Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13 Phá Thời Gian – Phẩm 19

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7535)
13 Phá Thời Gian – Phẩm 19

TRUNG QUÁN LUẬN 13 PHẨM
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2007

Phá THỜI GIAN

Giải thích đề tựa

Luận Đại Trí Độ ghi : “Có người nói, thời giannguyên nhân không thay đổi, là thực hữu, là vi tế không thể thấy, không thể biết, chỉ do kết quả của hoa trái mà biết có thời gian. Thành tuy thời gian không thể thấy mà biết chắc có thời gian, vì nhìn quả biết nhân ... Thời gian không biến hoại, nên thường”. Cái thấy này tương đương với cái thấy của Newton trước đây “Ông xem không gianthời gian là hai yếu tố tuyệt đối, vật chất thì vận động trong không gianthời gian. Vật chất đối với ông là vật chất có khối lượng. Ta thử một thí dụ, đối với Newton, thời giankhông gian như một sân khấu, còn vật chất vận động là những diễn viên trên sân khấu đó. Diễn viên không có, thì sân khấu vẫn tồn tại”. [28] 

Do người đời CHẤP thời gian là thường, là không biến hoại v.v… nên Luận chủ luận để phá đi cái chấp này. Nếu thấy thời gian chỉ là pháp duyên khởi không tánh, thì không cần phá. Song nếu thấy duyên khởi mà vẫn cho thời gian là thực (tức có tánh) thì vẫn phá. Phá để hiển bày thực tánh của thời gian

LUẬN GIẢI TOÀN PHẨM

若因過去時 Nếu nhơn thời quá khứ
有 未來現在 Có vị lai hiện tại
未 來及現在 Vị laihiện tại 
應 在過去時 Nên ở thời quá khứ (1) 
若 過去時中 Nếu trong thời quá khứ
無 未來現在 Không vị lai hiện tại
未 來現在時 Thời vị lai hiện tại
云 何因過去 Làm sao nhơn quá khứ (2)
不 因過去時 Không nhơn thời quá khứ
則 無未來時 Ắt không có vị lai
亦 無現在時 Cũng không thời hiện tại
是 故無二時 Cho nên không hai thời (3)

Đây là lý luận để phá thời gian

Thời gian được biểu trưng bằng 3 thời là quá khứ hiện tạivị lai. So sánh với cái đã qua, mà nói là HIỆN TẠIVỊ LAI. Tức QUÁ KHỨ là nhân của HIỆN TẠIVỊ LAI. Là nhân thì HIỆN TẠIVỊ LAI không lìa QUÁ KHỨ. Không lìa thì HIỆN TẠIVỊ LAI đều ở thời QUÁ KHỨ. Nên nói “Vị lai và hiện tại, nên ở thời quá khứ”. 

Nhưng nếu VỊ LAIHIỆN TẠI cũng ở QUÁ KHỨ, thì chúng là QUÁ KHỨ, không còn là VỊ LAIHIỆN TẠI. Vì vậy QUÁ KHỨ không thể là nhân của VỊ LAIHIỆN TẠI. Không nhân thì không quả. Tức HIỆN TẠIVỊ LAI cũng không. Đây là ý nghĩa của (P.2) và (P.3).

Không VỊ LAI, HIỆN TẠI thì QUÁ KHỨ cũng không. Ba thời không thì thời gian cũng không. 

以如是義故 Bởi do nghĩa như vậy
則 知餘二時 Thì biết hai thời khác
上 中下一異 Thượng trung hạ nhất dị
是 等法皆無 Các pháp ấy đều không (4)

BỞI DO NGHĨA NHƯ VẬY, là nói về kết quả đã luận ở phần trên. Từ kết quả đó mà biết, nên nói THÌ BIẾT.
HAI THỜI KHÁC là chỉ cho hiện tạivị lai. Trên lấy quá khứ làm nhân để biện. Tương tự vậy mà biện với cái nhân là hiện tại, vị lai, và tất cả các pháp tương đãi khác. Trong đó có pháp THƯỢNG - TRUNG - HẠ, là chỉ cho trên - giữa - dưới, NHẤT - DỊ là chỉ cho một và khác. 

CÁC PHÁP ẤY ĐỀU KHÔNG là nói về tánh của các pháp đó. Pháp duyên khởi thì tánh chúng là không. Tức tướng thì có, nhưng chỉ như trăng dưới nước, bóng trong gương, không có chất thực. 

時住不可得 Thời gian trụ không thể
時 去亦叵得 Thời gian đi không thể 
時 若不可得 Thời, nếu bất khả đắc
云 何說時相 Làm sao nói tướng thời? (5) 

Đây là nêu bày thực tướng của thời gian : KHÔNG TRỤ CŨNG KHÔNG CHUYỂN. Đó là ý của hai câu đầu. Không trụ không chuyển, tức thời gian không phải là thứ có thể nắm bắt. BẤT KHẢ ĐẮC là không thể nắm bắt. Không thể nắm bắt thì thời gian không có tướng để nói. Đó là ý của hai câu sau.

THỜI GIAN TRUï, là cho thời gian đứng yên một chỗ. Với cái nhìn của mình hiện nay, thời gian không đứng yên. Vì nếu nó đứng yên thì không có quá khứ, hiện tạivị lai, tức không có thời gian.

THỜI GIAN ĐI là cho thời gian trôi chuyển. Đây là cái thấy của tất cả chúng ta trong thế giới vĩ mô này, cũng chính là loại thời gian tâm lý mà giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói trong Giai Điệu Bí Ẩn “Chúng ta hình dung thời gian như nước trong một dòng sông chảy, như những gợn sóng trên mặt sông đi qua. Trên con tàu thả neo đứng bất động trong hiện tại, chúng ta nhìn dòng sông thời gian trôi qua, những con sóng quá khứ lùi xa và những con sóng tương lai xô tới. Chúng ta thừa nhận cho thời gian một chiều không gian và chính sự biểu diễn như thế sự chuyển động của thời gian đối với chúng ta trong không gian, cho chúng ta cảm giác về quá khứ, hiện tại và tương lai ... Cái thời gian chủ quan hay thời gian tâm lý ấy, tất cả chúng ta phải gánh chịu. Sự phân biệt như thế giữa ba thời chi phối cuộc sống của chúng ta …”. Nếu lấy cái tướng trôi đi đó, cho là thực tướng của thời gian, thì Bồ-tát Long Thọ nói THỜI GIAN ĐI KHÔNG THỂ. Các nhà vật lý hiện đại cũng có cái nhìn tương tự. “Quan niệm như thế về thời gian, không phù hợp lắm với các nhà vật lý hiện đại. Vì nếu thời gian có chuyển động thì vận tốc của nó là bao nhiêu? Một câu hỏi quá ư vô lý. Mặt khác, quan điểm cho rằng chỉ có hiện tạitồn tại, chỉ có nó là thực tại, lại không tương thích với sự phá bỏ thời gian cứng nhắc và tuyệt đối bởi thuyết tương đối … Sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, từ nay không còn hữu dụng. Tất cả mọi thời điểm đều có giá trị như nhau ... Vì các khái niệm của quá khứ, hiện tại và tương lai bị loại bỏ, nên thời gian không cần chuyển động nữa. Nó không trôi nữa …”. [29] Thời gian không trôi nữa, nhưng không có nghĩa là nó đứng yên. Nếu có đứng yên, chỉ là tướng tùy duyên của thời gian, không phải là thực tướng của thời gian. Vì sao? Vì Long Thọ nói THỜI GIAN TRỤ KHÔNG THỂ. 

Vậy thực tướng của thời gian là gì? Tướng thực của thời gian thì không tướng để nắm bắt. Nói theo Trung Luận, thời gian KHÔNG DỪNG TRỤ CŨNG KHÔNG TRÔI ĐI. Trôi đi hay dừng trụ chỉ là tướng theo duyên. Nó không mang tính tuyệt đối phổ quát. Các nhà vật lý hiện đại cũng nói “Thời gian duy nhất và phổ quát trong vũ trụ Newton bây giờ đã được thay thế bằng nhiều thời gian riêng, hoàn toàn khác nhau trong vũ trụ Einstein ... Một giây đối với người ngoài trái đất, có thể sẽ là vĩnh viễn đối với chúng ta. Một giây cũng có thể thành một giờ, một năm, một thế kỷ … tùy thuộc vào vận tốc bỏ chạy của các thiên hà. Nghĩa là, thời gian đã mất đi tính phổ quát của nó. Cũng như không gian, thời gian trở nên đàn hồi. Nó dài ra hay ngắn lại tùy theo chuyển động của người đo nó”. [30]

Sau là kết luận vì sao nói thời gian không đi cũng không dừng. 

因物故有時 Nhơn vật nên có thời
離 物何有時 Lìa vật sao có thời
物 尚無所有 Vật còn không thể có
何 況當有時 Hà huống là có thời (6)

Chúng ta nhận ra thời gian không phải vì nó có một tướng xác định của riêng nó mà NHỜ vào vật. Như thấy cây sanh trưởng từ nhỏ đến lớn mà ta nói có thời gian. Hoặc thấy quá trình hình thành và hoại diệt của một vật mà ta nói có thời gian. Như đất là thời quá khứ của bình. Bình là thời hiện tại. Bình hoại là thời vị lai của bình. Không thể nhận biếtthời gian ngoài cái bình. Tức không có thời gian độc lập ngoài không gian. Thời gian không phải là một thứ sẵn thường, để những thứ khác nương đó mà hình thành hay hoại diệt

VẬT CÒN KHÔNG THỂ CÓ, là nói vật không có tự tánh. Vì vạn pháp chỉ là duyên hợp. Duyên hợp thì không tánh (Đã phá ở phẩm Phá Nhân Duyên). Vì vạn pháp chỉ do THỨC biến, nên không có tự tánh.

Vật không, thì thời gian cũng không.

Chú Thích:

1 Nhân Duyên được triển khai thành Nhân Quả.

2 Điều này được xem là tính chất chính của Nhân Duyên, dùng lập luận phá tự tánh

3 Vô sanh, không, như như, pháp tánh v.v... đều dùng để chỉ cho thực tánh của vạn pháp. Danh khác mà thể đồng.

4 Phần thức nói trong kinh Đại thừa, không phải Tiểu thừa.

5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

6 Trích trong T.Đ Phật Học Hán Việt. Có chỗ cho ÁI LUẬNngôn luận của tâm chấp thủ đắm trước các pháp. Nếu ái luận cũng là một loại ngôn luận, thì niết bàn của Nhị thừa thuộc Bát Bất. Song niết bàn đó chỉ có không sanh mà không có không diệt. Trong khi Trung Luận Sớ ghi ÁI LUẬN là chỉ cho tâm thủ trước các pháp. Nhị thừa có tâm thủ trước niết bàn. Phá hí luận là phá cái tâm nêu ra sự hiểu biết đối với các pháp, cũng phá luôn tâm thủ trước niết bàn của Nhị thừa. Nên đây lấy theo định nghĩa của Trung Luận Sớ. 

7 Triết Học Marx Lenin – Nhà Xuất Bản Giáo Dục.

8 Triết Học Marx Lenin – Nhà Xuất Bản Giáo Dục. 

9 Đây là phần ngài Hàm Thị giải thích câu đức Phật nói “Thấy ngoại tánh phi tánh”. “Thấy ngoại tánh phi tánh” là thấy tánh của các pháp bên ngoài là không tánh.

10 Bởi tánh vốn không tánh, nên không thể tự giữ mà có bất giác.

11 Cũng là duyên hợp giữa căn - trần - thức nhưng THƯÙC bây giờ đã có phần TÌNH trong đó. Sát na đầu ấy qua quá nhanh, nên người đời chỉ sống được với phần thức tình chứ không sống được với phần thức hiện lượng. Hiện lượng là khái niệm diễn tả cho tình trạng “Vật thế nào ta nhìn chúng đúng như thế ấy”, không bị ràng buộc bởi quan niệm tình cảm của riêng mình để vật trở thành xấu hay tốt. 
 
12 Hành ấm, thức ấm là những khái niệm không thể thay thế bằng những khái niệm bình thường cho dễ hiểu. Nên đành phải ghi nguyên những khái niệm này ra mà không giải thích. 
 
13 Sự khác nhau này bắt nguồn từ sự huân tập tu hành trước đây của các thiền giả. Như cảnh giới tu chứng của Thanh văn khác cảnh giới của Bích Chi Phật, khác cảnh giới của ngoại đạo. Được phân biện rõ trong phần “Ngũ ấm ma” của kinh Lăng Nghiêm

14 Đây là cái chấp SANH VÔ SANH thuộc phần thức ấm trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của ngài Hàm Thị. Các bạn có thể nghiên cứu bản dịch của TT Thích Phước Hảo.

15 Chấp QUI VÔ QUI thuộc Thức Ấm

16 Chấp TRI VÔ TRI thuộc Thức Ấm. Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của Hàm Thị. Có thể nghiên cứu bản dịch của TT Thích Phước Hảo.

17 Tức chúng không ở trong trường hợp “không một cũng không khác” mà hoặc là rơi vào MỘT hoặc là rơi vào KHÁC.

18 Còn SANH là năng sanh.

19 Nói đến tánh thì phải là tánh không. Duyên khởi chỉ là mặt hiện tượng biểu hiện cho cái không tánh ấy, chứ Duyên khởi không phải là bản thể của vạn pháp

20 Nên hiểu, nhân nói đây bao gồm luôn cả việc đủ duyên.

21 Không phải là câu thứ tư của tứ cú.

22 Đây là nói đến thân dư báo của Phật, là hóa thân Phật (mặt thị hiện của Phật pháp thân). Đứng trên mặt pháp thân mà nói thì Phật không có quả báo hay không có không quả báo. Nhưng trên mặt hóa thân, một khi đã có nhân (nếu thuộc định nghiệp) thì nhất định sẽ có quả. 
 
23 Thiền sư Hàm Thị – Lăng Già Tâm Ấn. H.T Thanh Từ dịch. 

24 Tướng ban đầu : Tức là tướng sơ trong luận Đại Thừa Khởi Tín. Luận ghi “Lại tâm khởi không có tướng sơ có thể biết mà nói biết tướng sơ, chính là vô niệm”.
25 HUÂN là xông ướp, TẬP là lặp đi lặp lại. HUÂN TẬP là chỉ cho thói quen của mình. Có thói quen về suy nghĩ, có thói quen về hành động. Thứ gì làm hoài thành thói quen, sẽ thành những dấu ấn không mất trong mỗi người. Đó là quá trình huân tập. Kinh luận gọi những dấu ấn ấy là chủng tử. Nghĩ ác làm ác hoài thì sẽ có chủng tử ác trong thức tạng. (Thức tạng chính là tâm chân thật của mình. Nhưng do đã có vọng động, không còn được thanh tịnh như dạng nguyên thể ban đầu nên gọi là thức tạng). Nghĩ thiện, làm thiện hoài thì có những chủng tử thiện trong thức tạng. Chủng tử ác đủ duyên sẽ biến hiện thành những cảnh giới khổ đau. Chủng tử thiện đủ duyên sẽ biến thành những cảnh giới sung sướng. Cho nên, niết bàn hay địa ngục không lìa tâm mà có. Đối với người có sẵn chủng tử địa ngục trong thức tạng, khi đủ duyên địa ngục là có. Với người không có chủng địa ngục thì địa ngụchoàn toàn không. Thành ra, thể tánh KHÔNG thanh tịnh chân thật thì ai cũng có, nó là nền tảng để mọi cảnh giới hiện hữu. Nhưng cảnh giới mà mỗi người đang thọ nhận thì tùy thuộc vào chủng thiện ác mà mình đã huân tập trong quá khứ. Đây là lý do vì sao không thể khẳng định địa ngục là có hay là không.

26 Tánh là chỉ cho sự không đổi. 

27 Tánh khôngchân không diệu hữu không khác nhưng không một. KHÔNG KHÁC vì tánh không chính là chân không diệu hữu. KHÔNG MỘT vì tánh không là mới nói đến mặt THỂ của vạn pháp, chân không diệu hữu là muốn nói cái THỂ ấy giờ đã hiển đủ TƯỚNG và DỤNG. Như vậy không khác là nói ở mặt LÝ. Không một là nói luôn ở mặt SỰ.

28 Trích “Khi vật lý gõ cửa bản thể học” của T.S Ng. Tường Bách

29 Giai Điệu Bí Ẩn –Trịnh Xuân Thuận.

30 Giai Điệu Bí Ẩn - Trịnh Xuân Thuận. 

 

 

TRUNG QUÁN LUẬN 13 PHẨM
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2007

Chịu trách nhiệm xuất bản
TRẦN ĐÌNH VIỆT
Biên tập : Châu Anh Kỳ
Sửa bản in : Hồng Nguyên
Trình bày : Chân Hiền Tâm 
Bìa : 

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH
62 Nguyễn Thị Minh Khai Q.1 
ĐT : 8225340 – 8296713 - 8296764 – 8223637- 8222726 - 8220405 – 8221917 - 8250616 - 8277326 
Fax : 84.8.8222726 - Email : nxbtphcm@bdvn.vnd.net 
Thực hiện : Chân Hiền Tâm 8443138
Email : chanhientam@yahoo.com.vn
In 1000 cuốn. Khổ 14.5x20.5cm tại Cty TNHH In Khuyến Học Phía Nam 
Q.3 TP. HCM. GPXB số : 807-07/52-54 ngày 3/10/2007. 
In xong nộp lưu chiểu tháng 12 năm 2007. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11957)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11103)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15361)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12404)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14837)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16570)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11946)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15664)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9861)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13043)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12186)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16608)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12213)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant