Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Quán Đại Bi

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 19376)
Pháp Quán Đại Bi

ASANGA (375-430)
NGÀI VÔ TRƯỚC
PHÁP QUÁN ĐẠI BI
Bản dịch Anh ngữ: “Asanga’s Teaching of Great Compassion.”
Trích từ : Essential Tibetan Buddhism. R.A.F. Thurman.[1996]
Bản dịch Việt Ngữ : Đặng Hữu Phúc

blank[ Tu tập mở đầu ]

Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng (equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình và rồi tư - duy về giáo pháp tâm linh về nhân và quả có bảy chi do ngài Di Lặc giảng cho ngài Vô Trước. Trước nhất, hãy tưởng tượng xuất hiện trước bạn một hữu – tình chẳng hề giúp đỡ bạn cũng chẳng hề gây tổn hại bạn. Hãy nghĩ “Ông này tự thấy ông ta muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau, hoàn toàn giống như mọi người khác cũng đều mong muốn như vậy. Tôi sẽ làm cho tôi thoát khỏi sự yêu thích và không yêu thích. Tôi chẳng muốn cảm thấy thân cận với vài người và giúp đỡ họ trong khi đó cảm thấy xa cách những người khác và làm tổn hại họ. Tôi sẽ phát triển tâm bình - đẳng đối với tất cả hữu - tình. Chư vị lạt machư thiên hãy gia - hộ cho tôi làm được điều này!”

Một khi bạn cảm thấy tâm bình - đẳng đối với người trung - lập đó, hãy tưởng tượng một người mà bạn yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình - đẳng đối với người đó. Hãy nghĩ “Lòng thiên lệch của tôi là do lòng yêu thích của tôi. Vì tôi luôn luôn ham muốn những hữu tình quyến rũ, tôi đã tái sinh liên tục trong vòng sinh - tử đầy khổ lụy”. Hãy ngăn chặn lòng ham muốn của bạn bằng tư - duy như thế và hãy thiền định.

Một khi bạn cảm thấy tâm bình - đẳng đối với con người yêu thích đó, hãy tưởng tượng đến một người không yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình -đẳng đối với người này. Hãy nghĩ “Bởi vì đã có một sự không hòa thuận giữa chúng tôi, tôi đã phát triển một sự không yêu thích đối với người này và do thế tôi thiếu tâm bình - đẳng. Không có tâm bình - đẳng tôi không thể có tâm Bồ-đề trong tâm trí tôi!” Hãy ngăn chặn lòng không yêu thích của bạn bằng tư-duy như thế và hãy thiền định.

Khi bạn cảm thấy tâm bình-đẳng đối với người không yêu thích đó, hãy tưởng tượng cả hai người chung với nhau. Hãy nghĩ “Hai người này đều giống nhau ở điểm mỗi người tự mình muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau. Nhìn từ quan-điểm của tôi, người này giờ đây tôi thân cận như thế nhưng đã tái sinh làm kẻ thù của tôi vô số lần rồi. Người này tôi cảm thấy bất hòa nhưng đã tái sinh làm mẹ của tôi vô số lần và đã săn sóc tôi với lòng từ-bi, lòng yêu thương. Tôi nên yêu thích người nào đây? Tôi nên oán ghét người nào đây? Tôi muốn cảm thấy tâm bình-đẳng, không vướn vào yêu thích và không yêu thích”. Chư vị Lạt machư thiên, hãy gia-hộ tôi thực hiện được tâm bình-đẳng này.

Một khi bạn đã cảm thọ tâm bình-đẳng như thế, hãy trải rộng tâm này đến tất cả hữu-tình. “Tất cả hữu-tình đều như nhau. Mỗi hữu-tình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tất cả hữu-tình đều là người trong gia đình của tôi. Do đó tôi sẽ học tâm bình đẳng và không vướng mắc vào chuyện yêu thích kẻ tôi thấy thân cận và không yêu thích kẻ mà tôi thấy xa cách, giúp đỡ vài người và tổn hại những người khác. Chư vị Lạt machư thiên hãy gia-hộ tôi thành tựu điều này!”.

 [ 1: Tất cả hữu tình đều là mẫu thân ]

Một khi bạn đã phát triển được tâm bình đẳng, hãy thực thi giáo chỉ thứ nhất của bảy giáo chỉ về nhân và quả để đạt đến Tâm Bồ đề. Hãy quán tưởng chư vị lạt machư thiên trước mặt bạn và hãy tư-duy “Tại sao tất cả hữu-tình là người trong gia đình tôi? Vì không có sự khởi đầu của vòng sinh tử, thế nên cũng không có sự khởi đầu của các tái sinh của tôi. Trải qua vô lượng vô biên cuộc sống này, không hình thức sinh sống nào mà tôi không được sinh ra. Trong tất cả hữu tình, không ai mà không là mẹ của tôi trong vô số lần. Mỗi người là mẹ của tôi trong thế giới con người vô lượng lần, và sẽ lại trở thành mẹ tôi nhiều lần nữa”.

Khi bạn đã kinh nghiệm đầy đủ sự thật này, hãy tư-duy về lòng từ-bi (the kindness) mà chúng sinh đã hiển hiện cho bạn khi họ đã là mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt machư thiên trước bạn, hãy tưởng tượng rõ ràng mẹ của bạn ở đời này, khi bà còn trẻ và khi bà già dần đi. “Bà không những chỉ là mẹ tôi trong đời này, nhưng bà đã chăm lo săn sóc cho tôi biết bao nhiêu đời qua mà con số không thể đếm được. Trong đời này bà đã từ-bi cho tôi an-trú trong thai-tạng của bà, và khi tôi được sinh ra bà đã thương yêu đặt tôi trên chiếc gối mềm mại và ru tôi trong vòng tay của bà. Bà đã ôm ấp tôi với bộ ngực ấm áp của bà, đã cho tôi bú những giòng sữa ngọt ngào của bà. Bà đã đón chào tôi với nụ cười âu yếmngắm nhìn tôi với đôi mắt hạnh phúc sung sướng. Bà lau sạch nước mũi cho tôi và thu dọn sạch sẽ các thứ tôi bài tiết. Tôi có đau yếu chút ít thì làm bà lo lắng khốn khổ hơn so với cái lo bà có khi bà sắp chết. Xem nhẹ các đau khổ thân tâm, các cơ cực về tinh thần, các lạm dụng, tệ bạc, không quan-tâm chút nào đến chính bà, bà cung cấp cho tôi đầy đủ, sẵn sàng mọi thứ tôi cần cũng y như lúc bà cung cấp thức ăn thức uống và nơi cư-trú. Bà cho tôi vô lượng hạnh phúc và lợi-ích và bảo-vệ tôi tránh khỏi mọi khổ đau và những tổn hại không thể đo lường được”. Hãy tư-duy về lòng từ-bi vô lượng của bà. Và rồi sau đó, cũng theo cách đó, hãy tư-duy về lòng từ-bi của cha của bạn và những người khác thân thiết với bạn, bởi vì họ cũng là mẹ của bạn đã vô số lần.

[ 2: Tưởng nhớ ân đức của tất cả hữu tình mẫu thân ]

Khi bạn có đầy đủ kinh-nghiệm về sự thật này, hãy thiền quán về những hữu-tình bạn cảm thấy vô tư đối với họ (impartial) “Mặc dầu giờ đây có vẻ như họ không có liên quan gì với tôi, họ đã là mẹ của tôi vô số lần, và trong những đời sống đó, họ đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi và nhân-đức”. Khi bạn đã có kinh-nghiệm về sự thật này hãy thiền quán về những hữu-tình mà họ giờ đây là đối-thủ đua tranh với bạn. Hãy tưởng tượng rõ ràng trước bạn, và hãy nghĩ: “Làm sao bây giờ tôi có thể cảm thấy rằng những người này là những kẻ thù của tôi? Vì số lượng cuộc đời đã vô lượng, họ đã là mẹ tôi trong vô số lần. Khi họ là mẹ tôi họ đã đem đến cho tôi hạnh phúclợi ích vô lượng và đã bảo-vệ tôi thoát khỏi khổ đau và tổn hại. Nếu không có họ tôi không thể tồn tại ngay chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi và nếu không có tội họ sẽ không thể chịu nổi những đau khổ cơ cực dù chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi cảm thấy một sự gắn bó mạnh mẽ như thế trong vô số lần. Thế mà bây giờ họ là những đối-thủ của tôi do duyên khởi vận-hành (due to bad evolutionary actions). Vào một thời gian khác trong tương lai họ sẽ lại là mẹ của tôi, người bảo vệ tôi với lòng từ-bi.” Khi bạn có kinh-nghiệm đầy đủ về sự thật này, hãy thiền quán về lòng nhân-đức của tất cả hữu-tình.

[ 3: Phát triển ý-nguyện báo ân hữu tình mẫu thân ]

Sau đó hãy thiền quán về báo ân tất cả hữu tình, tất cả các bà mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma và chư thần bảo-hộ (deities) trước bạn và tư-duy. Từ thời vô-thủy những bà mẹ này đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi nhân đức. Vậy mà từ đó tới nay (yet as) tâm trí của họ bị phiền não (phiền-động não-loạn) bởi những ma chướng của say mê, mê đắm (demons of addictive passsions) họ đã không có được tâm trí tự chủ và thành ra bị quẩn trí. Họ thiếu con mắt để thấy hoặc con đường đưa tới cõi ngườichư thiên hoặc con đường đưa tới Niết Bàn, tối-thượng thiện-hảo. Họ không có được vị thầy tâm linh, người dẫn đường cho những kẻ mù. Liên tục bị thoi nện bầm dập tả tơi do các tác-nghiệp sai-trái đánh-nhầu-với-nhau-một-trận, họ lăn trượt tới bên bờ vực thẳm dễ sợ của tái sinh trong tương tục của sinh tử, đặc biệt là những cảnh-giới thấp kém của tử-sinh . ( Continually pummeled by the discord of wrong deeds, they slip to the edge of the terrifying abyss of rebirth in the life-cycle, especially its lower state ).Tảng-lờ-không-ngó-ngàng đến những bà mẹ từ-bi nhân-đức này là không biết hổ thẹn. Để báo-ân tôi sẽ giải- thoát họ khỏi khổ đau sinh tử tương-tục và sẽ an-lập họ trong đại-lạc của giải thoát. Chư vị lạt machư thiên, hãy gia-hộ cho tôi làm được điều này.

[ 4: Phát triển tâm từ-bi: Giúp hữu tình mẫu thân làm chủ hạnh phúc và căn nguyên của hạnh phúc ]

Rồi sau đó hãy thiền quán về từ-bi (Love). Hãy tưởng tượng một người bạn quý mến rất nhiều, chẳng hạn như mẹ của bạn “ Làm thế nào để bà ta có thể có được hạnh phúc vô-lậu, hạnh phúc không còn tập khí phiền não, (undefiled happiness: tịnh lạc) khi mà bà không có được ngay cả hạnh phúc hữu lậu (defiled happiness), hạnh phúc vẫn còn tập khí phiền não của cõi đời sinh tử tương tục? Những gì hiện nay bà hãnh-diện khoe-khoang khoác-lác là hạnh phúc thì trơn tuột mất biến thành khổ đau. Bà khao khát và khao khát, nỗ lựcnỗ lực, ham muốn cái hạnh phúc phù du của giây phút thoáng qua (desiring a moment’s happiness), nhưng bà chỉ tạo lập căn-nguyên của khổ đau tương lai và những tái sinh trong những cảnh-giới thấp kém hơn của hữu tình. Nên trong cõi đời này, mệt lử và kiệt sức, bà chỉ tạo ra khốn khổ, khổ đau. Nhất-định-là-dứt-khoát-là, bà không có hạnh phúc thật sự. (She definitely does not have real happiness). Thật là tuyệt diệu biết bao nếu bà làm chủ được hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Bà mong muốn làm chủ chúng. (May she possess them!)

Tôi sẽ làm cho bà làm chủ hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Chư vị lạt-ma và chư thiên hãy gia-hộ tôi làm được điều này!”

Khi bạn đã đạt được kinh-nghiệm này, hãy tiếp tục thiền quán, trước hết hãy tưởng tượng những người khác thân thiết với bạn, tỉ dụ cha của bạn, và sau đó hãy tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy vô tư với họ, và sau đó một người đối nghịch và sau cùng tất cả hữu tình.

[ 5: Phát triển tâm đại bi: Giải cứu khổ đau của hữu tình mẫu thân trong sinh tử tương tục ]

Và rồi sau đó hãy thực hiện pháp thiền đại-bi và trách-nhiệm phổ-quát (Then do the meditation of great compassion and universal responsibility): “Chư vị phụ-thân và mẫu-thân của tôi, số lượng có thể chất đầybầu trời, đang bị buộc chặt vào vòng duyên khởi nhân quả và những thống khổ trong hoàn cảnh bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ (helplessly). Bốn dòng sông giòng tương tục của ái dục (desire), giòng tương tục của hữu (existence), giòng tương tục của vô-minh (ignorance), giòng tương tục của tà-kiến [hoặc tin vào đấng tạo lập hữu ngã thường hằng, bản-ngã thường hằng; hoặc tin vào đoạn diệt, không có đời trước đời sau, không có duyên khởi, không có giải thoát (fanaticism: chủ-thuyết tôn giáo cuồng tín vào cực đoan = tà-kiến)], tất cả bốn dòng sông này quét họ vào trong giòng nước lũ của sinh tử tương tục trong cảnh họ bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ, vào nơi mà họ bị vùi giập tả tơi hoa lá bởi những con sóng của sinh, già, bệnh và chết. (The four rivers, the rivers of desire, existence, ignorance, and faniticism, sweep them helplessly into the currents of the life cycle, where they are battered by the waves of birth, old age, sickness anh death).

Họ bị trói buộc trọn vẹn vào cái vòng trói chặt chẽ và khó mà phá được các mối nối kết đủ loại của các tác nghiệp duyên khởi nhân quả. Từ thời vô-thủy họ đã bước vào cái lồng sắt của thủ chấp những ý niệm “tôi” và “của tôi” ở ngay tâm điểm của lòng họ. Cái lồng này thì rất khó mà khai mở bởi bất cứ một ai. Bị bao trùm bởi bóng tối mênh mông của vô-minh (=vô thủy vô minh) nên mọi phán đoán thiện ác đều bị ngăn ngại, họ không nhìn thấy, chính lúc này, con đường đưa đến những trạng thái hạnh phúc của hữu-tình. Nói chi đến chuyện họ thấy con đườnggiải thoát và giác ngộ (Much less do they see the path leading to liberation and enlighttenment).

[ 6: Trách nhiệm phổ quát = Bản thệ: Nếu tôi không cứu, ai sẽ cứu? ]

“Những hữu tình tiều tụy này đã bị hành hạ không ngừng nghỉ bởi những khổ đau của khốn khổ (khổ khổ), khổ đau của biến dịch (hoại khổ), và khổ đau lan tràn của tạo tác (hành khổ). Tôi thấy tất cả các hữu-tình này, những mẫu-thân của tôi, đang bị trầm luân thê thảm trong đại-dương của sinh-tử. Nếu tôi không cứu họ, ai sẽ cứu? Nếu tôi tảng-lờ-không-hay-biết đến họ, tôi sẽ không biết xấu hổ là gì, một loại thứ thấp kém nhất trong tất cả hữu-tình. Nguyện-vọng của tôi theo học đại thừa sẽ chỉ thuần là từ-ngữ, và tôi không thể nào trình diện mặt tôi trước Chư Phật và Bồ-Tát. Thế nên, trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ phát triển khả năng cứu vớt tất cả mẫu-thân hiền-đức âu sầu của tôi ra khỏi đại-dương sinh-tử và an-lập họ nơi quả-phật. Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách-nhiệm phổ-quát, dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ (Think this and generate a very strong and pure universal responsibility).

[ 7: Phát triển Bồ-Đề-Tâm ]

Cuối cùng hãy thiền định về tâm Bồ-đề. Hãy tự hỏi bạn có thể hoặc không thể an-lập tất cả hữu-tình nơi quả phật, và hãy phản-tỉnh (reflect), “Tôi không biết tôi đang đi đâu; làm sao tôi có thể an lập vào chính lúc này, một hữu-tình nơi quả phật? Ngay cả đến những vị đã thành tựu những quả vị học trò của Đức Phật (disciple: Thanh Văn) hoặc ẩn-sĩ Phật ( hermit Buddha: Độc giác Phật) cũng chỉ có thể thành tựu những mục tiêu nhỏ bé của hữu-tình, và không thể an-lập các hữu-tình nơi quả Phật. Thế nên chỉ có một vị Phật toàn giác (a perfect Buddha) mới có thể dẫn tất cả hữu tình đến toàn giác (full enlighttenment). Thế nên trong mọi hoàn cảnh (no matter what), tôi sẽ đạt quả vị Phật Vô-Thượng Chánh-Đẳng-Chánh-Giác (peerless and completely perfect Buddhahood) vì lợi ích của tất cả hữu-tình. Chư vị lạt machư thiên , hãy hoan hỉ gia-hộ tôi làm được điều này!”.

--------------------------------------------------------------------------------------------

CHÚ THÍCH CỦA BẢN DỊCH VIỆT NGỮ

Chú thích 1: Trong bản dịch Việt ngữ, những gì bên trong dấu […] đều là chú thích của người dịch bản Việt.

Chú thích 2:

Bản Anh ngữ: Think this and generate a very strong and pure universal responsibility.

Pure: Clear- clean- does not contain any harmful substances - complete and total – produced or practised according to a standard or form that is expected of it ( Formal )

Universal: 1. of affecting or including all

 2. existing or occuring everywhere

Bản Việt ngữ: Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách nhiệm phổ quát dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Nhất tâm = dốc lòng.

Universal love = compassion = đại bi, tình yêu phổ quát

Universal responsibility = trách nhiệm phổ quát = tâm đại bi

Mother beings : hữu tình mẫu thân

Chú thích 3

Mười hai chi của một vòng duyên khởi:

1.Vô minh 2.hành 3.thức 4.danh sắc

5.Sáu xứ 6.xúc 7.thọ 8. ái 

9.thủ 10.Hữu 11.Sinh 12.lão tử

Hữu (Bhava: Sanskrit)

Hữu (Existence) là trở thành (becoming). Hữu là tiến trình của nghiệp, là quả của nghiệp hiện tại, nuôi dưỡng bởi Ái và Thủ. Hữu là giai đoạn đi trước giai đoạn tái sinh (new existence): sinh và lão tử. Thế nên Hữu được gọi tên là Hữu, theo quả của nó.

Chú thích 4

Các biểu ngữ về kiến chấp: có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và không (hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt-being and non-being, to be and not to be, eternalism and nihilism).

Nhập Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and non-being)”.

Các pháp do duyên khởi nên không có tự tính.

Whatever depends upon conditions,

That is empty of intrinsic existence. (Tsong Khapa)

Nhân duyên hội hợp nên pháp gọi là có; nhân duyên biệt ly nên pháp gọi là không.

Thế nên duyên khởi (dependent arising) cũng là tinh không (= các pháp đều thiếu vắng cái hiện hữutự tính = chân không = chân không diệu hữu: emptiness, openness), cũng là trung đạo (=lìa hữu vô: middle way, beyond extremes), cũng là như huyễn (illusion).

  •  Kính lễ Đức Phật:

Đức Phật Cồ Đàm Đại Thánh Chủ

Thương xót hữu tình thuyết nhân duyên

Để đoạn dứt tất cả kiến chấp

Nay tôi dốc lòng đảnh lễ Phật

 ( Bồ Tát Long Thọ -- Kệ tụng kết thúc Trung Luận)

  • Bồ Tát Đại Huệ Mahamati tán thán Đức Phật ( Kinh Lăng Già)
Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm trên không
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Xa lìa chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi
  • Đức Phật giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập (thể nghiệm) cái không, vô sinh, vô nhịvô tự tánh.

Nguồn: Đặc San Hiện Thực số 16/2009 , Năm thứ 5 , trang 154-165

Ảnh minh họa trên: Đại luận sư Vô Trước (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11833)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10541)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12477)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14811)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52145)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13970)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14432)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57979)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14506)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20145)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13793)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15407)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17497)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14673)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11865)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12703)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant