Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Đại Lão Pháp Sư Thích Diễn Bồi

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8896)
Tiểu Sử Đại Lão Pháp Sư Thích Diễn Bồi

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Tiểu sử Đại Lão Pháp Sư Thích Diễn Bồi
(theo Huệ Quang Từ Điển)

 
Lão Pháp Sư người Giang Đô, tỉnh Giang Tô, họ Lý, hiệu Đế Quán. Ngài sinh năm 1912. Năm 12 tuổi xuất gia với Hòa Thượng Thường Thiên ở am Phúc Điền, Lâm Trạch, Cao Bưu. Năm 18 tuổi, Sư thọ Cụ Túc Giới tại viện Phúc Thọ ở Bảo Ứng. 

Lúc đầu, Sư đến Quán Tông Giảng Tự học Thiên Thai Giáo Quán, kế đến các viện Mân Nam, Giác Tân, Hán Tạng nghiên cứu ý chỉ hai tông Tánh, Tướng và học Trung Quán truyền từ Tây Tạng. Sư đã từng thân cận các cao tăng đương thời như Đế Nhàn, Thái Hư, Từ Hàng, Ấn Thuận, cũng từng giảng dạy tại Hoa Tây Phật Học Viện, Liên Tông Học Viện, Hạ Môn Đại Giác Giảng Xá v.v… 

Năm 1949, Pháp Sư đến Hương Cảng, hợp sức biên tậpấn hành bộ Thái Hư Đại Sư Toàn Tập. Sau đó, qua Đài Loan làm công tác trứ thuật hoằng pháp, học Nhật ngữ và các học thuyết của các học giả Nhật Bản. Sư từng sang hoằng pháp ở Thái Lan, Việt Nam, Cao Miên, Lào, Tân Gia Ba, Mã Lai, Phi Luật Tân và các nước vùng Bắc Mỹ. 

lần lượt giữ các chức vụ Chủ Tịch Hội Phật Giáo Trung Quốc, trụ trì các chùa Thiện Đạo, Huyền Trang, Linh Phong Bát Nhã Đường ở Tân Gia Ba, Diệu Pháp Tinh Xá ở Việt Nam… và viện trưởng viện Thái Hư Phật Học, xử lý thường vụ Từ Hàng Trung Học. Sư có trứ tác và dịch thuật rất nhiều, trong đó phần trứ tác được đăng rải rác trong các đặc san Phật Giáo, phần dịch thuật được gom góp thành Đế Quán Toàn Tập… 

Lược Truyện Từ Hàng Trưởng Lão (1895-1954)
(theo Huệ Quang Từ Điển)

 
Đại Lão Luật Sư Từ Hàng người huyện Kiến Ninh, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, họ Ngải, tự Ngạn Tài, hiệu Kế Vinh. 

Ngài mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Năm 17 tuổi, xuất gia với Hòa Thượng Tự Trung, năm sau thọ giới Cụ Túc tại chùa Năng Nhân ở Cửu Giang. Sư từng tham lễ khắp các đạo tràng như Cửu Hoa, Thiên Thai, Phổ Đà… Sư học Thiền tại chùa Thiên Ninh ở Thường Châu, chùa Cao Mân ở Dương Châu, theo học với Pháp Sư Đế Nhàn, lại học Tịnh Độ với Pháp Sư Độ Ách. Năm 1927, Sư đến Phật Học Viện Mân Nam, gần gũi Thái Hư Đại Sư, được Ngài hun đúc, từ có có chí cách tân Phật Giáo. Ngoài ra, Sư còn gần gũi Pháp Sư Viên Anh. Sư từng 2 lần nhập thất để đọc Đại Tạng trong sáu năm. Năm 1929, Sư chủ trì chùa Nghinh Giang ở An Khánh, hết lòng với sự nghiệp hoằng pháp, đề xướng cải cách Tăng Già, chỉnh đốn Phật Giáo

Sư cũng từng sáng lập hội Phật Học Trung Quốc tại thủ đô Rangoon của Miến Điện (Myanmar). Năm 1940, Sư theo Đại Sư Thái Hư thăm viếng các quốc gia Phật Giáo vùng Đông Nam Á, kế đó lưu lại ở Mã Lai Á, sáng lập các cơ sở như học viện Bồ Đề ở Tinh Châu (Tân Gia Ba), hội Phật Học Tinh Châu, hội Phật Học Di Bảo, hội Phật Học Tân Thành, đồng thời phát hành nguyệt san Nhân Gian, ra sức đẩy mạnh việc Phật học xã hội hóa, nhờ đó, Phật Giáo Nam Dương được hưng thịnh. Năm 1948, Sư đến Trung Lịch ở Đài Loan chủ trì Phật Học Viện Đài Loan do Pháp Sư Diên Quả sáng lập. Sau đó, Sư thành lập Di Lặc Nội Viện ở Tịch Chỉ để tiếp nhận các thanh niên Tăng từ Hoa Lục đến. Đồng thời khai giảng các kinh luận Đại Thừa như Nhân Minh, Duy Thức, Lăng Nghiêm… tận tâm tận lực trong việc giáo dục, hoằng hóa. 

thị tịch vào tháng 5 năm 1954, thọ 60 tuổi, 42 tăng lạp. Di thể Sư ngồi kiết già trong một cái chum lớn, được an trí tại viện Tĩnh Tu sau núi. Ba năm sau, mở chum ra, nhục thân Sư vẫn không hư hoại, các nơi đều kính ngưỡng. Sau đó, đồ chúng xây dựng Từ Hàng Đường để kỷ niệm đức nghiệp của Sư và tôn phụng nhục thân. Người đời sau gom góp tác phẩm của Sư thành Từ Hàng Pháp Sư Toàn Tập lưu hành ở đời. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12517)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11196)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12005)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13149)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13641)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33672)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13062)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11633)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17900)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11448)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11864)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11508)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18979)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12545)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11336)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15769)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11824)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11699)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13971)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13000)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12952)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13301)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12775)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11749)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11738)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12328)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12388)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19826)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11961)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11991)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16888)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12672)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15063)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16121)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12884)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12234)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11919)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11929)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13152)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16509)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11820)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19863)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11157)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11262)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11099)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10971)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10037)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11756)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant