Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 6 Sám Hối Tất Yếu

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6992)
Chương 6  Sám Hối Tất Yếu

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 6 
Sám Hối Tất Yếu 

 
Các pháp sự trong Phật giáo phần đông đều bắt đầu bằng lễ Sám Hối, đặc biệtQuy YThọ Giới lại càng không thể thiếu phần Sám Hối. Người sơ phát tâm quy y Tam Bảo, nếu thực tâm muốn trở thành một người mới mẻ tu Phật, mà không chịu đúng pháp sám hối, vẫn mang đầy thói hư tật xấu cũ vào cửa Phật, thì không sao thấm nhuần được đạo pháp, để trở thành một người theo Phật hoàn toàn mới. Vì cho dù trên hình thức đã theo Phật, song tội lỗi chất chứa nơi thân chướng ngại cho sự huân tu Phật pháp, cho nên trước tiên phải thành khẩn thiết tha sám hối, sau đó mới quy y hay thọ giới

Chẳng những bó buộc phải sám hối trước khi quy y hay thọ giới, mà sám hối vẫn có tánh cách quan trọng ngay sau khi quy ythọ giới rồi, bởi vì hạng phàm phu chúng ta dù có cẩn thận đến đâu đi nữa, hay vô cùng tôn trọng các giới đã thọ, song có mấy ai dám bảo đảm rằng mình không hề phạm các giới đã thọ. Phàm phu vẫn là phàm phu, đôi khi không tránh được phiền não vọng khởi, rồi không chế ngự được mình mà phạm giới, khiến thân tâm ô nhiễm. Nếu muốn khôi phục sự thanh tịnh, còn cách nào hơn sự sám hối. Vì vậy, Phật pháp rất coi trọng pháp Sám Hối. Bất cứ ai muốn vào đạo Phật hay đã vào rồi, đều phải hành pháp Sám Hối, để duy trì sự thanh tịnh của thân tâm, và khỏi bị chướng ngại khi tu học Phật. 

Tánh chất quan trọng của Sám Hối chúng ta đã rõ rồi, nhưng Sám Hối nghĩa là gì? Phạm ngữSám Ma Tỳ, gọi tắt là Sám Ma. Trung Quốc dịch là Yểm Ly (chán bỏ), hoặc Cải Hối. Có người giải thích Sám là đầu, Hối là cúi xuống, có nghĩa là “cúi đầu chịu tội”. Trong Phật pháp cũng vậy, những người vi phạm giới luật, chỉ còn biết thuận theo đạo pháp, cúi mình dưới chân Tam Bảo, chân thành thiết tha sám hối, biểu lộ từ nay về sau không dám làm các chuyện như vậy nữa. Có vậy mới là thành tâm sám hối

Lại có người giảng như vầy: Sám là chỉ cho bạch pháp, còn Hối là hắc pháp. Hắc pháp là các tội ác, nên hối cải không được tái phạm. Bạch pháp là các thiện pháp, nên cần cầu và đúng pháp thực hành. Còn có nghĩa như sau: Sám là sự tu học kể từ nay, trước kia bỏ bê không tu học các thiện pháp, từ nay trở đi thệ nguyện tinh tiến dõng mãnh tu học không ngừng. Hối là sự sửa đổi về sau, trước kia từng làm biết bao việc bất thiện, từ nay về sau thệ nguyện tha thiết, thực lòng sửa đổi. Theo hai cách giảng trên, chúng ta có thể thấy rằng: Sám Hối đủ cả hai phương diện tiêu cựctích cực. Bỏ ác là mặt tiêu cực, hưng thiện là mặt tích cực. Phải bỏ ác hưng thiện như vậy mới là ý nghĩa cụ thể của Sám Hối

Còn có một điểm rất quan trọng của sám hối, đó là phơi bầy các lỗi của mình, bộc bạch các tội đã gây, không dám che đậy chút nào. Như vậy rồi còn phải đoạn trừ tâm tương tục, ăn năn chán ghét các tội lỗi tự gây, tuyệt đối xả bỏ không bao giờ tái phạm. Ấn Thuận Luật Sư nói: “Quy chế sám hối của Phật pháp phải bày tỏ trước đại chúng hết mọi lỗi lầm, chịu sự xử phạt của Tăng đoàn. Trải qua một phen chân thành thống thiết sám hối, thanh tịnh mới phục hồi. Như trong bình có độc, phải đổ hết chất độc, súc bình cho sạch, mới có thể đựng vị quý được. Như vải dơ, trước tiên dùng tro hoặc xà bông tẩy cho sạch, sau đó mới có thể nhuộm. Cho nên phải như pháp sám hối mới có thể trì luật thanh tịnh và khiến các động cơ không thuần dần dà hợp với Luật”. Vì vậy, phát tâm sám hối phải thẳng thừng bày tỏ hết mọi tội lỗi

Chính do như vậy mà có người nói: Phạn ngữ vốn gọi là A Bát Để Đề Xá Na. A Bát Để dịch là “tội”, Đề Xá Na dịch là “nói”; có nghĩa là “nói tội”. Ý chỉ người học đạo nếu vi phạm giới luật không nên che giấu, mà phải thành thật bày tỏ với đại chúng, cầu xin đại chúng chuẩn hứa cho mình được sửa đổi. Bao giờ được đại chúng chấp thuận thì tội lỗi đó được tiêu trừ. Hơn nữa, nhờ oai đức của đại chúng khiến họ đối với tội lỗi sanh tâm sợ sệt không còn dám phạm nữa. Ngài Luật Sư Ấn Thuận nói: “Quy tắc của giới luật không ở nơi một người, ở nơi đại chúng… Người học đạo nên theo chân tinh thần của cổ thánh, phát lồ tội lỗi, không dám che giấu, không dám tái phạm, để thân tâm được thanh tịnh, thừa thọ vô thượng pháp vị”. 

Công khai bộc bạch hết mọi tội lỗi, điều này không phải dễ làm. Bởi tâm lý chung của mọi người không muốn người khác biết được lỗi mình. Hoặc giả nếu tội nhỏ có thể thố lộ riêng cho những người thân, còn nếu tội nặng cho đến vợ chồng, cha mẹ cũng không dám nói. Cũng bởi họ biết tội lỗi là chuyện mất thể diện, hại danh dự. Vì vậy mà kẻ phạm tội nhiều, người nhận tội ít do tại nguyên nhân này. Họ nào biết chính vì vậy mà cứ đắm mãi trong hố sâu tội lỗi không có ngày ra. 

Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích rất khẩn thiết bảo với những người không dám phát lồ tội lỗi: “Người ta khi tạo tội thực đang làm ác mà không biết xấu hổ. Nay phát lồ trước mọi người, đó là điều thiện, lại cho là xấu hổ. Cam lòng giữ ác mà tránh điều thiện, dần dà thành ác trong ác, vĩnh viễn không có ngày ra, điên đảo ngu si, còn có gì hơn đây nữa?” Không làm chuyện ác thì muốn mọi người biết. Nhưng khi làm ác, do vì phiền não xung động, chẳng còn biết xấu hổ, có can đảm làm quấy. Đợi đến lúc chuyện ác đã rồi, biết rõ đó không phải là việc đúng, nhưng vì thể diện, nên che giấu không chịu tiết lộ với ai. Nào hay, vì không dám phơi bày tội ác nên cội gốc tội ác không sao thanh tịnh được! Như vậy, chẳng phải là điên đảo hay ngu si sao? 

Sám Hối lấy gì làm thể? Lấy tàm quý làm thể, vì vậy có thuyết cho Sám gọi là tàm, Hối gọi là quý. Người ta sở dĩ tạo ác, do bởi không đủ tâm tự giác đạo đức, lại bị tâm vô tàm vô quý sai sử, nên vô tình tạo tội tày trời, song con người vẫn có nhân tính, nên sau khi làm điều lầm lẫn, đôi khi tự vấn lương tâmcảm thấy bất an trong lòng, hoặc cảm thấy mình không phải đối với cha mẹ, sư trưởng, hoặc tự trách mình vì sao lại gây ra những chuyện quấy như vậy? Phải biết lúc đó, nhờ tâm tàm quý dõng hiện tự nhiên sanh tâm cầu sám hối, cho rằng nếu không tha thiết cầu sám hối, từ rày về sau khó mà làm người. Người ta ở thế giới đầy tội ác này đôi khi có thể chiến thắng được tội ác đều do sức mạnh trọng thiện khinh ác của tàm quý

Tàm quý có nhiều đối tượng khác nhau, nên sức phát sanh tàm quý cũng có sai biệt. Giả sử bạn có tâm tàm quý đối với thầy bạn, biết việc này là quấy, đối với thầy bạn thực không phải, nên khi thấy thầy bạn, bạn tự dưng không dám làm các chuyện quấy, nhưng vẫn có thể làm quấy khi không thấy thầy bạn. Như vậy là sức tàm quý còn yếu. Giả sử bạn đối với Trời Phật phát tâm tàm quý, cho rằng nếu mình làm việc ác, tuy người khác không biết, nhưng Trời Phật đều thấy rõ, làm sao bạn dám làm chuyện không phải đối với trời Phật. Như vậy, cứ nghĩ đến trời Phật thì không dám làm ác. Nhưng hễ quên đi hay không nghĩ đến thì vẫn làm ác. Như vậy, sức tàm quý của bạn vẫn chưa đủ mạnh. 

Tàm quý thực sự mạnh và đủ sức chính là tâm tàm quý đối với tự thân, vì thường cho rằng ta với Phật vốn đồng một giác tánh, mà giác tánh của chư Phật đã từ trong muôn lớp phiền não trùng điệp bủa vây, chiếu phá hiển hiện ra, thành vị Thánh giác cao tột ở thế gian; vậy mà ta giờ vẫn là một gã phàm phu chịu sanh tử, chẳng những chưa thể tịnh hóa được giác tánh, mà còn điên đảo tạo bao ác nghiệp, đối trước chư Phật, xét lại tự thân sao khỏi thẹn thùng? Một niệm tàm quý tâm này hiện khởi, liền lập chí sửa đổi con người, không chỉ sửa sai mọi lỗi lầm trong quá khứ, còn quyết tâm không tái tạo mọi ác nghiệp; nhờ vậy, dần dà khai mở giác tánh sẵn có nơi mình mà đạt được quả Chánh Giác. Như vậy, người nào tự biết nhân cách tôn nghiêm thì có thể khiến tâm tàm quý lìa ác hướng thiện kia hoạt động hữu hiệu, sửa các điều quấy, tu các pháp lành. 

Tàm quý sám hối là sự tu trì quan trọng của người học Phật, nó quan hệ vô cùng đến sự thanh tịnh thân tâm. Cho nên người học Phật phải coi trọng pháp này. Nếu chúng ta niệm niệm tàm quý, tức chính là niệm niệm tu trì trang nghiêm thanh tịnh, đâu đến nỗi phạm giới hay tạo ác, và căn lành công đức của ta cũng được tăng trưởng trong niệm niệm. Đồng thời phải biết, các tội ác ẩn giấu trong tâm, nếu không do tâm tàm quý khởi sức sám hối, ắt nội tâm không bao giờ được an lạc. Nên trong Giới Kinh nói: “Có tội nên sám hối, sám hối ắt thanh tịnh”, hoặc nói: “Có tội nên sám hối, sám hối ắt an lạc”. Từ tâm tàm quý sanh sám hối, hiệu lực vô cùng như chúng ta đã thấy. 

Chúng ta phát tâm học Phật, không phải để cầu tiêu khiển, mà để mong cầu Thánh Quả, song Thánh Quả không phải chỉ mong cầu là được, phải cầu bằng sự thực tiễn thực hành. Sự thực hành không ngoài hai phương diệnđoạn áchành thiện. Nếu ác pháp không đoạn trừ, thiện pháp ắt khó tiến tu. Song phương tiện hay nhất để đoạn trừ ác pháp không gì hơn sám hối. Kinh Lục Môn Đà Ra Ni nói: “Các ma nghiệp ở nơi ta nếu không sám hối trước, ắt không sao phát tâm duyên Vô Thượng Giác, cho nên mọi tội lỗi cần phải sám hối trước”. Một số người không chịu công phu sám hối, vì mắc bệnh cho rằng tội mình nhẹ không cần sám hối, hoặc đối với tội ác không chút bố úy. Thực ra đến tội nhẹ cũng không nên coi thường. Hôm nay làm một chút, mai làm thêm chút nữa, tích thiểu thành đa, lâu dần ác nhuộm đầy tâm, sao lại không sợ? Há lại không cần đến sám hối hay sao? 

Do đó, tất cả các hạnh bất thiện do ta tạo từ quá khứ, bất kể hiện phát sanh, hay chưa sanh, giờ đây phát tâm thọ Bát Giới, phải tận tình phát lồ tội ác của mình, khóc mà khẩn cầu pháp diệt tội. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Nếu thọ Bát Quan Trai, trước tiên phải sám hối các tội tạo từ trước, sau đó mới thỉnh thọ giới pháp”. Chỉ có pháp sám hối như vậy mới có thể đạt được lợi ích của sự cầu giới. Bởi vì giới pháp vốn thanh tịnh, nếu tâm địa mình bất tịnh làm sao lãnh thọ được giới pháp thanh tịnh này? Có điều khi cử hành pháp sám hối, phải chí thành tận đáy lòng quyết cải đổi các lỗi xưa, triệt để tịnh hóa thân tâm mới tiêu trừ được mọi nghiệp chướng từ vô thỉ. Nếu chỉ bằng hình thức bề ngoài sám hối thì không sao tiêu trừ được tội nghiệp. Điều này cần phải chú ý. 

Chư vị đến đây thọ Bát Trai Giới, mỗi lần truyền giới, mở đầu tôi luôn luôn dạy chư vị sám hối: “Con tên… nếu thân nghiệp bất thiện, nếu khẩu nghiệp bất thiện, nếu ý nghiệp bất thiện, bởi do tham dục, sân khuểngu si. Nếu đời nay, nếu đời trước có tội như vậy, hôm nay thành tâm sám hối, thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, tâm thanh tịnh thọ hành Bát Giới”. Tuyên đọc lời sám hối này, chúng ta có thể hiểu rõ: tất cả tội nghiệp của chúng sanh đều do ba nghiệp thân, ngữ, ý tạo thành, như sát sanh, trộm cắp là động tác của thân tạo thành tội ác, còn nói dối, nói lời hai chiều… là do lời nói tạo thành nghiệp tội. Các hoạt động nội tâm hướng ác là do nơi ý nghiệp phát sanh. Lìa các hoạt động của ba nghiệp thân, khẩu, ý, còn tội ác nào đáng kể nữa. 

Đã rõ mọi tội ác đều do nhân duyên ba nghiệp sanh ra, hiện tại muốn sám hối thanh tịnh, đương nhiên phải từ nhân duyên ba nghiệp khởi sám mới có thể khiến tội nghiệp tiêu trừ thanh tịnh, nên phải cần dùng ba nghiệp cầu sám hối. Trước khi sám hối phải đủ tàm quý, tàm quý từ tâm sanh, lấy ý nghiệp làm nhân, lễ bái là thân, xưng tán là miệng, hai nghiệp thân khẩu làm duyên. Dùng nhân duyên ba nghiệp như vậy, chí thành cầu diệt hết thảy tội chướng, ắt được tâm thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, thân thanh tịnh. Sau đó mới thọ Bát Giới, như vậy, thân tâm mới lãnh thọ được giới pháp. Hết thảy tội chướng như ngôi nhà tối ngàn năm, tàm quý sám hối như ngọn đèn chiếu phá bóng tối ngàn năm. Cho nên quý vị thọ giới nếu sanh đại tàm quý, chân thật sám hối, chí thành lễ Phật, chẳng những mọi sự đều thành tựuba nghiệp đều được thanh tịnh

Quy chế sám hối của Phật giáo chẳng những phải chân thành sám hối khi thọ giới mà thường nhật cũng phải tùy thời sám hối. Nên người học Phật tốt nhất phải lập khóa sám hối hằng ngày, hoặc khi nhận thấy mình có lỗi là phải làm lễ sám hối chí thành, quyết không để cho chút tội ác nào tồn tại, làm nhiễm ô thân tâm. Có người không biết tầm quan trọng của sự tự mình sám hối, muốn thỉnh người khác sám hối cho mình. Điều này không thể được! Người khác sám hối giùm tuy cũng có công đức, nhưng như trong kinh nói: “Chỉ được một trong bảy phần. Nếu như tự mình sám hối, bao nhiêu công đức mình đều được cả”. Hơn nữa, sám hối không hạn chế thời gian nên lấy thành Phật làm kỳ hạn mà như pháp sám hối. Như vậy bao nhiêu tội chướng đều tiêu tan

Vua xứ Ma Kiệt ĐàTần Bà Ta La, một người Phật tử thuần thành, vì túc nghiệp đời trước nên bị con là vua A Xà Thế bắt nhốt trong ngục tối, tự biết mình nghiệp nặng, nhà vua chí thành sám hối, hướng về phía đức Phật thưa: “Đại Mục Kiền Liên là bạn con, xin thưa Phật từ bi cho Ngài đến truyền Bát Giới cho con”. Mục Liên tuân lời Phật, liền đến truyền giới cho vua mỗi ngày. Sau cùng, đức Phật từ nơi miệng phóng hào quang năm màu chiếu đến đảnh của vua. Nhà vua tuy bị giam cầm trong ngục, song vẫn thấy được đức Phật, đầu diện đảnh lễ, chứng quả A Na Hàm. Do tàm quý sám hối thọ Bát Quan Trai Giới, được công đức thù thắng khó nghĩ bàn. Phương pháp sám hối có rất nhiều cách. Nay chỉ nói công đức sám hối mà thôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14737)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11803)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10317)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12044)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15266)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11051)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10494)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12450)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16414)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14285)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11757)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11553)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12717)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11328)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12034)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52060)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13955)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11416)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13146)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12762)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13195)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17883)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12432)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12635)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54181)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9918)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13810)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14472)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20117)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13756)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15382)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17478)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11907)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13474)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14645)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12467)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12146)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12050)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12523)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13309)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25561)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14520)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11828)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42042)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28298)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38770)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14707)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12684)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16231)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant