Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 7 Tác Pháp Lược Thuyết

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6775)
Chương 7  Tác Pháp Lược Thuyết

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 7 
Tác Pháp Lược Thuyết 

 
Người tại gia học Phật phát tâm thọ giới, dù là Ngũ Giới hay Bát Giới, trước khi chính thức thọ giới, vị Giới Sư truyền giới cần nói rõ ý nghĩa thọ giới và giảng rõ duyên cảnh rộng hẹp cho giới tử để khai mở trí huệ cho họ, khiến họ hiểu rõ tầm quan trọng của giới hạnh, khích lệ họ phát khởi tâm chí duyên với cảnh tướng rộng lớn, vừa khiến họ lập thệ thực hành như vậy trong thời gian đã quy định, vừa khiến họ khởi tâm từ bi đối với cảnh giới vô biên của tình và phi tình. Có như thế, giới mới tăng trưởng. Nhận thức được cảnh giới, tâm trí được khai phát. Vì sao lại coi quan trọng như vậy? Vì đó là điều chủ yếu để nạp thọ giới thể. Nếu người thọ giới không nhận thức được cảnh giới vô biên này, không mở tâm chí xa rộng thì không sao nạp thọ được giới thể. Vậy mà hành lễ thọ giới, thực có khác gì làm trò chơi trẻ con? Như thế làm sao không thuyết pháp khai đạo cho người thọ giới hiểu điều đó được! 

Nói gì đến thời Mạt Pháp này, các vị Truyền Giớihành sự hàm hồ, mà trước đây cả ngàn năm, cũng từng sơ sót rất nhiều trong việc truyền giới, đến độ Nguyên Chiếu Linh Chi Luật Sư của Nam Sơn Nhất Tông đời nhà Nguyên phải than thở: “Nhiều vị Truyền Giới Sư không rành nguyên lý giới pháp nên không thể giải thích được cho người thọ giới hiểu tầm trọng yếu của giới, chỉ như kẻ thuộc lòng y theo sách vở mà tuyên đọc các giới. Nào biết làm như vậy, không những thọ giới tử bị tội, mà người truyền giới cũng có lỗi lớn. Nếu cứ như vậy mà truyền giới mãi thì giới pháp của Như Lai chẳng những không được nâng cao mà ngược lại còn bị hạ thấp”. Quá khứ đã vậy, hiện tại còn muốn tiếp diễn nữa sao? Quý vị mỗi lần thọ Bát Giới lại được nghe thêm ý nghĩa của Giới, mong sao các vị hiểu rõ về giới mà biết được cảnh tướng vô biên của giới. 

Các vị hôm nay tuy chỉ thọ Bát Giới, nhưng rất liên hệ đến tiền đồ học Phật mai sau, nên khi phát tâm thọ giới, trước hết cần có sự hiểu biết đại lược đối với các giới đang thọ. Chúng ta đã biết kinh điển của Phật giáo không phải chỉ do Phật nói, mà có cả thảy năm hạng người nói, nhưng giới luật của Phật giáo chỉ duy có Phật chế định, không ai có quyền chế. Đức PhậtPhật tử chế đủ các giới pháp. Giới nào cũng là chế ước của mọi hành vi, tư tưởng của chúng ta. Chẳng hạn: nơi thân không được có những hành vi bất chính, nơi khẩu không được có những lời lẽ bất hợp lý, nơi ý không được có những ý niệm tà vạy. Đó là những điều cho người mới phát tâm nên đúng pháp học tập và ngay đến chư Phật, Hiền Thánh cũng nhờ tu tập giới pháp này mà thành tựu. Vì vậy nên gọi là Thánh Pháp. Hiện tại, phát tâm thọ giới pháp, cần nên biết cụ thể nội dung của giới pháp để tự mình có được nhận thức chính xác

Đã là người chân thành phát tâm thọ giới, tất nhiên sẽ được giới thể, có sức mạng kháng lại các hành vi phạm giới sau này. Nhưng giới thể này làm cách nào phát được? Dựa theo khuôn khổ của Ngũ GiớiBát Giới, sở dĩ phát được là nhờ nương vào sự duyên nơi các cảnh y báo, chánh báo của pháp giới chúng sanh. Như duyên nơi mười phương ba đời tứ thánh lục phàmpháp giới chúng sanh thì phát được giới thể của cảnh hữu tình. Còn như duyên nơi hết thảy vi trần quốc độ, sơn hà đại địa thì phát được giới thể của cảnh phi tình. Đối với những điều này, người truyền giới pháp phải giảng giải rõ cho người thọ giới, để họ biết đối tượng phát được giới thể là gì? Đối tượng gìn giữ giới hạnh là gì? Nếu không, khi đã thọ giới đã không thể đắc giới thể, mà sau khi thọ giới rồi, vẫn không biết phải trì giới thế nào. Ngẫm coi, điều này quan hệ vô cùng đối với người thọ giới nên người truyền giới bắt buộc phải giảng rõ, và người thọ giới phải học hỏi điều này. 

Giới Sư khi khai đạo cho giới tử, phải xem trình độ tiếp thọ của họ đến đâu. Nếu cao thì phân tích cặn kẽ, nếu thấp thì chỉ bày tổng quát. Nhưng điều quan trọng nhất phải cho họ biết cảnh tượng của giới mà họ phải phát sanh là gì. Nếu họ không biết chút nào về điều này, ắt có thọ giới cũng vô ích. Điều đáng buồn nhất là hiện nay người truyền cũng như người thọ thực sự hiểu rõ được các điều trên, có được mấy người? Từ xưa cho đến nay đều vậy, chả trách Linh Chi Luật Sư than thở, cho đó là bằng chứng không may của Phật pháp

Hoặc giả có người nói: “Thọ giới thì cứ thọ là đủ rồi, cần gì phải nói giới cảnh của nó nữa, chỉ làm cho người thọ thêm rối rắm?” Trong Tư Trì Ký, Linh Chi Luật Sư giải thích: “Sở dĩ chúng sanh tạo tác đủ các ác nghiệp chính vì không hiểu biết chính xác về tình và phi tình. Giả nhưnhận thức chính xác đâu đến nỗi tạo nghiệp vô cùng như vậy. Tất cả ác nghiệp đều sanh khởi từ cảnh giới tình và phi tình, hiện tại phát tâm thọ Luật Nghi Giới, dĩ nhiên vẫn từ cảnh giới này mà sanh, nghĩa là cũng phải duyên nơi cảnh tượng bao la của tình và phi tình, mới có thể phát được giới thể. Đức Phật y cứ theo đó mà chế lập giới pháp. Người phát tâm thọ giới nếu không hiểu rõ giới cảnh, ắt khi thọ giới không thể dụng tâm lãnh thọ. Như vậy, đương nhiên sự khai thị giới cảnh là điều tất yếu, không thể xem thường được”. 

Đã có nhận thức chính xác về cảnh sở duyên của sự phát sanh được giới thể rồi, làm thế nào khai đạo người thọ giới nương cảnh phát tâm? Phát tâm thọ giới thì dễ, nhưng phát tâm mạnh hay kém có ảnh hưởng đến sự đắc giới thể có thù thắng hay không? Nếu phát tâm kém, ắt được giới thể không thù thắng. Ngược lại, phát tâm mạnh, ắt giới thể thù thắng, dĩ nhiên, vì phát tâmđắc giới thuận chiều. Vì vậy, Giới Sư khi khai thị cho giới tử luôn luôn khích lệ: “Nên phát tâm thượng phẩm, cầu được giới thượng phẩm”. Có tâm thượng phẩm, ắt có trung và hạ phẩm, nhưng trong Luật không nói rõ ba phẩm tâm này khác biệt thế nào. Có lẽ trung và hạ không thù thắng nên không đề cập tới. 

Muốn cho người thọ giới niệm niệm liên tục phát tâm thượng phẩm, điều quan trọng nhất là trước khi thọ giới phải được một vị Giới Sư hiểu biết chính xác về Giới Luật chỉ bày thêm những điều tất yếu để có sẵn một khái niệm rành rẽ về những điều sẽ gặp khi thọ giới. Có vậy, khi chính thức thọ giới mới đạt được sự thanh tịnh của giới thượng phẩm. Nếu không trải qua sự khai thọ trước như vậy, đến khi thọ giới, mới bảo họ phát tâm thượng phẩm thì chẳng có hiệu quả gì, bởi lẽ, lúc đó nói sơ qua danh từ thượng phẩm, người thọ làm sao hiểu được tính chất trọng yếu của giới pháp, chỉ hàm hồ làm theo nghi thức truyền giới, mà thậm chí nhiều khi ngay nghi thức truyền giới đã không làm nên sự, nói gì đến chuyện đắc giới thượng phẩm, chỉ e đắc giới cũng đủ là vấn đề rồi. 

Người thọ giới sau khi trải qua sự khai đạo của Giới Sư, chân thành phát khởi tâm thượng phẩm, hợp cùng phép Yết Ma đúng pháp, thành sự cảnh tương ưng nên được giới thể. Song lúc lãnh thọ điều hệ yếu của giới thể, người thọ phải lưu ý: cần phải chuyên tâm nhất ý vận dụng tư tưởng duyên khắp cảnh giới tình và phi tình. Do nhờ cảnh giới được quán rộng lớn vô biên, nên tâm lượng năng duyên cũng theo đó mà rộng lớn vô hạn. Lại quán tưởng tự thân đồng như hư không, biến khắp pháp giới, còn phải giữ cho quán tưởng niệm niệm phân minh, không để cho mảy may vọng tưởng xen tạp, và không được để cho tưởng duyên nơi cảnh giới vô quan này. Có vậy mới nạp thọ được giới thể. Giả như để vọng niệm xen tạp, cho dù trên hình thức đang thọ giới, song thực tế vẫn không đắc được giới thể

Chỗ này hoặc có người hỏi: “Thể của mạng sống người thọ giới là cái thân cao sáu thước này đây, tại sao phải quán tưởng thành như hư không rộng lớn?” Phải biết giới pháp mà ta muốn lãnh thọ nào phải chỉ có chút đỉnh, mà nhiều như cát bụi, làm thế nào cái sanh mạng thể chút xíu này dung chứa được các giới pháp nhiều như vậy? Cho nên cần phải vận dụng quán tưởng, quán tự thân biến khắp pháp giới, mới dung nạp hết mọi thiện pháp của vô biên pháp giới. Đủ thấy sắc thân ngũ uẩn hiện tiền này, tuy quá khứ là chỗ chiêu cảm các hoặc nghiệp hữu lậu, nhưng nhờ tác phápsanh khởi giới pháp nhiều như cát bụi, trôi chảy trong thân tâm của sắc thân. Do vậy, nhờ sắc thân này đắc được giới pháp. Khi chúng ta chánh thức tác pháp thọ giới phải vận dụng công phu quán tưởng, để đưa giới pháp quy nhập thân tâm

Điều quan trọng của thọ giới là phải được giới thể, nếu không được giới thể thì thọ cũng như không thọ. Vấn đề là người thọ giới được giới thể vào lúc nào? Có người cho rằng sau khi thọ Tam Quy, lúc thuyết giới tướng, mới là chân chánh thọ giới và cũng mới có thể được giới thể. Nhưng thực tế chưa hẳn vậy, khi thọ xong Tam Quy là đắc được giới thể. Trong Ngũ Giới Chính Phạm nói: “Thọ Tam Quy rồi liền đắc giới thể”. Thọ Ngũ Giới, tiếp theotuyên thuyết về Ngũ Giới tướng, thọ Bát Giới tiếp theotuyên thuyết Bát Giới tướng. Yết Ma Chú nói: “Truyền Tam Quy rồi nói: Hướng về Tam Quy chính là giới thể, nay lại tam kết (7) là chỗ quy hướng của Giới”. Đủ thấy vừa nói dứt Tam Quy, lập tức đắc giới thể. 

Quá trình Tam Quy đắc giới như thế nào? Hoằng Nhất Luật Sư căn cứ theo Tam Pháp Thứ Đệ trong Tư Trì Ký giải thích: “Bất luận thọ Ngũ Giới hay Bát Giới, khi nói ba lần thệ nguyện quy y là đã đem giới thể quy nạp nơi tâm. Quá trình của nó như sau: Khi nói thệ quy y biến thứ nhất, do sức quan hệ của tâm, vô biên thiện pháppháp giới có thể khiến tâm niệm chuyển động hoàn toàn, biến đổi ác pháp thành ra thiện pháp. Khi nói thệ quy y biến thứ hai, vô biên thiện pháp hoàn toàn tụ lại trên không như mây che, khiến thân tâm được thanh lương. Khi thệ quy y biến thứ ba, vô biên pháp giới thiện pháp bỗng từ không trung rơi xuống, rót vào thân tâm, tràn đầy trong sanh mạng thể. Vô biên thiện pháp như vậy chứa trong thân tâm, từ đó nương theo giới pháp này, tu tập định huệ vô lậu, lâu dần vượt được dòng sanh tử, đến thành Niết Bàn, được đại giải thoát”. 

Giới thể đã đắc được ngay khi thuyết Tam Quy, trước khi truyền giới đương nhiên phải nói Tam Quytình cảnh lúc đó như sau: Người phát tâm thọ Bát Trai Giới, quỳ chắp tay trước Phật và Truyền Giới Sư, nói theo Giới Sư: “Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng một ngày một đêm làm tịnh hạnh Ưu Bà Tắc (Di)”. Nói như vậy ba lần, tiếp theo nói: “Con tên là… quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, một ngày một đêm làm tịnh hạnh Ưu Bà Tắc (Di)”. Cũng nói ba lần như vậy. Đó là theo Trí Độ Luận. Còn chỗ khác thêm câu là: “Như Lai cho đến bậc Chánh Giác, là Thế Tôn của con”. Sở dĩ Trí Độ Luận không ghi câu này vì đa số người thọ Bát Trai Giới đều đã thọ Ngũ Giới, nên đã từng nói như vậy khi thọ Ngũ Giới, nên hiện tại lược đi không nói. 

Trong Văn Quy Y dùng hai chữ “tịnh hạnh” như trên để phân biệt với “bất tà dâm” của Ngũ Giới, biểu thị con người thọ Bát Trai Giới đã không tà dâm mà còn tuyệt dâm. Một ngày một đêm là kỳ hạn thọ giới, khác với Ngũ Giới là giới suốt đời. Phật, Pháp, Tăng là đối tượng quy y cho đệ tử Phật, nhưng danh từ Tam Bảo vào thời kỳ đó ở Ấn không riêng Phật tử dùng mà có đến 96 ngoại đạo cũng dùng từ ngữ Tam Bảo, nên để khỏi lầm lẫn giữa Tam Bảo của Phật giáo với ngoại đạo, phải xưng đủ là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng để chỉ rõ tôn hiệu của Phật, Pháp, Tăng mà trong các ngoại đạo, không ngoại đạo nào đủ tư cách để xưng như vậy. “Con tên là” là xưng pháp danh của mình, bày tỏ chính mình quy y, không phải quy y giùm ai. 

Sau khi dùng Tam Quy, Tam Kết rồi, chẳng những đã đắc giới thể, lại còn có chỗ quy hướng, lại thuyết thêm giới tướng để người thọ đúng pháp hộ trì. Giả như không biết giới tướng ra làm sao thì có phạm cũng không hay, điều này thực tệ và rất nguy hại. Giới tướng nên nói thế nào? Theo Trí Độ Luận: “Như chư Phật cả đời không sát sanh, cũng vậy con trọn một ngày đêm không sát sanh. Như chư Phật cả đời không trộm cắp, cũng vậy con nay trọn một ngày đêm không trộm cắp. Như chư Phật cả đời không dâm dục, cũng vậy con nay trọn một ngày đêm không dâm dục. Như chư Phật cả đời không nói dối, cũng vậy con nay trọn một ngày đêm không nói dối. Cho đến không uống rượu, không ngồi nằm giường cao rộng, không trang sức anh lạc, hoa man, không thoa, ướp phấn hương nơi thân, không tự ca múa hát và cố ý xem nghe cũng giống vậy. Đã thọ tám giới, như chư Phật cả đời không ăn quá ngọ, con cũng vậy trọn một đêm không ăn quá ngọ. Con thọ hành Bát Giới, tùy học các pháp Phật, gọi là Bố Tát”. 

Y theo văn tựa hồ có đến chín giới, nhưng thực chỉ có tám vì sao? Xin dành lại cho phần “chi số biện biệt” sẽ giải thích. Đối với giới tướng này, trong Yết Ma Sớ từng giải thích: “Như chư Phật không sát sanh” là đem cảnh giới thù thắng của chư Phật cùng các việc nên làm đề ra trước. Từ chỗ “con tên là” trở xuống hiển thị giới tử nên làm như Phật. Nói cách khác, lấy đức Phật làm chuẩn, đức Phật làm sao, ta làm vậy. Trí Độ Luận giản lược, nhưng trong các kinh luận khác, phải qua phần vấn đáp mới tuyên thuyết giới tướng. Như hỏi có thể giữ được không, được hay không không nhất định bó buộc, tùy sức mà hành. 

Trước tiên thọ Tam Quy, rồi cảm phát giới thể của Bát Giới, sau đó truyền giới tướng để hiểu rõ sự thọ trì từng giới. Tuy vậy, vẫn chưa kể là tác pháp viên mãn, còn cần người thọ giới phải phát nguyện nữa. Nếu thọ giới mà không phát nguyện, tuy có công đức, nhưng rất ít. Phải biết Bát Giới thuộc về hạnh, phát nguyện thuộc về nguyện. Hạnh nguyện tương ưng phối hợp mới thành phúc huệ thắng nghiệp. Nếu chỉ có giới hạnh, không có ngu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13971)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10740)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10405)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11869)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13526)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33513)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11251)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12823)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11525)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17771)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11320)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11746)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11404)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18871)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12460)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11215)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15623)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11610)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12630)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12547)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13862)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12833)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13200)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12651)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11651)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12231)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19687)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11877)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16729)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12573)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15978)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12762)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12134)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11800)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13140)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19736)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11070)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11172)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11014)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9950)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11655)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant