Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thực Hành Bảy Điều Quán Nguyện

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 30417)
Thực Hành Bảy Điều Quán Nguyện

THỰC HÀNH BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN

Nguyên tác: Preliminaries for Meditation or Study: The Seven-Limb Practice
Tác giả: Alexander Berzin, Berlin, Germany, January 9, 2001
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 3/10/2010

Mục lục
Lời người dịch
 1.- Dọn dẹp phòng ốc và xếp đặt những sự cúng dường
 2.- Tập trung trên hơi thở
 3.- Thẩm tra động cơ hay khuynh hướng
 4.- Đảnh lễ với quy yphát bồ đề tâm
 5.- Cúng dường
 6.- Thừa nhận khuyết điểm
 7.- Vui mừng
 8.- Thỉnh cầu giáo huấn
 9.- Thỉnh cầu đạo sự đừng nhập diệt
10.- Hồi hướng
11.- Bảy điều quán chiếu của Tôn Giả Tịch Thiên
12.- Điều chỉnh cuối cùng cho sự tập trung

 

Lời Người Dịch

blankPhật tử Bắc Tông Việt Nam hầu hết đều thuộc bài Sám Phổ Hiền:

Đệ tử chúng đẳng
Tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ Tát
Thập chủng đại nguyện


Nhất giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hồi nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỉ công đức
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hàm thuận chúng sinh
Thập giả phổ giai hồi hướng

Có nhiều bản dịch, nhưng có một bản dịch rất xưa bằng thể lục bát, với những câu đầu tuy mộc mạc nhưng nghe rất tha thiết trầm hùng:

Một là lạy Phật thần thông,
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài…[1]

Đây là bài sám nói lên mười nguyện lớn của ngài Đại Hạnh Phổ Hiền một vị đại bồ tát, có cả một phẩm kinh Hoa Nghiêm nói về những điều này, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, và trong lễ sám Hồng danh phần phía sau cũng nói về mười điều này, thế nên chúng ta dù thuộc lòng nhưng có lẽ nghĩ rằng đây là thệ nguyện của một vị đại bồ tát thì chúng ta chỉ tụng niệm và ngưỡng mộ mà thôi chứ làm thế nào đem vào thực hành trong đời sống tu tập hằng ngày.

Trong truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một tài liệu tương tự với mười hạnh Phổ Hiền, nhưng chỉ có bảy điều, vì điều thứ nhất bao gồm cả ba phần, là nhất giả, nhị giả, và cả bồ đề tâm và trong bảy điều này không nói đến bát giả thường tùy Phật học, và cửu giả hàm thuận chúng sinh. Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiển hằng ngày. Bảy điều này có thể như một sự thực tập mở đầu cho những việc thực hành khác, hay như là một sự thực hành chính yếu của mỗi người Phật tử.

Chúng tathể tham khảo để rút kinh nghiệm với ‘mười nguyện lớn của ngài Đại Hạnh Phổ Hiền’ trong việc quán chiếu thực hành tu tập hằng ngày của chúng ta.

Nam Mô A Di Đà Phật

Ngày 26/11/2010

Tuệ Uyển

 

NHỮNG THỰC HÀNH SƠ BỘ CHO THIỀN QUÁN HAY HỌC PHẬT:

BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN

Tối nay, tôi muốn giải thích trong một cung cách thực tiển hơn về những sự chuẩn bị mà chúng ta thực hiện vào lúc bắt đầu cho mỗi chúng ta về những lớp học những lời dạy của Tôn Giả Tịch Thiên, ‘Dấn Thân trong Thái Độ’ của Bồ Tát (Bodhisattvacharya-avatara). Trong ấy bao gồm bảy điều thực tập, xuất phát từ tác phẩm này. Thực hiện những chuẩn bị này trước khi lắng nghe để học hỏi Phật Pháp sẽ giúp chúng ta thiết lập một thể trạng tâm thức hứng thú đúng đắnChúng ta cũng sẽ sử dụng cùng sự thực tập trước những buổi thiền tập hay học tập Phật Pháp mỗi ngày tại nhà.

1.- DỌN DẸP PHÒNG ỐC VÀ XẾP ĐẶT NHỮNG SỰ CÚNG DƯỜNG

Nếu chúng ta thực tập những điều này như một sự chuẩn bị cho việc thiền quán tại nhà, chúng ta cần quét dọn và trật tự phòng ốc trước tiên, như chúng ta làm ở lớp tu học. Nếu giấy tờ hay áo quần rơi vải khắp nơi trong phòng, thí dụ, chúng ta phải dọn dẹp. Trong khi làm điều này, chúng ta tâm niệm, “Nguyện cho tâm con trở nên trong sáng, sạch sẽ, và trật tự, giống như con đang thu dọn phòng ốc.”

Điều rất quan trọng để thiền quán và học tập trong một môi trường, nơi mà moi thứ ngăn nắp, sạch sẽ, và trong trật tự. Điều này cũng đúng với nơi chúng ta làm việc. Những gì chúng ta thấy, ngay cả bên ngoài, tác động vô cùng đến thể trạng tâm thức của chúng ta. Nếu mọi thứ chung quanh chúng ta rối loạn, tâm thức chúng ta cũng có xu hướng mất trật tự. Hơn thế nữa, thật sự hữu ích để có một nơi học tập hay thiền quán dễ thương thẩm mỹ. Thấy chung quanh xinh xắn thường làm cho tâm thức vui vẻ, và một thể trạng vui tươi của tâm thức thì dễ tiếp thu để làm một điều gì đấy xây dựng. Nếu thấy chung quanh xấu xí, chúng ta có khuynh hướng khước từ nó, mà điều ấy ảnh hưởng một cách tiêu cực đến những thể trạng của tâm thức. Do vậy, chúng ta thường bố trí một bàn thờ thật bắt mắt trong phòng - một loại kệ hay bàn, với một tấm phủ xinh xắn, trên ấy chúng ta đặt tối thiểu một tượng hay hình Phật tượng trưng cho những gì chúng ta đang thực tập, một phương hướng an toàn trong cuộc sống (quy y).

Mỗi buổi sáng, sau rửa mặt súc miệng và làm sạch phòng ốc, chúng ta cúng dường một chung nước. Điều này không cần thiết phải với bảy chung nước thông thường nếu điều đó không thuận tiện. Cúng dường đơn giản với một chung nước sạch là đầy đủ. Chúng ta không cố gắng để gây ấn tượng với bất cứ người nào cả. Nếu muốn, chúng ta cũng có thể cúng dường đèn nến, bông hoa, nhang, và v.v…; nhưng đấy là sự lựa chọn. Không chỉ là chúng ta đang tạo nên một không gian xinh đẹp cho sự cung thỉnh chư Phật các bậc đại đạo sư trong sự quán tưởng của chúng ta, như được giải thích một cách truyền thống; chúng ta cũng đang xếp đặt phòng ốc trong một phương cách mà nó làm cho chúng ta cảm thấy hoan hỉ và dễ chịu ở đấy. Trong việc làm điều này, nó đặt chúng ta trong một thể trạng tâm linh cung hiến lợi ích cho thiền quán, học tập, hay lắng nghe những lời giáo huấn.

2.- TẬP TRUNG TRÊN HƠI THỞ

Phong cách thông thường là lễ phủ phục ba lần trước biểu tượng của Đức Phật trên bàn thờ trước khi ngồi xuống. Để tránh có những sự lễ lạy máy móc, không có cảm nhận bên trong, trước tiên chúng ta cần đem tâm thức mình đến một thể trạng thích đáng. Để làm điều này, chúng ta tập trung trên hơi thở và tái xác định động cơ của chúng ta. Mặc dù chúng ta thường làm hai điều này sau khi ngồi xuống, tốt hơnthực hiện trước, trong khi đang đứng.

Đầu tiên, chúng ta cần bình lặng và làm nên một không gian giữa những gì chúng ta đang làm và những gì chúng ta sắp làm. Chúng ta cần đem tâm thức chúng đến một thể trạng tĩnh lặng, trung hòa trước khi phát sinh một thái độ tích cực. Chúng ta làm điều này bằng việc tập trung trên hơi thở, với đôi tập trung thoãi mái trên sàn nhà phía trước chúng ta. Nếu băn khoăn hay căng thẳng, chúng ta có thể thích nhắm mắt trong khi lắng xuống, nhưng để cho chúng mở ra nhẹ nhàng là phương pháp thích hợp hơn.

Chúng ta thở một cách bình thường qua lỗ mũi, không quá nhanh, không quá chậm, không quá sâu, và không quá cạn. Chúng ta không giữ hơi thở, nhưng tạm dừng lại sau khi thở ra trước khi thở vào lần nữa. Phương pháp thông thường là thầm đếm một cho một chu kỳ thở ra, tạm dừng, và thở vào. Thông thường, chúng ta đếm như thế đến mười một, và rồi lập lại chu kỳ mười một hơi thở trong hai hay ba lần.

Chúng ta sử dụng tiến trình của việc đếm hơi thở chi khi tâm thức chúng ta đặc biệt rối rắm, vướng mắc trong những tư tưởng không liên quan đến việc thực tập hiện tại. Nếu tâm tư chúng ta không quá xao lãng, thì không cần phải đếm hơi thở; chỉ tập trung trên cảm nhận hơi thở vào và ra trên lỗ mũi là đủ. Thay vì thế, chúng ta có thể đếm những chu kỳ hơi thở trong vài vòng sau đó tiếp tục mà không phải đếm. Bất cứ cách nào mà chúng ta tập trung trên hơi thở, chúng ta tiếp tục cho đến khi chúng ta đạt đến tối thiểu một cấp độ nào đấy của sự bình lặng và yên tỉnh của nội tâm. Nếu tâm thức chúng ta vướng bận với những tư tưởng vẫn vơ, chúng ta không bao giờ có thể thiền tập tốt đẹp hay lắng nghe một cách chú tâm đến những lời giảng dạy.

3.- THẨM TRA ĐỘNG CƠ HAY KHUYNH HƯỚNG

Một khi tâm thức chúng ta tương đối yên tĩnh, chúng ta thẩm tra tại sao chúng ta thiền quán hay tu học, hay tại sao chúng ta đã đến một lớp Phật Pháp. Nói cách khác, chúng ta thẩm tra động cơ của chúng ta, là điều mà trong Đạo Phật có nghĩa là khuynh hướng hay mục tiêu trong việc làm một việc gì đấy. Có phải chúng ta đã đến đây tối này chỉ do một thói quen máy móc mà không có một xu hướng nào đấy trong tâm, hay vì một sự hội họp cộng đồng thông thường để gặp gỡ bạn bè và để ở trong một không khí hoan hỉ? Có phải chúng ta muốn học hỏi điều gì đấy chỉ là sự hứng thú tinh thần hay có phải chúng ta mong ước học hỏi một điều gì đấy thực tiển mà chúng ta có thể áp dụng trong đời sống chúng ta? Nếu đấy là điều gì mà chúng ta muốn đề áp dụng trong đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta muốn làm như thế? Mục tiêu là gì? Nó có làm cho đời sống dễ dãi hơn một ít? Để chiến thắng một số khó khăn mà chúng ta có? Hay, thêm nữa, có phải nó có thể làm cho ít rắc rối hơn cho những người khác; có phải nó có thể giúp cho người khác nhiều hơn? Có thể nó là một sự phối hợp của một vài thứ này.

Chúng ta có muốn tiến xa hơn nữa và học hỏi những lời dạy của Tôn Giả Tịch Thiên nhằm để thiết lập những thói quen sẽ đưa chúng ta một sự tái sinh may mắn hơn với nhiều cơ hội để tiếp tục học hỏithực tập Giáo Pháp? Thêm vào điều ấy, có phải chúng ta đang làm điều này để có thể đạt đến giải thoát khỏi tất cả những loại tái sinh luân hồi không thể kiểm soát được hay không? Hay, ngay cả vượt xa điều ấy, chúng ta có muốn học hỏi luận điển này về thái độ Bồ Tát để cho chúng ta có thể giúp đỡ người khác tránh khỏi sinh tử hay được giải thoát khỏi luân hồi không thể kiểm soát hay không? Ngay cả nếu không phải là ba động cơ sau cùng, tối thiểu chúng ta có nguyện vọng cố gắng để phát triển và thâm nhập vào phương hướng ấy trong đời sống của chúng ta hay không?

Chúng ta đi theo cùng tiến trình tâm linh sâu sắc trước khi bắt đầu thiền tậphọc hỏi luận điển của Tôn Giả Tịch Thiên tại nhà. Nếu chúng ta khám phá rằng động cơ hay mục tiêu của chúng ta không thật cao quý, như sự thiền tập do thói quen hay do cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta lãng quên, thì chúng ta điều chỉnh động cơ của chúng ta cho hoàn thiện hơn. Nếu chúng ta đã có những động cơ xây dựng, chúng ta hãy tái khẳng định chúng. Đi theo tiến trình này là rất quan trọng, vì dễ dàng đi đến việc giáo huấn hay thiền tập một cách máy móc, và rồi thì chúng ta chỉ đón nhận rất ít kết quả từ đấy.

4.- ĐẢNH LỄ, VỚI QUY YPHÁT BỒ ĐỀ TÂM (TÂM ĐẠI BI)

(Nhất giả Lễ KínhNhị giả xưng tán chư Phật)

Tiếp theo, chúng ta “quy y và phát triển Bồ Đề Tâm.” Điều này có nghĩa là chúng ta tái khẳng định nguyện vọng của chúng ta và nguyện ước đi trong một phương hướng an toàn, tích cực trong đời sống, đây là ý nghĩachúng tôi diễn dịch các chữ “tiếp nhận quy y.” Chúng ta cố gắng để suy nghĩcảm thấy rằng tôi muốn đi trong một phương hướng an toàn nhằm để tránh những rắc rối và khó khăn; tôi không muốn có chúng. Tôi sợ phải tiếp tục trong tình cảnh khó khăn của tôi. Điều gì cống hiến phương hướng tích cực để tránh khỏi những rắc rối? Một thể trạng của tâm thức hoàn toàn tự tại với mê muội và đầy đủ tất cả những phẩm chất tích cực tốt đẹp. Một thể trạng tịnh hóa và tăng trưởngGiáo Pháp. Những ai đã đạt đến một thể trạng toàn vẹn như vậy và những ai biểu lộ cung cách ấy là những vị Phật. Những ai đạt đến một thể trạng như vậy trong một giới hạn nào đấy cũng biểu lộ cung cách ấy. Họ là Tăng Già. Đấy là phương hướng mà tôi sẽ hoạch định trong đời sống của tôi. Tiếp nhận quy y có nghĩa là tái khẳng định phương hướng hay cung cách này trong cuộc đời.

Hơn thế nữa, tôi đang tiếp nhận phương hướng an toàntích cực này nhằm để có thể hỗ trợ người khác một cách trọn vẹn như có thể, không chỉ để lợi ích cho cá nhân của chính tôi mà thôi. Để đạt được mục tiêu này, tôi cần du hành theo phương hướng này suốt cả lộ trình, để giác ngộ, và không bỏ dở, không được hài lòng với việc chỉ hoàn thành một phần của con đường. Đây là những gì chúng ta hành động khi chúng ta tái khẳng định quy y [Tam Bảo] và [phát] Bồ Đề Tâm.

Khi chúng ta cảm thấy thái độ này hay thể trạng của tâm thức đi trên một phương hướng an toàn để có thể hổ trợ người khác và tiến bước trọn vẹn trên con đường ấy để giúp đở người khác tối đa như chúng ta có thể làm, rồi thì hãy đỉnh lễ. Nếu chúng ta đã ngồi xuống rồi và quyết định không đứng lên để đỉnh lễ bằng thân thể, chúng ta có thể quán tưởng mình đỉnh lễ. Trong một ý nghĩa nào đấy, đỉnh lễ giống như đem hết sức mình hay đặt mình trọn vẹn trong phương hướng này; và thực hiện như thế với sự tôn trọngtôn kính những ai đã hoàn thành trong nẽo đường này và tôn vinh chính mình và khả năng của mình để làm giống như thế. Vì thế, thực hành việc đỉnh lễ không phải là một hành vi tự phỉ báng mình; không phải là hạ thấp mình, nhưng mà là vực chúng ta dậy.

Đây là điều thứ nhất trong bảy điều thực tập: đỉnh lễ với quy y [Tam Bảo] và Bồ Đề Tâm [tâm đại bi]. 

5.- CÚNG DƯỜNG

(Tam giả quảng tu cúng dường)

Tiếp theocúng dường. Thể trạng chính của tâm thức để phát triển khi thực hiện cúng dường trong phạm vi này là: tôi đang đi trong phương hướng này. Tôi không chỉ đem hết sức mình trọn vẹn trong ấy, tôi đang nhiệt tình chân thành, trong lối sống của tôi, với thời gian của tôi, bằng năng lượng của tôi để đạt đến mục tiêu này. Tôi đang khao khát để dâng hiến trọn vẹn tâm tư của tôi để đi trong con đường này để hổ trợ người khác hơn nữa. Trong thể trạng này của tâm thức, chúng ta thực hiện sự cúng dường.

Mặc dù chúng ta thường làm điều này với quán tưởng, nhưng chúng ta có thể cúng dường trong một động thái vật lý, nếu chúng ta đang thực hành tỏng phòng thiền tập của chúng ta. Sau khi đỉnh lễ và trước khi ngồi xuống, chúng ta bước tới bàn thờ, đặt bốn ngón tay trái vào trong chén nước và vẩy một vài giọt nước từ đấy ba lần, biểu tượng của sự cúng dường. Trong một ý nghĩa, chúng ta đang cúng dường đến chư Phật, nhưng không phải với một thái độ dâng cúng một phẩm vật vì thế chư Phật sẽ gia hộ chúng ta và nếu chúng ta không cúng dường bất cứ vật gì, các Ngài sẽ quên lãng chúng ta. Đúng hơn, chúng ta đang cúng dường mọi thứ đến con đườngchúng ta đang theo đuổi trong đời sống. Chúng ta cố gắng để làm điều này trong một thể trạng hoan hỉ của tâm thức, vui mừngchúng ta có thể tự mình cúng dường .

Nếu mong muốn, chúng ta có thể làm cho sự cúng dường chi tiết hơn như trong tác phẩm của Tịch Thiên trình bày. Tuy thế, nó không cần thiết để liệt kê một hàng dài những phẩm vật chúng ta cúng dường, mặc dù chúng ta có thể quán tưởng tất cả mọi loại xinh đẹp. Điều quan trọng là cảm thấy rằng chúng ta đang dâng tự mình cúng dường. Đấy là điều thứ nhì của sự thực hành chuẩn bị, cúng dường. Nếu chúng ta hoàn thành bước này trước bàn thờ, chúng ta bây giờ ngồi xuống vị trí của chúng ta.

6.- THỪA NHẬN KHUYẾT ĐIỂM

 (Tứ giả Sám Hối nghiệp chướng)

Điều thứ ba là chân thành thừa nhận sự yếu kém, khó khăn, và những vấn đề của chúng ta. Chúng ta ân hậnchúng ta có những khiếm khuyết ấy, vì chúng ngăn chặn chúng ta thể hiện sự hổ trợ tốt nhất đến người khác. Chúng ta nguyện ước được tự do khỏi những khiếm khuyết và quyết định cố gắng không lập lại những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta tái khẳng định phương hướng an toàntích cựcchúng ta cố gắng để đem vào đời sống của chúng ta, để có thể hỗ trợ người khác trọn vẹn hơn; và cuối cùng, chúng ta nhắc nhở chính mình rằng học hỏi tác phẩm của Tịch Thiênthiền quán trên điều ấy là những việc làm tích cựcchúng ta đang tiếp nhận để chống lại những lỗi lầm của chúng ta, chúng ta tái khẳng định lý domục tiêu trong sự thể hiện ở đây. Chúng ta muốn học hỏi và sau đó thực tập những phương pháp để vượt thắng chúng.

7.- VUI MỪNG

(Ngũ giả tùy hỷ công đức)

Điều thứ tư là vui mừng tự hào, là điều sẽ giúp chúng ta đáp ứng đến bất cứ cảm giác nào của tự ty thấp kém mà có thể chúng đến từ nhận thức những rắc rối, lỗi lầm, và khó khăn của chúng ta. Chúng ta cần cân bằng sự tỉnh giác về khiếm khuyết của chúng ta với sự tái khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta. Tất cả chúng ta có một số phẩm chất tốt đẹp và một số điều tích cực nào đấy mà chúng ta đã làm. Thí dụ, chúng ta có thể khám phá rằng tôi đã từng cố gắng để hữu dụng; tôi đã từng cố gắng để kiên nhẫn; tôi đã từng cố gắng để thông hiểu; hay bất cứ điều gì có thể là. Chúng ta nhớ lại và mừng vui. Chúng ta cũng tùy hỷ trong Phật Tính của chúng ta: chúng ta có những tiềm lực và khả năng để trưởng thànhChúng tacăn bản hành động; đấy là niềm hy vọng. Chúng ta cũng nhìn vào những tấm gương của những phẩm chất tốt đẹp và những hành vi tích cực của những người khác và cũng tùy hỷ với họ, không cảm thấy ghen tỵ. Thật diệu kỳ rằng có những người khác rất tích cực và hữu ích, đặc biệt là những đại đạo sư. Điều này liên hệ không chỉ là những đạo sư tâm linh tại thế, nhưng cũng là chư Phật và Tôn Giả Tịch Thiên. Chúng ta nghĩ thật diệu kỳ thế nào mà Tịch Thiên đã viết tác phẩm này. Tôi tùy hỷ trong điều này. Xin cảm tạ Tôn Giả Tịch Thiên. Đây là một thể trạng quan trọng của tâm thức.

8.- THỈNH CẦU GIÁO HUẤN

(Lục giả thỉnh chuyển pháp luân)

Sau khi tùy hỷ trong những phẩm chất của những đại đạo sưcảm tạ Tịch Thiên vì đã viết tác phẩm này, chúng ta sẵn sàng cho điều thứ năm, thỉnh cầu sự giảng dạy. Chúng ta nghĩ, Tịch Thiên, thật phi thường rằng ngài đã viết tác phẩm này. Dạy tôi một số điều trong ấy; tôi muốn học. Lời thỉnh cầu này với điều mà chúng ta đã đọc hay nghe về những thứ từ tác phẩm và chỉ nghĩ về những điều ngoại lệ, chẳng hạn như làm thế nào sự giáo huấn về nhẫn nhục có thể hoạt động trong trường hợp tàn sát của Hitler? Mặc dù thật quan trọng để thẩm tra giáo huấn để thấy có thích đáng hay không, nhưng trước tiên chúng ta cần suy nghĩ trong những dạng thức về việc những giáo huấn ấy sẽ được áp dụng trong trong đời sống hằng ngày của chúng ta như thế nào. Một khi chúng ta thấu hiểu và đánh giá đúng giáo huấn hành hoạt như thế nào, sau đó chúng ta có thể xem xét đến việc có bất cứ sự ngoại lệ nào hay không. Rồi thì chúng ta có thể phân tích những thí dụ nghiêm trọng như trường hợp của Hitler là những trường hợp mà trong ấy giáo huấn về nhẫn nhụchoàn toàn không thể áp dụng hay là những trường hợp mà trong ấy giáo huấn chỉ có thể áp dụng trên một trình độ cao cấp. Khi nghe một giáo huấn mới, sự đáp ứng lập tức “nhưng” là một chướng ngại ẩn tàng đến thái độ cởi mở mong ước học hỏi điều gì đấy. Do vậy, sự tiếp cận kinh luận với thái độ “hãy dạy tôi điều gì đấy” là cần yếu. Với một thái độ như vậy, trước tiên chúng ta cố gắng để thấy chúng ta có thể áp dụng những gì chúng ta đọc hay nghe như thế nào. Chúng ta thấy mọi thứ trong tác phẩm của Tịch Thiên là một giáo huấn thực tiển, có thể áp dụng đến chúng ta một cách cá nhân – trong nhà chúng ta, trong văn phòng chúng ta, với những người thân và bè bạn chúng ta.

Nếu chúng ta đang thực hành bảy điều quán chiếu sơ bộ trước một buổi thiền tập, chúng ta cũng thỉnh cầu các vị giáo thọkinh luận hướng dẫn chúng ta thêm, trong ý nghĩa rằng chúng ta muốn tiến bộ hơn qua sự thiền quán của của mình. Chúng ta thỉnh cầu thúc đẩy chúng ta đạt thêm tuệ giác, thấu hiểu hơn, thực chứng hơn từ những gì các ngài đã dạy.

9.- THỈNH CẦU ĐẠO SƯ ĐỪNG NHẬP DIỆT

(Thất giả thỉnh Phật trụ thế)

Sau đó, chúng ta sẳn sàng cho điều thứ sáu, mà đấy là thỉnh cầu đạo sư đừng nhập diệt. Chúng ta suy tưởng, xin đừng bao giờ ngừng dạy bảo; hãy tiếp tục mãi mãi! Chúng con không phải thỉnh cầu cách này bởi vì sự ái luyến đến những vị đạo sư của chúng con. Đúng hơn, chúng con tái khẳng định rằng chúng con nghiêm chỉnhchân thành trong sự thực tập của chúng con. “Con muốn đi suốt tận cùng con đường đến giác ngộ để có thể hỗ trợ tất cả mọi người. Vì thế, xin đừng nhập diệt! Con phải học hỏi.” Chúng ta cũng tự bày tỏ đến chính những giáo huấn (pháp bảo), hãy tiếp tục hướng dẫn con – Tôn Giả Tịch Thiêntác phẩm của ngài. Hãy dạy bảo con hơn nữa và hơn nữa. Hãy để cho con tăng trưởng sự hiểu biết, và làm tăng trưởng hơn tiến trình với tác phẩm này. Xin đừng bao giờ dừng lại cho đến khi con đạt được giác ngộ - cho đến khi mọi người cùng đạt đến giác ngộ. (trong bảy điều này không nói đến bát giả thường tùy Phật học, và cửu giả hàm thuận chúng sinh)

10.- HỒI HƯỚNG (Thập giả phổ giai hồi hướng)

Điều thứ bảy và là điều cuối cùnghồi hướng. Chúng ta suy tưởng rằng bất cứ điều gì con học hỏi, bất cứ điều gì con thông hiểu, nguyện cho nó hành hoạt như một nguyên nhân vì sự đạt đến giác ngộ và vì thế có thể làm lợi ích cho những người khác tối đa như con có thể làm. Nguyện cho sự thấu hiểu của con sâu sắc hơn và thâm diệu hơn. Nguyện cho sự thông hiểu ấy thâm nhập vào trong con và tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong con vì thế con có thể áp dụng một cách từ từ trên con đường đến giác ngộ. Một cách đặc biệt, nguyện cho con có thể áp dụng những gì con đã học trong đời sống hằng ngày của con vì thế nó bắt đầu tạo nên một sự khác biệt trong những đáp ứng với người khác và do vậy con có thể đem hạnh phúc đến cho họ một cách từ từ.

11.- BẢY ĐIỀU QUÁN CHIẾU CỦA TÔN GIẢ TỊCH THIÊN

Nếu chúng ta mong ước, sau đó chúng ta có thể đọc tụng những dòng kệ của Tịch Thiên bao hàm bảy điều này, cùng với những câu mở đầu sẳn sàng cho việc thiết lập động cơ và những dòng cúng dường mạn đà la sau này:

Con xin quy y, cho đến khi đạt đến thể trạng thanh tịnh của con
Với chư Phật, chư Pháp, và đoàn thể Cao Thượng (của Tăng già).
Bằng nổ lực tích cực trong sự hiến dâng của con và v.v…,
Nguyện cho con biến thành hiện thực Phật quả để hổ trợ những ai còn lang thang.

Nguyện cho mặt đất trong mọi phương hướng
Được thanh tịnh, không có ngay cả một hòn sỏi,
Bằng thẳng như bàn tay của trẻ thơ,
Bóng láng một cách tự nhiên như ngọc lục bảo.

Nguyện cho những phẩm vật cúng dường của thiên thầncon người
Được xếp đặt tề chỉnh một cách thật sự và cũng như của những ai quán tưởng
Như những đám mây cúng dường không gì có thể so sánh của Phổ Hiền,
Đầy khắp các cõi hư không

Con đỉnh lể tất cả chư Phật đã ban ân huệ trong cả ba thời
Đến chư Pháp và đoàn thể Tăng già cao thượng,
Con cúi lạy xuống với những thân thể nhiều như vi trần của thế giới

Giống như Văn Thù Sư Lợi và những vị khác
Đã từng cúng dường đến Đấng Chiến Thắng,
Vì thế con cũng cúng dường đến Đấng Thế Tôn
Và đến những bậc Thủ Hộ của chúng con, Dòng dõi tâm linh của các ngài.

(3) Từ vô thủy luân hồi, trong kiếp này và những đời sống khác,
Con đã không biết nên phạm những hành vi tiêu cực,
Hay khiến cho người khác hành động như vậy,
Bị bối rối bởi si mê khờ dại.
Thậm chí con đã từng vui mừng với tất cả những điều này.
Thấy những lỗi lầm này, con xin tuyên xưng giải bày chúng
Đến các ngài, bậc Thủ Hộ của chúng con, từ trong chiều sâu trái tim của con.

(4) Với hạnh phúc con hoan hỉ với đại dương đạo đức
 của việc phát triển Bồ Đề Tâm,
nguyện ước đem niềm vui đến vô lượng chúng sinh
Và hành động vì lợi ích của mọi người.

(5) Với đôi tay chắp lại,
Con thỉnh cầu chư Phật trong khắp muôn phương
Thắp lên ngọn đèn Pháp Bảo cho những ai đang mò mẫm
Trong bóng tối của khổ đau.

(6) Những đấng Chiến Thắng, nguyện vượt qua sầu khổ,
Con thỉnh cầu các Ngài với bàn tay chắp lại:
Những chúng sinh này quẩn quanh một cách mù quáng mà không ai hướng dẫn họ;
Xin hãy sống hàng vô lượng kiếp vượt ngoài tính đếm.

(7) Bằng nỗ lực tích cực tích tập
Từ tất cả những điều con đã làm trong cách này,
Nguyện cho tất cả khổ đau
Của mỗi chúng sinh hạn chế biến mất đi.

Bằng việc trực tiếp cúng dường đến những cõi Phật
Căn bản này, rưới nước hương thơm, rãi bông hoa,
Trang hoàng với núi Tu Di, bốn châu thiên hạ[2], mặt trời, và mặt trăng,
Nguyện cho tất cả những chúng sinh lang thang được đưa đến cõi Cực Lạc.
Om idam guru ratna mandala-kam nir-yatayami.
Con dâng mạn đà la này đến các ngài những đạo sư tôn quý.

12.- ĐIỀU CHỈNH CUỐI CÙNG CHO VIỆC TẬP TRUNG

Với thể trạng cởi mở của tâm thứcchúng ta đã xây dựng, chúng ta gần như đã sẵn sàng để bắt đầu lớp học hay những buổi thiền tập. Tuy thế, đầu tiên, thật hữu ích để làm cho ý thức quyết định để lắng nghe, học hỏi, hay thiền tập với định tâm. Chúng ta quyết định, nếu sự chú ý của chúng ta vẩn vơ, tôi sẽ mang nó định tâm lại và nếu tôi bắt đầu buồn ngủ, tôi sẽ đánh thức tôi dậy. Khi chúng ta làm những quyết định này một cách ý thức, chúng ta sẽ có cơ hội tốt hơn để tập trung.

Cuối cùng, chúng ta thiết lập một sự điều chỉnh tốt đẹp cho sự tập trung và năng lượng của chúng ta. Trong trường hợp chúng ta đang cảm thấy hơi buồn ngủ hay hôn trầm, chúng ta cần nâng cao năng lượng của chúng ta và tự đánh thức chúng ta dậy. Để làm điều này, như giáo huấn Thời Luân Kim Cương (Kalachakra) hướng dẫn, chúng ta tập trung tại điểm giữa chân mày chúng ta, với đôi mắt chúng ta nhìn lên, và đầu chúng ta giữ cân bằng. Rồi thì, trong trường hợp chúng ta cảm thấy khích động hay căng thẳngtâm thức chúng ta dong ruỗi, chúng ta cần đặt năng lượng chúng ta xuống vì thế chúng sẽ bình lặng. Vì điều ấy, tiếp theo chúng ta tiếp theo tập trung trên một điểm bên dưới rốn (đan điền) trong trung tâm của thân thể chúng ta, với đôi mắt nhìn xuống, và đầu chúng ta cân bằng. Khi chúng ta thở một cách bình thường, chúng ta giữ hơi thở cho đến khi chúng ta cần thở ra.

Đây là đầy đủ toàn bộ quy trình chuẩn bị sơ bộ cho lớp học, thiền tập, hay học hỏi Phật Pháp riêng tư. Chính ngài Tịch Thiên đã nhấn mạnh những lợi íchcần thiết của việc thực hành bảy điều quán chiếu và mỗi vị đạoTây Tạng mà tôi đã từng gặp gỡ cũng nhấn mạnh đến như căn bản cho việc thực hành hằng ngày. Thậm chí chỉ với bảy điều ấy, nó cũng hình thành một sự thực hành trọn vẹn. Chúng ta có thể thực hiện những sự thực hành sơ bộ này bằng việc trì tụng những kệ văn, như có trong tác phẩm của Tịch Thiên, hay chúng ta có thể thực hành không phải thuộc lòng những bài kệ, mà chỉ đơn thuần trong những ngôn từ của chúng ta, hay chỉ với cảm nhận. Điều chính yếu là có một cảm nhận nào đấy cho mỗi điều trong bảy điều quán chiếu. Cảm nhận điều gì đấy là những gì đem tâm thức chúng ta đến một thể trạng dẫn đến thiền quán hay học tập.

Cho những buổi thiền quán thực sự của chúng ta sau thực hành sơ bộ này, chúng ta có thể tập trung trên hơi thở, trên chủ đề từ những tầng bậc của con đường tiệm tiến lamrim, hay trên những câu kệ nào đấy của Tịch Thiên. Những thực hành sơ bộ này đưa chúng ta đến một thể trạng hấp dẫn thích đáng của tâm thức bất kể chúng ta chọn đề mục gì cho buổi tu tập thực sự. Chúng ta có thể ngay cả chọn lựa chỉ thực hành những điều sơ bộ, mà chính chúng (bảy điều quán chiếu) là một sự thực hành tuyệt vời. Thời lượngchúng ta dành cho những sự thực hành sơ bộ có thể đa dạng và tùy thuộc vào mỗi chúng ta. Tuy nhiên, cho dù chúng ta thực hành nhanh chóng hay chậm rãi, chúng ta cần tránh thực hiện chúng như một nghi lễ trống rỗng (chỉ có hình thức). Chúng ta cần giữ những ý nghĩa của những thực tập trong tâm thứccố gắng để cảm nhận mỗi bước một cách chân thành.

Thành thật cảm ơn.

 [1] Sám Đại Từ : phần thứ nhất là sám thập phương nghĩa, phần thứ hai là sám Phổ Hiền nghĩa. http://www.tangthuphathoc.com/samphap/samdaitu.htm

[2] Bốn Châu: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiện Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Cưu Lô Châu

Tuệ Uyển, ngày 16/10/2010

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/approaching_study_meditation/preliminaries_meditation_study_7-limb.html

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12494)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10380)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12344)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13006)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53031)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35485)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21390)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19236)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26036)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13314)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14376)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16075)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13727)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16837)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17581)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13126)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12529)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11607)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11615)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14504)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20478)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19562)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12182)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12309)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13858)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15025)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13994)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15509)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11393)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15057)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22868)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11648)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13166)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16883)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18339)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11938)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11495)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15849)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12879)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant