đức, bên dưới có Tứ Thiên Vương. Vào các ngày trai, Đế Thích sai sứ giả đi tuần tra nhân gian, xem thiên hạ làm thiện nhiều hay ác nhiều. Nếu ác nhiều thì trừng phạt, gây cho nhân loại nhiều điều nghịch ý. Nếu thiện nhiều thì ủng hộ bằng cách cho nhân loại nhiều việc tốt lành. Đó là trách nhiệm của Tứ Thiên Vương. Theo trong kinh: Ngày 8 mỗi tháng, Tứ Thiên Vương phái sứ giả đi tuần tra nhân gian, xem hoạt động của nhân loại, bất luận thiện hay ác đều phải báo cáo, như ông Táo của Trung Quốc có bức liễn đề: “Trên trời tâu chuyện tốt, dưới đất được bình an”. Ngày 14 của mỗi tháng, sai Thái Tử của Tứ Thiên Vương đi tuần tra. Ngày 15, Tứ Thiên Vương đích thân đi. Ngày 23 lại sai sứ giả tuần xét. Ngày 29 đến Thái Tử tuần tra. Ngày 30 Tứ Thiên Vương đi xem xét. Luận Tỳ Bà Sa quyển 41 nói: “Vào các ngày trăng sáng, tối, thường ngày 8 hoặc 14, hoặc 15, chư thiên 33 từng trời tập họp ở Thiện Pháp Đường, luận kể thế gian bao nhiêu thiện ác, thấy người làm thiện thì ủng hộ, thấy người làm ác thì hủy đi”. Đế Thích cân nhắc việc thiện ác ở thế gian, hoàn toàn theo lời báo cáo của Tứ Thiên Vương. Trong kinh nói: Chư thiên đi tuần nhân gian, nếu thấy nhân loại trì giới như pháp, cần hành bố thí, hiếu thuận cha mẹ, liền báo với Thiên Đế Thích. Đế Thích hoan hỷ ban phúc cho nhân loại, khiến thế gian mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Nếu ngược lại, nhân loại hẳn không thể sống bình yên. Đế Thích có kệ: "Tháng sáu ngày thần du, thọ trì thanh tịnh giới, người này mạng chung rồi, công đức chẳng khác tôi”. Đức Phật nghe Đế Thích nói kệ rồi, liền bảo các tỳ kheo: “Đế Thích nói kệ tuy không phải cứu cánh, nhưng không phải là sai, các ông nên tin vậy”. 

Như vậy, chúng ta biết rằng: Bất cứ nơi đâu, chỉ cần có người thọ trì Bát Quan Trai Giới thì ác quỷ nào cũng phải lánh xa, nơi đó được tốt lành, nên nơi sáu ngày đó thọ trì Bát Quan Trai Giới được công đức nhiều hơn các ngày khác. Có điều ở đây xin mọi người lưu ý để tránh hiểu lầm, đừng cho rằng trong sáu ngày có chư Thiên lai vãng nên quy quy củ củ, không dám làm bậy, qua trai nhật rồi đâu lại vào đó. Nên biết rằng làm người ở thế gian này, bất cứ lúc nào, ba nghiệp thân, khẩu, ý đều phải như pháp thanh tịnh, hành vi phải hợp đạo lý

Theo Thành Thật Luận: “Tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín gọi là ba tháng lành, là tháng Tỳ Sa Môn thiên vương phân trấn Nam Châu”, tại gia nhị chúng nên thọ trai phúc, tại sao trong kinh chưa nói đến? Thọ trai vào ba tháng lành đối với Phật đương nhiên là chuyện tốt vô cùng, nhưng đối với tục nhân thực khó mà thi hành nên phải tùy thuận sức và khả năng họ, không bó buộc cứng ngắc ép họ phải thực hành. Còn lục trai nhậtthời gian ngắn, thực hành tương đối dễ, không đến nỗi cảm thấy bất tiện, nên đức Phật chọn thọ Bát Quan Trai Giới vào lục trai nhật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14764)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11827)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12758)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10341)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12067)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15293)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11079)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10535)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12472)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16427)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14310)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11787)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14801)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12030)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16854)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11587)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11343)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12058)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52118)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15464)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13967)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11442)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13172)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12785)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13220)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12445)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12654)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54206)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14425)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57967)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14498)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20140)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13781)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15402)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17493)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11925)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13488)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14668)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12492)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12155)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12063)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13289)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12541)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13658)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25598)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12177)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11860)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42072)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28338)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38801)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14720)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12691)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16238)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant