Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 6: Phân Biệt Hiền Thánh

08 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 5656)
Chương 6: Phân Biệt Hiền Thánh

LUẬN CÂU-XÁ
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân
Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh

Chương 6
Phân biệt hiền thánh

Phần 21

Trước đây đã bàn về vấn đề tại sao sự đoạn trừ các phiền não (prahāṇa) lại có tên là biến tri (parijñā). Tiếp theo sẽ nói về các tính chất của đạo lực trong sự đoạn trừ này:

 

已說煩惱斷 由見諦修故
見道唯無漏 修道通二種.

[Đã nói đến sự đoạn trừ phiền não

Là do kiến đếTu đạo.

Kiến đạo chỉ có vô lậu;

Tu đạo có cả hai loại.]

 

Luận: Trước đây đã giải thích chi tiết sự đoạn trừ phiền não là do kiến đế đạo (Kiến đạo) và Tu đạo.

(Hỏi) Kiến đạoTu đạovô lậu (anāsrava) hay hữu lậu (sāsrava)?

(Đáp) Tu đạo có loại là đạo thế tục (laukika) hoặc hữu lậu và đạo xuất thế (lokottara) hoặc vô lậu.

Kiến đạo đối trị phiền não ở cả ba giới; Kiến đạo đốn đoạn toàn bộ chín nhóm (cửu phẩm) phiền não thuộc kiến đế đoạn; vì thế Kiến đạo chỉ có một loại xuất thế. Khả năng đoạn trừ không thuộc về thế tục đạo.

(Hỏi) Ở trên có nói “do kiến đế”; như vậy “đế” có nghĩa là gì?

 

諦四先已說 謂苦集滅道
彼自體亦然 次第隨現觀.

[Bốn dế đã được nói trước đây

Là khổ, tập, diệt, đạo, tự thể của chúng cũng như vậy.

Thứ tự này theo hiện quán.]

 

Luận: Đế có bốn loại và đã được nói đến từ trước.

(Hỏi) Được nói đến ở đâu?

(Đáp) Ở chương đầu tiên có nói: “Các pháp vô lậu là đạo đế…” và đặt tên cho sự thật về thánh đạo này là đạo đế; “trạch diệt (pratisaṃkhyānirodha) là ly hệ” và đặt tên cho sự thật về diệt pháp này là diệt đế; cho đến “khổ, tập, thế gian….” Và đặt tên cho các sự thật này là khổ đế, tập đế.

(Hỏi) Có phải đó là thứ tự của các đế?

(Đáp) Không phải. Thứ tự của các đế là khổ, tập, diệt và đạo. Khi nói “là” (tathā; vị) là để chỉ cho thể tánh của các đế cũng giống như thể tánh đã được nói đến ở chương đầu tiên.

Thứ tự của chúng chính là thứ tự mà theo đó chúng được “quán sát” (hiện quán); loại đế nào được quán sát trước thì được nói đến trước. Nếu không phải như vậy thì lẽ ra phải nói đến nhân trước (tập đế, đạo đế) rồi sau đó mới nói đến quả (khổ, diệt).

Có khi các pháp này được sắp xếp theo thứ tự sinh khởi; như trong trường hợp các niệm trụ (smṛtyupasthānas), các loại thiền định (dhyānas).

Có khi lại được sắp xếp theo thứ tự thuận tiện cho sự giảng dạy (pratirūpaṇa = pradarśana); đây là trường hợp của các loại chánh thắng (samyakprahānas) - tức các pháp đã sinh khởi và các pháp đen thì dễ quán sát hơn các pháp bất sinh và các pháp trắng - bởi vì không có nguyên tắc nhất định nào bắt buộc người tu nỗ lực đoạn trừ các pháp đã sinh trước khi nỗ lực ngăn chặn các pháp chưa sinh.

Đối với các đế thì chúng được kể tên tùy theo thứ tự chúng được quán xét (abhisamaya).

(Hỏi) tại sao chúng được quán xét theo thứ tự này?

(Đáp) Bởi vì trong giai đoạn chuẩn bị cho thánh đạo căn bổn, tức là giai đoạn của sự khảo sát (gia hành vị), thì hành giả trước tiên phải khởi tưởng đối với pháp mình đang chấp trước, đối với pháp đang làm cho mình phiền não, đối với pháp mà mình đang tìm cách xả bỏ, tức là đối với khổ. Tiếp đó hành giả tìm hiểu nguyên nhân của khổ là gì và lại khởi tưởng về nguyên nhân này (tập đế). Rồi hành giả tự hỏi sự diệt trừ pháp này là gì và lại khởi tưởng về sự diệt trừ (diệt đế). Rồi hành giả lại tự hỏi con đường diệt trừ (diệt đạo) là gì và lại khởi tưởng về con đường này (đạo đế). (Vibhāṣā, 78, 13).

Cũng giống như trường hợp sau khi đã phát hiện ra bệnh thì tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh, sự chữa bệnh và thuốc chữa bệnh. Tỷ dụ này về các đế cũng đã được kinh nói đến.

(Hỏi) Đó là kinh nào?

(Đáp) Kinh lương dược: “Người thầy thuốc có đủ bốn đức tánh thì có khả năng nhổ mũi tên độc ra. Bốn đức tánh là (1) biết rõ bệnh trạng, (2) biết rõ nguyên nhân gây bệnh, (3) biết rõ cách chữa lành bệnh, (4) biết rõ thuốc chữa lành bệnh.”

Ở giai đoạn gia hành, hành giả khởi tưởng về các đế theo thứ tự này, và ở giai đoạn hiện quán (abhisamaya), hành giả cũng quán sát các đế theo thứ tự như vậy; vì sự quán sát này do lực của gia hành (pūrvāvedhsāt, pūrvākṣepāt) dẫn khởi, cũng giống như một con ngựa có thể chạy nhanh không chút dè dặt là nhờ quá quen thuộc một vùng nào đó.

(Đáp) Ý nghĩa của từ “hiện quán” (abhisamaya) là gì?

(Đáp) Từ này có nghĩa là hiện đẳng giác (abhisaṃbodha). Ngữ căn I có nghĩa là “giác”

(Hỏi) Tại sao hiện quán chỉ thuộc về vô lậu?

(Đáp) Bởi vì đó chính là sự hiểu biết (aya, giác) hướng đến (abhi) Niết-bàn và đúng đắn (sam, saṃyak, chánh). Nói “chánh” là vì phù hợp với thực tại.

Khi làm quả thì năm thủ uẩn (upādānaskandhas) chính là sự thật về khổ - tức là những gì phải thực sự quán sát về khổ. Khi làm nhân thì năm thủ uẩn chính là sự thực về tập bởi vì khổ phát sinh từ các uẩn này. Như vậy khổ và tập khác nhau về danh nhưng lại không khác nhau về sự bởi vì chúng đều là các thủ uẩn được xem như là quả hoặc nhân. Đối với diệt đếđạo đế thì cả hai đều khác nhau về danh cũng như sự.

(Hỏi) Kinh gọi các sự thật này là thánh đế (āryasatya); vậy thánh đế có nghĩa là gì?

(Đáp) Các sự thật này có tên gọi như vậy vì chúng là những sự thật đối với thánh giả, là những sự thật của thánh giả

(Hỏi) Nếu nói như vậy có phải chúng là giả dối đối với những người không phải là thánh?

(Đáp) Chúng là những sự thật đối với tất cả mọi người bởi vì chúng không sai lầm (vô điên đảo). Tuy nhiên chỉ có thánh giả mới nhìn thấy chúng đúng như chúng là (thực kiến), có nghĩa là nhìn chúng dưới mười sáu hành tướng. Thánh giả nhìn thấy khổ (tức là các thủ uẩn) là khổ, vô thường, v.v.; trong khi những người khác lại không nhìn thấy như vậy. Vì thế những sự thật này được gọi là “sự thật của thánh giả” chứ không phải là sự thật của những người khác bởi vì cái nhìn của những người này không chính xác. Thật vậy, họ thường nhìn khổ đau như là những gì không phải là khổ đau. Có bài tụng viết: “Điều mà thánh giả gọi là lạc (Niết-bàn) thì những người khác lại gọi là khổ; điều mà những người khác gọi là lạc thì thánh giả gọi là khổ”. (Saṃyutta, iv, 127)

luận sư cho rằng có hai đế thuộc riêng về thánh giả và hai đế vừa thuộc về thánh giả vừa thuộc về những người khác (phi thánh).

(Hỏi) Chỉ một phần của thọ (vedanā) có tự tánh khổ; như vậy làm thế nào có thể nói rằng tất cả các pháp hữu vi (saṃskṛta) hữu lậu (sāsrava) đều là khổ?

Tụng đáp:

 

苦由三苦合 如所應一切
可意非可意 餘有漏行法.

[Khổ do ba loại khổ hợp thành;

Tùy theo điều kiện tương ưng

đó là tất cả các hành pháp hữu lậu khả ý phi khả ý

và các hành pháp hữu lậu khác.]

 

Luận: Có ba nguyên tắc về khổ: (1) Khổ vì nó là khổ (duḥkhaduḥkhatā, khổ khổ); (2) khổ vì là pháp hữu vi (saṃkāraduḥkhatā, hành khổ); (3) khổ vì biến đổi (pariṇāmaduḥkhatā, hoại khổ).

Vì ba nguyên tắc trên mà tất cả các pháp hành hữu lậu đều là khổ: Các pháp vừa ý (khả ý) là khổ vì phải chịu sự biến đổi (hoại khổ); các pháp không vừa ý (phi khả ý) là khổ vì tự thân chúng là khổ (khổ khổ); các pháp không phải vừa ý cũng không phải không vừa ý (phi khả ý phi phi khả ý) là khổ vì chúng là hành pháp (hành khổ).

(Hỏi) Các pháp khả ý, phi khả ý và phi khả phi phi khả ý là gì?

(Đáp) Theo thứ tự trên, các pháp này chính là ba thọ; và vì do ba thọ này mà tất cả các pháp hữu vi vốn dẫn khởi lạc thọ, v.v. (thuận lạc thọ đẳng) có tên là khả ý, v.v..

Lạc thọ là khổ vì bị biến đổi (vipariṇāmaduḥkhatā), như kinh nói: “Lạc thọ là lạc khi sinh, lạc khi trụ, là khổ khi biến đổi (pariṇāme, hoại).”

Khổ thọ có tự thể vốn là khổ (duḥkhaduḥkhatā) như kinh nói: “Khổ thọ là khổ khi sinh, là khổ khi trụ (upādaduḥkhā sthitiduḥkhatā)”.

Bất khổ bất lạc thọ là khổ vì vốn tạo thành bởi các duyên (pratyayābhisaṃskaraṇāt) như kinh nói: “Cái gì vô thường là khổ”.

thế pháp hữu vi nào dẫn khởi các loại thọ này (thuận thọ chư hành) cũng đều giống như các loại thọ này.

luận sư cho rằng sở dĩ gọi là khổ khổ bởi vì khổ chính là tính chất của khổ, gọi là hoại khổ bởi vì sự biến đổi chính là tính chất của khổ, và gọi là hành khổ bởi vì hành chính là tính chất của khổ. Ý nghĩa của giải thích này không khác với giải thích trên.

Các pháp khả ý không can dự vào loại khổ khổ; và các pháp bất khả ý không can dự vào loại hoại khổ: Có nghĩa là tính chất thứ hai của khổ (hoại khổ) chỉ thuộc về các pháp khả ý; và tính chất khổ thứ nhất (khổ khổ) chỉ thuộc về các pháp bất khả ý. Tuy nhiên tất cả các pháp hữu vi đều là khổ bởi vì đều có tính chất hành khổ (saṃkāraduḥkhatā), và chỉ có hàng thánh giả mới quán chiếu được chúng dưới loại hành tướng này.

Có bài tụng viết (Madhyamakavṛtti, tr. 467): “Người ta không có cảm giác về một sợi lông mi (ūrṇapakṣman) được đặt trong lòng bàn tay, nhưng sợi lông mi này nếu nằm trên con mặt thì sẽ làm khổ và làm tổn thương. Cũng như vậy, những người ngu, giống như bàn tay, đều không có cảm giác về sợi lông mi “hành khổ; nhưng thánh giả giống như con mắt, lại rất khổ sở vì nó.”

Thánh giả khi nghĩ đến cuộc sống ở nơi cao nhất trong cõi trời (bhavāgra, hữu đảnh) còn cảm thấy khổ tâm hơn cả những người ngu khi nghĩ về cuộc sống ở địa ngục vô gián.

Tuy nhiên người ta sẽ nói rằng đạo được tạo thành bởi các duyên (hành, saṃskṛta); và như vậy đạo cũng là khổ vì có tánh hành khổ (saṃkāraduḥkhatā).

Thật ra dạo không phải là khổ. Bởi vì khổ vốn được định nghĩa là cái khả ố (vi thánh tâm) (pratikūlam hi duḥkham iti lakṣaṇāt); trong khi đạo lại không phải là cái khả ố đối với thánh giả vì đạo phát khởi sự hủy diệt tất cả các nỗi khổ của chúng sinh: Khi thánh giả quán sát Niết-bàn là tịch tĩnh (śānta) thì cái mà thánh giả xem nhưtịch tĩnh chính là sự hủy diệt cái mà thánh giả đã xem như là khổ [tức là các pháp hữu vi hữu lậu chứ không phải là sự hủy diệt của đạo].

(Hỏi) Nếu thừa nhận vẫn có lạc (sukha), tại sao lại chỉ có một mình khổ là sự thật của các thánh giả (thánh đế)?

(Đáp) (1) Có giải thích cho rằng vì sự ít ỏi của lạc. Cũng giống như trong một đống đậu đen mặc dù có lẫn những hạt đậu xanh nhưng vẫn gọi là đống “đậu đen”; và cũng không có ai có hiểu biết mà lại xem một cái nhọt bị lở loét là lạc chỉ vì đã cảm nhận được một lạc thọ nhỏ nhoi nào đó khi người ta rửa ráy cái nhọt này.

(2) Lại có bài tụng giải thích: “Vì là nhân của khổ, vì được sinh khởi do nhiều nổi khổ, vì là đều được mong muốn khi bị khổ cho nên mới nói rằng lạc cũng chính là khổ”.

(3) Thật ra, cho dù có lạc kèm theo thì toàn thể sự hiện hữu (bhava) vẫn có cùng một vị của hành khổ cho nên thánh giả vẫn xem nó như là khổ. Đây chính là lý do tại sao khổ là một sự thật của thánh giả mà không phải lạc.

(Hỏi) Làm thế nào thánh giả có thể quán sát tự tánh của các lạc thọ là khổ?

(Đáp) Vì các lạc thọ đi ngược lại thánh tâm do tính chất vô thường của chúng. Cũng giống như khi thánh giả quán sát sắc (rūpa), tưởng (saṃjñās), v.v., là khổ cho dù các sắc, tưởng, v.v., này không phải là khổ giống như trường hợp của khổ thọ.

giải thích cho rằng “lạc là khổ vì lạc là nhân của khổ”. Tuy nhiên giải thích này không đúng bởi vì (1) nếu là nhân của khổ thì đó chính là hành tướng (ākāra) của tập, tức là xem các sự vật như là nguyên nhân của khổ chứ không phải xem chúng là khổ; (2) các thánh giả sinh vào Sắc giớiVô sắc giới làm thế nào có thể có được ý tưởng về khổ? Bởi vì các uẩn ở các giới này không phải là nguyên nhân của khổ; (3) tại sao kinh còn nói đến tính chất hành khổ? Nếu thánh giả đã xem lạc là khổ vì đó là nhân của khổ thì tính chất hành khổ (có nghĩa là “những gì vô thường đều là khổ”) được nói đến để làm gì.

(Hỏi) Nếu vì vô thườngthánh giả quán lạc là khổ thì có gì khác nhau giữa hành tướng của khổ và vô thường? Một mặt thì quán sát sự vật là khổ; mặt khác lại “quán sát sự vật là vô thường”: Như vậy sẽ có sự tạp loạn.

(Đáp) Quán sát sự vật là vô thường bởi vì thể tánh của chúng là sinh và diệt; quán sát sự vật là khổ bởi vì chúng đi ngược lại thánh tâm. Khi đã quán sát được sự vật là vô thường thì chúng sẽ trở thành loại đi ngược lại thánh tâm. Tính chất vô thường bao hàm tính chất khổ nhưng không tạp loạn với tính chất này.

luận sư (Vibhāṣā, 78, 6) cho rằng thật ra không có lạc thọ mà tất cả đều là khổ; và họ đã đưa ra các giáo chứng cũng như lý chứng để chứng minh điều này.

Giáo chứng: Kinh nói “hễ có thọ là khổ”, “lạc thọ phải được xem là khổ”, “thật điên đảo khi xem khổ là lạc”. (Saṃyutta, iv, 216)

Lý chứng: (1) Bởi vì các nhân của lạc không phải lúc nào cũng là nhân của lạc (sukhahetvavyavasthānāt). Những sự vật mà chúng ta tưởng là nhân của lạc như đồ ăn, đồ uống, cái lạnh, cái nóng, v.v., nếu được thọ dụng quá độ hoặc không đúng lúc cũng sẽ trở thành nhân của khổ. Vì thế không thể chấp nhận rằng chỉ vì tăng trưởng hoặc vì xuất hiện ở một thời điểm khác (phi thời) dù vẫn giữ nguyên như vậy (bình đẳng) mà một nhân của lạc lại tạo ra khổ. Như vậy những gì lầm tưởng là nhân của lạc, ngay từ nguồn gốc, đã là nhân của khổ chứ không phải lạc: Càng về sau khổ càng tăng thạnhtrở thành cái được cảm nhận; cũng giống như trường hợp của bốn uy nghi (iryāpatha) nằm, ngồi, v.v..

(2) bởi vì ý tưởng về lạc có cảnh sở duyên không phải là một loại thực lạc mà có khi chỉ là một loại làm giảm khổ (duḥkhapraikāra, trị khổ), có khi chỉ là một sự biến đổi của khổ (duḥkhavikalpa, khổ dịch thoát). Chừng nào con người chưa bị hành hạ bởi nỗi khổ do đói, khát, lạnh, nóng, mệt mỏi, ham muốn gây ra thì chừng đó con người sẽ không có bất kỳ một cảm thọ nào để cảm nhận đó là lạc (sukham iti). Vì thế khi những người ngu có một ý tưởng về lạc thì đó không phải là một loại thực lạc mà chỉ là một sự làm giảm bớt khổ. Những người ngu cũng có một ý tưởng về lạc khi làm cho khổ đau thay đổi; giống như trường hợp đưa gánh nặng trên vai cho người khác. Vì thế lạc không thực hữu.

Các luận sư Đối pháp nói rằng lạc vẫn thực hữu và chúng ta có thể thấy rõ được điều này:

(1) Chúng ta hãy xem những người bác bỏ lạc thọ (bác vô lạc giả) xem khổ là gì. Nếu họ trả lời: “Đó là những gì gây ra khổ đau”, thì chúng ta sẽ hỏi tiếp: “Gây ra khổ đau như thế nào?” Nếu họ trả lời: “Bởi vì chúng tạo tác điều ác” thì chúng ta sẽ nói rằng: “Những gì tạo tác điều thiện” chính là lạc. Nếu họ trả lời “bởi vì chúng không được mong cầu”, thì chúng ta sẽ nói rằng “những gì được mong cầu” chính là lạc.

(2) Nhưng người ta sẽ nói rằng chính điều “được mong cầu này cũng không còn là điều đáng mong cầu đối với thánh giả đã đắc được sự xả ly (vairāgyakāle); cho nên vẫn không thể lập thành tính chất của lạc. Tuy nhiên lập luận này không có giá trị bởi vì khi một thánh giả không còn mong cầu vì đã đắc được sự xả ly thì đó chỉ vì điều này không còn đáng mong cầu đối với thánh giả nữa.

Một cảm thọ nếu tự thân của nó là cái được mong cầu (khả ái) thì không bao giờ trở thành cái không được mong cầu (phi khả ái). Do đó khi thánh giả không còn ham thích lạc thọ nữa thì đó không phải vì tự tánh của lạc thọ này mà chỉ vì một lý do khác: Thánh giả chán ghét lạc thọ vì những khuyết điểm của nó; vì lạc thọ chính là cơ hội làm thối thất thiện pháp (pramādapada), vì phải mất nhiều công sức để đắc được lạc thọ, vì lạc thọ sẽ trở thành khổ thọ, và vì lạc thọ vốn vô thường. Nếu như loại thọ này vốn là cái không được mong cầu thì có những ai không ham muốn nó? Chỉ vì muốn xả ly nên thánh giả mới quán sát lạc thọ qua các khuyết điểm của nó (dư hành tướng) chứ không phải dựa vào tự tánh (khả ái) của nó; vì thế tự thân lạc thọ vẫn thực hữu.

(3) Về lời dạy của đức Phật: “Hễ có thọ là có khổ” thì chính ngài đã xác định ý nghĩa của câu nói này qua đoạn kinh (Saṃyutta, iv, 216): “Này A-nan, chính vì để chỉ cho sự vô thường, chính vì để chỉ cho sự biến đổi của các pháp hữu vi mà ta đã nói rằng: Hễ có lạc là có khổ”. Vì thế có thể xác định rằng lời đạy trên đây không có ý chỉ cho tính chất khổ khổ (duḥkhaduḥkhatā).

Nếu tự thể của tất cả các cảm thọ đều là khổ thì lẽ ra thánh giả A-nan (Ārya Ānanda) không nên đưa ra câu hỏi: “Thế tôn đã dạy rằng có ba loại cảm thọ là lạc, khổ và khổ lạc không khổ. Thế tôn đã đạy rằng hễ có thọ là có khổ. Như vậy Thế tôn có chủ ý gì khi dạy rằng hễ có thọ là có khổ?”. Lẽ ra A-nan phải hỏi: “Vì sao Thế tôn lại dạy rằng có ba loại cảm thọ?”. Và Thế tôn lẽ ra phải trả lời: “Chính vì có dụng ý riêng mà ta dạy rằng có ba loại cảm thọ”. Như vậy, nếu Thế tôn đã nói: “Ta có ẩn ý khi nói rằng hễ có thọ là có khổ”, thì đó chỉ vì tự thể của thọ vốn có ba loại.

(4) Về lời dạy: “Phải xem lạc thọ là khổ” (sukhā vedanā duḥkhato draṣtavyā), thì lạc thọ vốn vẫn là lạc bởi vì có khả năng mang lại niềm vui (manapā), nhưng theo cách nhìn nào đó thì lạc thọ lại là khổ (paryāyeṇa duḥkhā) vì vẫn bị biến đổi và không thường hằng. Nếu xem lạc thọ là lạc thì những người chưa ly dục (rāgin) sẽ bị trói buộc bởi vì họ vẫn còn thọ hưởng hương vị của nó. Nếu xem lạc thọ là khổ thì thánh giả sẽ được giải thoát bởi vì họ đã xả ly sự ham muốn đối với lạc thọ. Đây là lý do tại sao Thế tôn dạy rằng hãy quán sát lạc thọ theo cách nào đó thuận lợi cho sự đắc được giải thoát.

(Hỏi) Tại sao biết được tự thể của lạc thọ là lạc?

(Đáp) Có bài tụng (Saṃyukt, 17, 17) nói: “Đức Phật, đấng chánh biến tri, vì biết được sự vô thườngbiến đổi của các pháp hữu vi nên nói rằng thọ là khổ”.

(5) Về lời dạy: “Thật điên đảo khi chấp khổ là lạc”, thì lời dạy này cũng hàm chứa một ẩn ý nào đó. Thế gian khởi lạc tưởng đối với lạc thọ, đối với các sự vật tạo ra khoái lạc (kāmaguṇa), đối với sự hiện hữu (upapatti). Như vậy, theo một cách nào đó (paryāyeṇa) lạc thọ vẫn là khổ và nếu xem nó là hoàn toàn (ekāntena) lạc thì đó chính là sự điên đảo. Những sự vật gây khoái lạc chứa đựng nhiều đau khổ (bahuduḥkha) nhưng lại ít niềm vui (alpasukha); và nếu xem chúng là sự an lạc tuyệt đối thì đó cũng chính là sự điên đảo; quan niệm về sự hiện hữu cũng giống như vậy. Vì thế bản kinh này không có ý nói rằng lạc không hiện hữu.

(6) Nếu tự tánh của thọ là khổ thì làm thế nào để giải thích lời dạy của đức Phật về sự hiện hữu của ba loại thọ? Nếu cho rằng khi dạy như vậy có lẽ đức Phật đã thuận theo cái nhìn của thế gian (lokānuvṛttyā) thì điều này không thể chấp nhận được bởi vì (1) đức Phật có nói: “Nếu ta nói rằng tất cả cảm thọ đều là khổ thì đó là lời nóiẩn ý (mật thuyết)”; (2) Khi giảng về ba loại thọ, đức Phật đã sử dụng nhóm từ: “Phù hợp với thực tại” (yathābhūtam, như thực). Thật vậy, sau khi nói: “Lạc căn (sukhendriya), hỷ căn (saumanasyendriya) là lạc thọ (sukhāvedana)”, đức Phật đã nói tiếp: “Người nào, nhờ vào sự phân biệt chính xác (samyakprajñā, chánh tuệ), mà thấy được năm căn (hoặc thọ) như vậy, phù hợp với thực tại (), thì sẽ đoạn trừ được ba hệ phược…”; (3) hơn nữa, nếu như thọ chỉ là khổ thì làm thế nào thế gian có thể đi đến kết luận rằng (vyavasyet) thọ có ba loại? Có phải các ông sẽ nói rằng người ta có thể có ý tưởng hoặc cảm giác về lạc thọ đối với loại khổ thọ yếu ớt, có ý tưởng về loại cảm thọ trung hòa đối với loại khổ thọ trung bình, và có ý tưởng về khổ thọ đối với loại khổ thọ mạnh mẽ? Nếu như vậy, lạc cũng có ba mức độ và lẽ ra cũng sẽ có ba trường hợp khởi lạc tưởng lớn đối với loại khổ thọ yếu ớt, khởi lạc tưởng trung bình đối với loại khổ thọ trung bình và khởi lạc tưởng ít ỏi đối với loại khổ thọ mạnh mẽ.

Ngoài ra, trong trường hợp cảm nhận lạc thọ phát sinh từ một hương, vị hoặc vật được xúc chạm đặc biệt nào đó thì lúc đó sẽ có loại khổ yếu ớt gì làm nền tảng cho sự sinh khởi của lạc tưởng?

[Và nếu các ông cho rằng lạc tưởng sinh khởiliên quan đến một loại khổ yếu ớt] thì khi loại khổ yếu ớt này chưa sinh hoặc khi nó đã diệt thì lúc đó lẽ ra phải có lạc tưởng mạnh mẽ hơn nữa (cực lạc giác) bởi vì lúc đó khổ đã hoàn toàn biến mất. Đối với trường hợp của hương, vị, v.v., và của dục lạc cũng như vậy (kāmasukhasaṃmukhībhāva).

Hơn nữa, theo chủ trương của các ông thì một “cảm giác” yếu ớt (vedita), một nỗi khổ nhỏ được biểu hiện bởi một cảm thọ rõ ràng và mạnh mẽ (lạc tưởng); và một “cảm giác” có lực trung bình được biểu hiện bởi một cảm thọ không rõ ràng (phi khả ý phi bất khả ý); tuy nhiên chủ trương có vẽ không được chặt chẽ cho lắm. Bởi vì kinh có dạy rằng ba tầng thiền đầu tiên đều có lạc (sukha) đi kèm theo; và như vậy, nếu theo các ông, cũng sẽ có một loại khổ thọ yếu ớt (ở đó). Kinh cũng dạy rằng trong tầng thiền thứ tư có loại thọ phi khả ý phi bất khả ý (xả thọ); và như vậy, theo các ông, cũng sẽ có một loại khổ trung bình (ở đó). Như vậy chủ trương “lạc thọ, v.v., tương ưng với một khổ thọ yếu ớt, v.v.,” sẽ không thể chấp nhận được.

Cuối cùng, Thế tôn có nói: “Này Đại danh (Mahānāman) nếu sắc chỉ là khổ mà không phải lạc, không có lạc đi kèm theo,… thì sẽ không có lý do nào để người ta phải tham đắm sắc…” (Saṃyutta, ii. 173).

Kết quả là các lập luận dựa vào kinh điển được dẫn chứng trên đây không có giá trị.

(7) Lập luận đầu tiên về một thứ tự hợp lý mà những người chủ trương trái ngược với chúng tôi đưa ra cũng không có giá trị; bởi vì khi nói “các nhân của lạc không phải lúc nào cũng là nhân của lạc” thì họ đã không giải thích rõ ràng cái gì là nhân của lạc.

Một cảnh sở duyên nào đó làm nhân của lạc hoặc khổ tùy thuộc vào trường hợp của người cảm thọ (sở y phần vị); nó không phải là nhân của lạc hoặc khổ một cách tuyệt đối. Nếu một cảnh sở duyên nào đó đã là nhân của lạc khi nó có liên hệ với một thân đang ở vào một trạng thái nào đó, thì cảnh sở duyên này cũng sẽ luôn luôn là nhân của lạc khi tiếp tục liên hệ đến thân này trong cùng một trạng thái như vậy. Vì thế nhân của lạc vẫn luôn luôn là nhân của lạc.

Tỷ dụ như cùng một ngọn lửa sẽ cho ra các kết quả nấu chín khác nhau tùy theo tình trạng của loại gạo được nấu chín (pākyabhūtāvasthā) và sẽ có trường hợp thức ăn có thể ăn được () hoặc không ăn được; nhưng tác dụng của lửa vẫn không thay đổ cho dù gạo đang ở vào tình trạng nào đi nữa.

Mặt khác, ở các tầng thiền làm sao có thể không thừa nhận rằng các nhân của lạc luôn luôn là nhân của lạc?

(8) Về lập luận “lạc tưởng có sở duyên không phải là một loại thực lạc mà chỉ là một sự làm giảm khổ hoặc một sự biến đổi của khổ”, thì chúng tôi xin nói rằng:

(i) Trong trường hợp cảm nhận lạc thọ phát sinh từ hương, vị, v.v., thì sở duyên của lạc tưởng sẽ là sự giảm bớt của loại khổ gì? Trước khi loại khổ này sinh khởi hoặc vào khi nó đã diệt, tức khi không còn một sự giảm khổ nào cả thì lẽ ra phải có sự cảm nhận lạc thọ mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, ở các tầng thiền, lạc thọ chắc chắn không thể bao hàm sự giảm khổ bởi vì ở những nơi này vốn không có khổ.

(ii) Khi một người chuyển một gánh nặng sang vai người khác thì thật sự sẽ có một loại lạc phát sinh từ một trạng thái mới của thân (thân phần vị) và loại lạc này sẽ tiếp tục sinh cho đến khi trạng thái mới này của thân biến mất. Nếu không phải như vậy thì ý tưởng hoặc cảm giác về lạc này lẽ ra phải trở nên càng ngày càng mạnh hơn. Đối với cảm giác về loại lạc phát sinh do sự thay đổi các tư thế (tứ uy nghi) đã mệt mỏi cũng được giải thích giống như vậy.

(9) Nếu các ông hỏi: “Nếu khổ không bắt đầu ngay từ đầu thì về sau làm sao có thể có cảm giác về khổ?”, chúng tôi xin trả lời: “Vì do sự biến đổi nào đó của thân [tiếp theo sau việc hấp thụ thức ăn, v.v., cho nên khổ sẽ không xuất hiện chừng nào mà tình trạng thuận hợp với lạc này của thân còn kéo dài]; cũng giống như sự nối tiếp nhau của các loại vị ngọt và chua trong trường hợp của rượu, v.v..

Vì thế vẫn có thể lập thành lạc thọ, và tất cả các pháp hữu vi hữu lậu đều được gọi là khổ là do ba tính chất của khổ.

A-tỳ-đạt-ma khi chủ trương khổ đế chính là tập đế - có nghĩa là các thủ uẩn vốn là khổ nhưng đồng thời cũng là nguồn gốc của khổ - đã căn cứ vào lời dạy của khế kinh (Vibhāṣā, 78, 7). Bởi vì theo khế kinh (Mahāvagga, i. 6, 20; Madhyama, 7, 22) chỉ có ái (tṛṣṇā) mới là nguồn gốc của khổ.

Kinh nói rằng ái chính là tập bởi vì tính chất cường thắng của nó. Tuy nhiên tất cả các pháp hữu lậu khác cũng là nguồn gốc của khổ.

Thật ra các pháp khác cũng được khế kinh nói đến. Thế tôn nói: “Nghiệp, ái và vô minh là nhân của các hành ở đời sống kế tiếp”; Ngài còn nói: “Năm loại hạt giống (chủng tử), tức loại thức (vijñāna) tương ưng với thủ (upādāna); địa giới, tức bốn thức trụ (vijñānasthitis)”.

Như vậy định nghĩa (nirdeśa) “ái là nguồn gốc của khổ” của kinh được ngầm hiểu theo một gốc độ riêng (ābhiprāyika) (mật ý ngôn); trong khi định nghĩa của A-tỳ-đạt-ma lại dựa theo các tính chất của một sự vật hiển nhiên (lākṣaṇika) (y pháp tướng thuyết). 

Mặt khác, khi Thế tôn nói: “Chính ái là tập” là có ý định nghĩa nguyên nhân của sự tái sinh khởi (abhinivṛttihetu). Và trong bài tụng, khi ngài nói đến nghiệp, ái và vô minh là có ý định nghĩa nguyên nhân của các sự sinh khởi khác nhau (upapattihetu, sinh nhân) chính là nghiệp, nguyên nhân của sự tái sinh khởi chính là ái; nguyên nhân của sự sinh khởi và của sự tái sinh khởi chính là vô minh. Chúng ta sẽ giải thích ý nghĩa của các cách nói này. Kinh nói: “Nghiệp là nhân của sinh (upapatti); ái là nhân của khởi (abhinivṛtti)”; và kinh còn nói về thứ tự nối tiếp của nhân duyên (sahetusapratyayasanidānakrama): “Nhãn có nhân (hetu-pratyaya-nidāna) là nghiệp; nghiệp có nhân là ái; ái có nhân là vô minh; và vô minh có nhân là sự phán đoán sai lạc (phi lý tác ý)”.

Vấn đề thức và các uẩn khác được xem như là nguồn gốc của khổ cũng xuất phát từ việc kinh có nói rằng các pháp này cũng giống như hạt giống và ruộng đồng.

(Hỏi) Sinh là gì? Khởi là gì?

(Đáp) Sinh (upapatti) có nghĩa là sự sinh ra hoặc sự hiện hữu thuộc riêng về một giới (Dục giới, v.v.), một thú (thiên, nhân, v.v.), một cách sinh sản (thai, trứng, v.v.), một giới tính nào đó, v.v.. Khởi (abhinivṛtti) là sự tái hiện trở lại và không thuộc riêng về một loại nào cả.

Nhân của sinh là nghiệp, nhân của khởi là ái; cũng giống như hạt giống là nhân của một mầm mộng có đặc tính riêng, như mầm mộng của thóc, của lúa mạch, v.v.; trong khi nước chỉ là nhân cho sự nảy mầm (prarohamātra) của tất cả các loại mầm mộng và không có chủng loại khác nhau.

(Hỏi) Làm sao có thể chứng minh ái là nhân của khởi?

(Đáp) Do sự kiện một người đã xả ly ái thì không còn sinh trở lại. Khi một người còn ái và một người ly ái chết đi thì chúng ta biết rằng người thứ nhất sẽ tái sinh nhưng người thứ hai thì không. Như vậy, vì không có sự tái sinh ở nơi nào không có ái nên chúng ta biết rằng ái chính là nhân của sự tạo ra một hiện hữu, là nhân của sự tái hiện hữu (bhavābhinirvṛtti). Do một sự kiện khác nữa là chuỗi tương tục được ái dẫn dắt. Chúng ta biết rằng chuỗi tương tục của tâm không ngừng hướng đến sự vật mà nó khao khát. Đối với sự tái sinh cũng như vậy.

Không có phiền não (kleśa) nào đeo dính vào sự hiện hữu (ātmabhāva) giống như ái; cũng giống như bột đậu một khi đã khô thì dính chặt vào tay. Không có loại nhân nào trói buộc vào sự tái sinh giống như ngã ái (ātmasneha). Đây là lý do lập thành ái chính là nhân của khởi.

(Hỏi) Thế tôn đã dạy về bốn sự thật; đồng thời ngài cũng nói đến hai sự thậtsự thật tương đối (saṃvṛtisatya, thế tục đế) và sự thật tuyệt đối (paramārthasatya, thắng nghĩa đế). Vậy hai sự thật này là gì?

Tụng đáp:

 

彼覺破便無 慧析餘亦爾
如瓶水世俗 異此名勝義.

[Cái biết về nó không còn khi nó bị phá;

Cái được tuệ phân tích và những cái khác cũng vậy,

Giống như bình và nước đều là thế tục đế.

Khác với điều này gọi là thắng nghĩa đế.]

 

Luận: nếu cái biết về một sự vật không còn hiện hữu khi sự vật này bị vỡ tan thành từng mảnh thì sự vật này chỉ hiện hữu một cách tương đối (saṃvṛtisat); tỷ dụ như một chiếc bình: Ý tưởng về chiếc bình sẽ không còn hiện hữu khi chiếc bình chỉ còn là các mảnh vụn. Nếu cái biết về một sự vật không còn hiện hữu khi dùng tuệ để phân tích sự vật này thì sự vật này cũng được xem như hiện hữu một cách tương đối; tỷ dụ như trường hợp của nước. Nếu chúng ta rút ra từ nước các pháp như màu sắc, v.v., thì ý tưởng về nước cũng sẽ biến mất.

Tùy theo một cách nhìn có tính cách tương đối hoặc một cách dùng có tính cách quy ước (saṃvṛtitas) mà nhiều tên gọi khác nhau đã được gán cho các sự vật này, như bình, áo, nước, lửa, v.v.. Vì thế nếu từ cách nhìn tương đối (saṃvṛtivaśena) mà nói rằng “có cái bình (ghatośti), có nước” tức đã nói thật chứ không phải giả. Như vậy đó vẫn là một sự thật tương đối (thế tục đế).

Khác với điều trên là sự thật tuyệt đối. Khi một sự vật đã bị vỡ hoặc đã được tuệ phân tích nhưng ý tưởng về nó vẫn còn thì sự vật này hiện hữu một cách tuyệt đối (paramārthasat); tỷ dụ như sắc pháp (rūpa): Người ta có thể giản lược sắc pháp thành những cực vi, người ta có thể dùng tuệ để rút ra mùi vị và các pháp khác nhưng vẫn còn cái biết về tự thể của sắc pháp; đối với thọ, v.v., cũng thế. Bởi vì sắc pháp hiện hữu một cách tuyệt đối (paramārthasat) nên đó là sự thật tuyệt đối (paramārthasatya, thắng nghĩa đế).

Các luận sư đời trước nói rằng các pháp thuộc thắng nghĩa đế là các pháp được tri nhận bởi trí tuệ xuất thế (lokottarajñāna, xuất thế trí) hoặc bởi trí tuệ thế tục (laukikajñāna, thế trí) đắc được tiếp theo sau (pṛṣṭhalabdha) xuất thế trí (thử hậu đắc thế gian chánh trí). Các pháp này có thật một cách tuyệt đối nhờ vào cách chúng được tri nhận bởi tất cả các loại thế trí nhiễm hoặc vô nhiễm khác.

Trên đây đã nói về các đế; tiếp theo là phần giải thích làm thế nào để thấy được các đế này:

 

將趣見諦道 應住戒勤修
聞思修所成 謂名俱義境.

[Trước khi hướng đến con đường kiến đế

Cần phải an trụ vào giới luật, chuyên cần tu tập

Các tuệ do văn tư tu thành tựu

Có cảnh là danh, cả danh lẫn nghĩa, nghĩa.]

 

Luận: Những người mong muốn nhìn thấy được các đế (kiến đế) trước hết phải giữ gìn giới luật (śīla, thi-la). Sau đó đọc tụng các lời dạy (śrutra) nói về kiến đế hoặc lắng nghe ý nghĩa của kiến đế. Sau khi đã hiểu (śrutvā) thì phải suy nghĩ cho đúng đắn (aviparīta, vô đảo). Sau khi đã suy nghĩ đúng đắng thì mới bắt đầu tu định (samādhibhāvanā). Nhờ nương vào loại tuệ phát sinh từ các lời giáo huấn (śrutamayī, văn tuệ) nên mới có loại tuệ phát sinh từ sự suy nghĩ (cintāmayī, tư tuệ); và nhờ nương vào loại tuệ phát sinh từ sự suy nghĩ mới có loại tuệ phát sinh từ sự tu tập (bhāvanāmyī, tu tuệ).

(Hỏi) Các tính chất của ba loại tuệ này là gì?

(Đáp) Theo Tỳ-bà-sa, văn tuệsở duyên là danh (nāman); tư tuệsở duyên là danh và nghĩa (artha): Thật vậy, có khi tư tuệ nắm bắt (ākarṣati) ý nghĩa nhờ dựa vào lời văn (vyañjanena), có khi lại nắm bắt lời văn nhờ dựa vào ý nghĩa. Tu tuệ có sở duyêný nghĩa vì chỉ nắm bắt ý nghĩa chứ không chấp thủ lời văn. Cũng giống như ba người cùng vượt sông: Người không biết bơi thì không thể tháo bỏ đồ bơi, người mới biết bơi thì có khi phải đeo bám có khi lại tháo bỏ đồ bơi, người đã biết bơi thì không cần nương vào vật gì cả (Vibhāṣā, 81, 14, 41, 8).

(Kinh bộ) Theo giải thích trên, không thể lập thành tư tuệ. Bởi vì khi có sở duyên là danh thì tư tuệ chính là văn tuệ; và khi có sở duyên là nghĩa thì tư tuệ chính là tu tuệ cho nên sẽ không có tư tuệ. Vì thế nên giải thích rằng văn tuệ là sự xác tín (niścaya) phát sinh nhờ nương vào sự hiểu biết (pramāṇa) được gọi là “lời nói của một người có khả năng” (āptavacana) (y văn chí giáo); tư tuệ là một sự xác tín phát sinh từ sự xem xét đúng lý (yuktinidhyāna = yuktyā nitīraṇam) (y tư chánh lý); tu tuệ là một sự xác tín phát sinh từ định (y tu đẳng trì). Như vậy các tính chất khác nhau của ba loại tuệ này vẫn được lập thành một cách đúng đắn.

Trong từ ngữ “văn sở thành” (śrutamayī), v.v., thì tiếp ngữ maya (sở thành) nhằm chỉ cho nhân: Loại tuệ (prajñāna) do văn thành tựu (śrutamayī) là loại tuệ lấy văn (śruta) làm nhân (hetu), có nghĩa là lấy “lời nói của một người có khả năng” (āptavacana) làm nhân. Hoặc tiếp vĩ ngữ maya được dùng như một từ để chỉ cho “sự chuyển hóa của …”, tức loại tuệ do văn thành tựu chỉ là một sự chuyển hóa của văn (śruta). Tuy nhiên nên hiểu từ ngữ “sự chuyển hóa” này theo ý nghĩa ẩn dụ: Đó chỉ là một sự ước chừng; thật vậy, trong thực tế vẫn phải kể thêm các tính chất khác. Cũng giống như khi nói: “Sinh khí được tạo thành từ các chất dinh dưỡng, những con bò được tạo thành từ cỏ” (anamayāḥ prānāḥ tṛṇamayā gāvaḥ).

(Hỏi) Nếu áp dụng sự tu tập (bhāvanā) này thì làm thế nào để thành công?

Tụng đáp:

 

具身心遠離 無不足大欲
謂已得未得 多求名所無
治相違界三 無漏無貪性
四聖種亦爾 前三唯喜足
三生具後業 為治四愛生
我所我事欲 暫息永除故.

[Thân và tâm viễn ly;

Không phải “bất túc” và “đại dục”;

Có nghĩa là đã có hoặc chưa có

Nhưng muốn có nhiều nên gọi là không phải (hỷ túc, thiểu dục).

Pháp đối trị là pháp tương vitam giới,

vô lậu vì có tánh vô tham.

Bốn thánh chủng cũng thế;

Ba loại đầu chỉ là hỷ túc,

Nhằm đối trị sinh cụ

Loại cuối đối trị sự nghiệp;

Để đối trị bốn ái sinh khởi;

Để tạm thời chấm dứt hoặc vĩnh viễn đoạn trừ

Sự ham muốn về ngã sởngã sự.]

 

Luận: Khi hành giả thu thúc (vyapakṛṣta) được thân và tâm bằng cách xa rời (dūrīkaraṇa) tình trạng tương tạp (saṃsarga) và các ý nghĩ xấu xa (akuśalavitarka, bất thiện tầm) thì họ sẽ thành công.

(Hỏi) Ai có thể thực hiện dễ dàng hai điều nói trên?

(Đáp) Những người đã xả ly hoặc những người có ít ham muốn (alpeccha, thiểu dục) và biết đủ (saṃtuṣṭa, hỷ túc) chứ không phải những người “không biết đủ” (bất hỷ túc) và “không biết chán” (đại dục).

(Hỏi) “Không biết đủ” và “không biết chán” nhằm chỉ cho cái gì?

(Đáp) Các luận sư Đối pháp (Vibhāṣā, 41, 16) nói: Đối với các đồ vật tốt đẹp (praṇīta) đã có như áo quần, v.v. mà vẫn muốn có nhiều hơn nữa thì đó chính là “bất ỷ túc”. Thèm muốn những cái chưa có chính là “đại dục”.

(Hỏi) Chăng phải “bất hỷ túc” cũng có thể xảy ra đối với những thứ chưa có sao? Và nếu vậy thì có gì khác nhau giữa hai khuyết điểm này?

(Đáp) Bất hỷ túc là sự cảm thấy không thỏa mãn đối với cái đã có vì cho rằng chúng quá tầm thường (apraṇīta, bất diệu) hoặc ít ỏi (aprabhūta, bất đa). Đa dục chính là sự ham muốn cái tốt hơn hoặc nhiều hơn những thứ đang có.

Các pháp trái ngược với bất hỷ túc và đại dục, tức hỷ túcthiểu dục, chính là các pháp có khả năng đối trị hai khuyết điểm này. Chúng thuộc về cả ba giới và có tánh vô lậu. Trái lại bất hỷ túc và đại dục chỉ có ở Dục giới.

(Hỏi) Thể tánh của hỷ túcthiểu dục là gì?

(Đáp) Thể tánh của chúng là thiện căn vô tham. Căn nguyên của thánh giả (āryavaṃśas, thánh chủng) chính là vô tham (alobha). Sở dĩ có tên như vậy là vì thánh giả sinh ra từ vô thamthể tánh của thánh chủng cũng chính là vô tham.

Trong bốn loại thánh chủng thì ba loại đầu - tức biết đủ đối với quần áo (cīvara), biết đủ đối với đồ ăn đồ uống (piṇdapāta), biết đủ đối với các thứ dùng để nằm, ngồi (śayanāsana) - có thể tánhhỷ túc.

Thánh chủng thứ tư - tức là sự cảm thấy hoan hỷ đối với diệt phápthánh đạo (lạc đoạn tu) - không phải là hỷ túc.

(Hỏi) Làm sao biết được thánh chủng thứ tư cũng là vô tham?

(Đáp) Vì quay lưng với sự chấp trước tham dục và sự chấp trước hiện hữu (bhavarāga, hữu tham).

(Hỏi) Qua bốn thánh chủng trên Thế tôn muốn dạy về điều gì?

(Đáp) Thế tôn, vị vua của pháp, đã dạy về cách sử dụng các nhu cầu về ăn, ở có chừng mực (sinh cụ) và cách sinh hoạt cho các đệ tử của ngài; những người bắt đầu tìm kiếm sự giải thoát sau khi đã từ bỏ các nhu cầu và cách sống cũ. Qua ba thánh chủng đầu ngài dạy về các nhu cầu trong cuộc sống và qua thánh chủng cuối ngài dạy về cách sinh hoạt: “Nếu các ông thực hiện những hành động này cùng với cách sống này thì chẳng bao lâu các ông sẽ được giải thoát.”

(Hỏi) Tại sao Thế tôn lập ra hai sự việc trên?

(Đáp) Để ngăn ngại (đối trị) sự sinh khởi của ái. Kinh (Mahāsaṃgīti = Dīgha, iii. 228; Anguttara, ii. 10, 248) dạy rằng sự sinh khởi của ái có bốn trường hợp: “Này các Bí-sô, khi sinh khởi thì ái sẽ sinh từ y phục, từ thức ăn, từ chỗ nằm, từ chỗ ngồi; khi trụ thì ái sẽ trụ ở y phục, v.v.; khi đeo bám thì sẽ đeo bám ở y phục, v.v.; này cá Bí-sô, khi sinh thì ái sẽ sinh từ sự hiện hữu và sự không hiện hữu như thế…”. Chính vì để ngăn ngừa ái mà bốn thánh chủng đã được tuyên thuyết.

Nói cách khác, bốn thánh chủng được tuyên thuyết là để ngăn chận tạm thời hoặc vĩnh viễn sự hàm muốn đối với các đối tượng của ý thức về ngã sở và ngã (ngã sự). Đối tượng của ý thức về ngã sở chính là y phục. Đối tượng của ý thức về ngã chính là thân sở y (āśraya). Sự ham muốn chính là ái.

Ba thánh chủng đầu tiên nhằm diệt trừ sự ham muốn các sự vật được xem như là “thuộc riêng về mình” đã nói ở trên. Thánh chủng cuối cùng nhằm diệt trừ vĩnh viễn tất cả sự ham muốn này.

(Hỏi) Trên đây đã nói về các phẩm tánh cần có cho sự tu tập (bhāvanā) thành công. Như vậy, hành giả đã như là một cái bình chứa thích hợp (tu sở y khí) thì sẽ bước vào con đường tu tập bằng cánh cửa nào?

Tụng đáp:

 

入修要二門 不淨觀息念
貪尋增上者 如次第應修.

[Vào đường tu cần có hai cửa

bất tịnh quán và tức niệm;

Có người tham và tầm tăng thượng

Nên tu theo thứ tự này.]

 

Luận: Hành giả bước vào con đường tu tập bằng cách quán sát về sự bất tịnh (aśubhā) và sự chú ý đến hơi thở (ānāpānasmṛta).

(Hỏi) Ai tu bất tịnh quán và ai tu tức niệm?

(Đáp) Theo thứ tự trên là những người có tham và tầm tăng thạnh. Sở dĩ nói “tham tăng thạnh” (rāgādhika) và “tầm tăng thạnh” (vitarādhika) là vì tham và tầm đang tăng trưởng rất mạnh ở những người này. Người nào có tham sinh khởi nhanh và mãnh liệt cho dù chỉ do một động lực nhỏ (pratyāsannam atyarthaṃ rāgacarita) sẽ bước vào Tu đạo bằng bất tịnh quán; người nào có tầm làm cho loạn tâm (vitarkacarita, tầm hành) sẽ tu bằng tức niệm. Có luận sư nói rằng tức niệm (ānāpānasmṛti) vì có cảnh sở duyên không đa dạng (avicitra) - tỷ dụ như chỉ duyên vào “hơi thở” (vāyu, phong) mà hơi thở thì không có những sự khác nhau về hình và hiển sắc cho nên có khả năng chặn đứng tiến trình của tầm (vitarka); trong khi bất tịnh quán, vì có cảnh sở duyên vừa là hình sắc vừa là hiển sắc, cho nên sẽ dẫn khởi tầm.

luận sư khác cho rằng tức niệm có khả năng chận đứng tầm vì tức niệm không hướng ra bên ngoài (abhirmukhatvāt, nội môn chuyển) khi chỉ duyên vào hơi thở. Bất tịnh quán thì hướng ra bên ngoài, giống như trường hợp của nhãn thức (cakṣurvijñānavat); nhưng nó không phải là nhãn thức mà chỉ là sự quán chiếu (upanidhyāna = nirūpaṇa) cảnh sở duyên của nhãn thức.

(Hỏi) Bất tịnh quán là gì?

Tụng đáp:

 

為通治四貪 且辯觀骨鎖
廣至海復略 名初習業位
除足至頭半 名為已熟修
繫心在眉間 名超作意位.

[Là đối trị tất cả bốn tham.

Nay nói về sự quán sát các đốt xương

Rộng ra đến hải biên

Sau đó lại giản lược,

Gọi là giai đoạn “mới tập tu”;

Trừ xương chân ra, quán sát cho đến một nửa xương đầu

Gọi là “tu đã thành thục”,

Chú tâm giữa “hai hàng” lông mày

Gọi là giai đoạn “đã thành tựu tác ý”.]

 

Luận: Tham (rāga) có bốn loại: (1) Hiển sắc tham, (2) hình sắc tham, (3) diệu xúc tham, (4) cung phụng tham. Để đối trị loại tham thứ nhất là bất tịnh quáncảnh sở duyên là thi thể đã chuyển qua màu xanh (vinīlaka) và hư thối (vipūyaka), v.v.. Để đối trị loại tham thứ hai là bất tịnh quáncảnh sở duyên là thi thể đã bị ăn (vikhāditaka) và xé nát (vikṣiptaka). Để đối trị loại tham thứ ba là bất tịnh quáncảnh sở duyên là thi thể đã bị côn trùng đục khoét (vipaḍumaka = utpannakrimika) và chỉ còn xương với gân. Để đối trị loại tham thứ tư là bất tịnh quánsở duyên là thi thể bất động.

Nhìn chung, bốn đối tượng của tham là hiển sắc, hình sắc, các thứ xúc chạm và cung phụng đều không thể tìm thấy trong một chuỗi các đốt xương (cốt tỏa) cho nên nếu quán sát bộ xương để tu bất tịnh quán thì có thể đối trị tất cả các loại tham.

Tu bất tịnh quán không nhằm đoạn trừ (prahāṇa) các phiền não (kleśa) mà chỉ là sự chế phục (viṣkambhaṇa) các phiền não bởi vì bất tịnh quán là một hành động chú tâm (tác ý) có sở duyên không phải là thực tại mà là một biểu tượng thuộc về ý chí; không duyên toàn thể các sự vật mà chỉ duyên một phần sắc pháp của dục giới.

Hành giả (yogācāra, Du-già sư) tu bất tịnh quán có thể chỉ là một người mới tập tu (ādikārmika, sơ tập nghiệp), một người dã thành thạo (kṛtaparijaya, dĩ thục tu) hoặc một người đã hoàn toàn làm chủ về tác ý (atikrāntamanaskāra, siêu tác ý).

Hành giả muốn tu bất tịnh quán trước tiên phải chú tâm vào một phần của thân mình (tự thân phần), vào ngón chân, vào trán hoặc vào một bộ phận tự chọn nào đó; sau đó, hành giả “làm cho thanh tịnh” phần xương, có nghĩa là tách phần thịt ra khỏi phần xương bằng cách tưởng tượng (giả tưởng tư duy) rằng phần thịt đã bị hư rã; hành giả nới rộng sự quán sát của mình cho đến khi chỉ cần quán sát phần xương mà hành giả cũng có thể thấy được toàn bộ thân thể để tăng trưởng khả năng quán sát (adhimukti, thắng giải) của mình, hành giả cũng tu tập theo cách này; có nghĩa là hành giả cũng khởi tưởng giống như thế đối với một người thứ hai, đối với một người thuộc một tự viện (vihāra), một khu vườn (ārāma), một ngôi làng, một nước, cho đến tận cùng ranh giới của vũ trụ, của biển cả, đều phải được nhận biết như đang chứa đầy những bộ xương và rồi hành giả lại thu nhỏ cái nhìn của mình lại để cho cái nhìn của mình trở nên mạnh mẽ hơn cho đến khi thấy được toàn bộ thân thể của mình chỉ còn là một bộ xương. Lúc đó sự tu tập bất tịnh quán được hoàn mãn; và kể từ đó, hành giả được gọi là “sơ tập nghiệp” (ādikārmika).

Để tăng thêm khả năng quán sát đã được thu nhỏ này, hành giả lại bỏ qua các đốt xương chân mà cứ lần lượt thu nhỏ cái nhìn của mình lại để xem xét các đốt xương khác cho đến khi chỉ còn xem xét đến nửa phần bộ xương đầu, tức đã chừa lại nửa phần còn lại; lúc đó hành giả được gọi là “dĩ thục tu” (kṛtaparijaya); tức đã có được sự thành thục trong loại tác ý tạo thành sự quán sát này.

Hành giả lại bỏ qua một nửa phần xương đầu nói trên và chỉ chú tâm vào giữa hai hàng lông mày. Lúc đó hành giả được gọi là người “đã thành tựu tác ý của bất tịnh quán” (siêu tác ý).

Bất tịnh quán có thể bị nhỏ hẹp vì sự nhỏ hẹp (parītta) của cảnh sở duyên (ālambana) chứ không phải vì khả năng thành thục (vaśitā) của hành giả. Vì thế có bốn trường hợp: (1) Hành giả thành thục về loại tác ý hình thành khả năng quán sát (jitamanaskāra; atikrānta manasikāra) và chỉ quán sát thân thể của chính mình (saṃkṣepacitta); (2) hành giả chưa thành thục về tác ý nhưng đã quán sát cả vũ trụ chất đầy các bộ xương (vistāracitta); (3) hành giả chưa thành thục về tác ýchỉ quán sát thân thể của chính mình; (4) hành giả đã thành thục tác ýquán sát toàn bộ vũ trụ chất đầy các bộ xương.

(Hỏi) Thể tánh của bất tịnh quán là gì? Bất tịnh quán thuộc về bao nhiêu địa? Cảnh sở duyên của nó là gì? Ai khởi loại quán này?

Tụng đáp:

 

無貪性十地 緣欲色人生
不淨自世緣 有漏通二得.

[Tánh vô tham, ở mười địa,

Duyên sắc pháp Dục giới,

Do người sinh khởi,

Hành tướng bất tịnh, duyên cảnh cùng thời,

Hữu lậu, đắc được do hai loại.]

 

Luận: Thể tánh của bất tịnh quánvô tham (alobha).

Mười địa trong đó hành giả có thể phát khởi sự quán sát này là bốn tầng thiền, bốn cận phần tĩnh lự (sāmantakas), trung gian tĩnh lự (dhyānāntara) và Dục giới.

Cảnh sở duyên là những cái được nhìn thấy (dṛśya) thuộc Dục giới. Ở đây chữ “sắc” được dùng để chỉ cho cả hiển sắchình sắc. Có nghĩa là bất tịnh quáncảnh sở duyên là “sự vật” (arthālambana, nghĩa) chứ không phải “tên gọi” (nāman, danh).

Chỉ có loài người sinh khởi loại quán này; chứ không phải chúng sinh ở các thú khác, cho dù đó là chúng sinh thuộc về các giới trên (thượng giới). Những người ở Bắc châu (Uttarakuru) cũng không khởi loại quán này.

Vì có tên là bất tịnh quán (aśubhā) nên loại quán này chỉ có loại hành tướng (ākāra) bất tịnh. [Nó không có các hành tướng khác như vô thường (anitya), v.v.: nó quán sát các cảnh sắc và xem đó là bất tịnh chứ không phải là vô thường, v.v..]

Nếu là quá khứ thì nó có cảnh sở duyên quá khứ; nếu là hiện tại thì có cảnh sở duyên hiện tại; nếu là vị lai thì có cảnh sở duyên vị lai: Nói cách khác, cảnh sở duyên của bất tịnh quán cùng thời với bất tịnh quán (yadadhvikā tadadhvikālambanā). Khi bất tịnh quán thuộc loại “không nhất định sẽ sinh khởi” (anutpattidharmikā) thì cảnh sở duyên thuộc về cả ba thời.

Bởi vì bất tịnh quán là loại tác ý về một cảnh được tưởng tượng (adhimuktimanasikāra, thắng giải tác ý) cho nên nó có tánh hữu lậu.

Bất tịnh quán có thể đã được tu tập hoặc chưa được tu tập trong một đời sống trước đó cho nên nó có thể được hoạch đắc nhờ vào sự xả ly (vairāgyalābhikī) hoặc sự luyện tập (prayoga).

Trên đây là tất cả các tính chất của bất tịnh quán; tiếp theo là phần nói về Trì tức niệm.

 

息念慧五地 緣風依欲身
二得實外無 有六謂數等

[Tức niệm là tuệ, thuộc năm địa,

Duyên vào gió, nương thân Dục giới,

Đắc được bằng hai cách, là tác ý chân thực, ngoại đạo không tu được,

Có sáu giai đoạn là đếm, v.v.]

 

Luận: Trì tức niệm là ānāpānasmṛti (a-na-a-ba-na niệm)

Āna có nghĩa là sự thở vào (śavāsa), tức là sự đi vào của gió; apāna có nghĩa là sự thở ra, tức là sự đi ra của gió. Sự ghi nhớ (smṛti) duyên theo sự thở ra hoặc vào được gọi là Trì tức niệm.

Trì tức niệmthể tánh là tuệ (prajñā), tức là cái biết về sự thở vào và sự thở ra. Loại tuệ này được gọi là niệm, cũng giống như trường hợp của các niệm trụ (smṛtyupasthānas), [tức là các ứng dụng của tuệ (tuệ trụ), nhưng lại có tên là “các ứng dụng của niệm” (niệm trụ)] bởi vì loại tuệ này, tức trì tức tuệ (ānāpānaprajñā), được dẫn khởi bởi lực của niệm (smṛtibalādhānavṛttitvāt).

Trì tức niệm được tu tập ở năm địa là ba cận phần tĩnh lự đầu tiên, trung gian tĩnh lựDục giới bởi vì chỉ tương ưng với xả (upekṣa), truyền thuyết nói rằng lạc thọkhổ thọ [của Dục giới] thì thuận hợp với tầm (vitarka) trong khi trì tức niệm lại tương vi với tầm cho nên không thể tương ưng với lạc và khổ. Ngoài ra hỷ thọlạc thọ [của các tầng thiền] thường gây chướng ngại (pratyanīka, paripanthin) cho sự chuyên chú của tâm đối với cảnh (avadhāna, ābhoga); trong khi trì tức niệm không thể tu tập được nếu không có sự chuyên chú này. 

Tuy nhiên theo các luận sư vốn tin tưởng rằng vẫn có xả thọ (upekṣendriya, xả căn) ở các tĩnh lự căn bổn (mūladhyānas) thì trì tức niệm có thể được tu tập ở tám địa, tức thêm vào ba tầng thiền đầu tiên: Ở các địa phía trên thì chúng sinh không còn cần đến hơi thở.

Cảnh sở duyên của trì tức niệm chính là gió và thân sở y (āśraya) của nó là Dục giới, có nghĩa là trì tức niệm được tu tập bởi con ngườichư thiên thuộc Dục giới bởi vì ở đó có rất nhiều tầm (vitarkabhūya stvāt). Trì tức niệm có thể được hoạch đắc bởi sự xả ly hoặc sự luyện tập. Nó là một loại tác ý chân thực (tatvamanasikāra), tức là một sự xem xét có đối tượng, là một sự vật có thực. Nó chỉ dành riêng cho Phật tử (idaṃdharman) chứ không phải cho ngoại đạo bởi vì ngoại đạo không có được sự giảng dạy về trì tức niệm đồng thời họ cũng không có khả năng tự mình tìm ra (avabodha) các pháp vi tế.

Trì tức niệm được tu tập hoàn mãn khi có đủ sáu loại hoạt động là đếm (sổ), nương theo (tùy), chăm chú (chỉ), quán sát (quán), chuyển dịch (chuyển) và làm thanh tịnh (tịnh).

Sổ (gaṇanā) là để tâm vào sự thở vào và ra mà không cần phải gắng sức (abhisaṃskāra), buông xả thân cũng như tâm, đồng thời chỉ dựa vào niệm để đếm từ một cho đến mười. Vì sợ tâm quá tập trung (abhisaṃskṣepa, cực tu) hoặc quá phân tán (vikṣepa) cho nên không được đếm dưới hoặc trên số mười. Có ba khuyết điểm cần tránh: (1) Đếm giảm, tức đã hai lần mà lại đếm là một; (2) đếm tăng, tức mới một lần mà đã đếm là hai; (3) đếm nhầm, tức hơi thở vào nhưng lại đếm là hơi thở ra. Nếu tránh được ba điều trên thì gọi là đếm đúng. Nếu trong khi tập (antarā) mà tâm bị phân tán (vikṣipta) thì phải đếm lại từ đầu cho đến khi được định.

Tùy (anugama) là theo dõi một cách bình thản tiến trình của hơi thở vào và ra cho đến nơi mà nó đã đi theo hai hướng: Hơi thở hít vào đang đi khắp toàn thân hay chỉ đến được một phần thân? Hành giả theo dõi hơi thở được hít vào họng, tim, lỗ rốn, ngang lưng (kaṭi), bắp vế, và tiếp tục như thế cho đến hai chân; hành giả lại thoe dõi hơi thở ra xa đến bàn tay, đến đầu ngón tay. Có luận sư cho rằng cần phải theo dõi hơi thở ra cho đến phong luân (vāyumaṇḍala) duy trì thế giớicho đến các loại gió Vairambhas (phệ-lam-bà) (Divya, 105).

Quan niệm này không thể chấp nhận được bởi vì trì niệm tức là loại tác ý chân thật chỉ xem xét các sự vật đúng như thực.

Chỉ (sthāna) là buộc niệm làm thế nào để nó có thể nằm ở chóp mũi, giữa hai hàng lông mày, hoặc ở một chỗ khác cho đến ngón chân, chú tâm vào một chỗ; quán sát hơi thở đình trụ ở trong thân giống như sợi chỉ của một chuỗi hạt trai (manisūtravat); xem xét hơi thở lạnh hay nóng, thông suốt hay trở tắc (Vibhāṣā, 26, 12).

Quán (upalakṣaṇā) là quán sát, phân tích: “Những hơi thở này không chỉ là gió (vāyu) mà còn là bốn đại chủng (mahābhūta), là sở tạo sắc; và tâm cùng với các tâm sở đều nương vào những hơi thở này”: Nhờ vậy, cuối cùng hành giả sẽ tìm thấy năm uẩn nhờ vào sự phân tích này (upalakṣayati).

Chuyển (vivartanā) là di chuyển loại tâm vốn duyên vào gió này (duyên tức phong giác) để hướng tâm này đến các pháp càng ngày càng trở nên thuần thiện hơn (smṛtyupasthānas, uṣmagata) cho đến khi có được các pháp cao cả nhất của thế gian (lokottaradharmas, thế đệ nhất pháp).

Tịnh (pariśuddhi) là nhập vào Kiến đạo (darśanamārga) và Tu đạo (bhāvanāmārga).

Theo các luận sư khác (Vibhāṣā, 26, 12) thì giai đoạn chuyển (vivartanā) chính là sự thăng tiến từ các niệm trụ cho đến Kim cương dụ định (Vajropamasamādhi). Giai đoạn tịnh (pariśuddhi) chính là Tận trí (kṣayajñāna), vô sinh trí (anutpādajñāna) và vô học chánh kiến (aśaikṣī samyagdṛṣṭi). 

Có bài tụng viết: “Người ta dạy rằng trì tức niệm có sáu hành tướng là sổ, tùy, chỉ, quán, chuyển và tịnh”.

(Hỏi) Làm sao biết được các hành tướng này?

Tụng đáp:

 

入出息隨身 依二差別轉
情數非執受 等流非下緣

[Hơi thở vào ra nương theo thân,

Chuyển theo hai hướng khác nhau,

Thuộc loài hữu tình, không được chấp thọ,

đẳng lưu, không phải sở duyên của hạ địa.]

 

Luận: Hai loại hơi thở là một phần (pradeśa) của thân cho nên cũng thuộc cùng một địa với thân.

Hơi thở không có ở chúng sinh Vô sắc giới, ở chúng sinh đang còn trong dạng phôi bào (yết-thích-lam), ở chúng sinh vô tưởng (acitta), ở chúng sinh đã nhập vào tầng thiền thứ tư: Vì thế hơi thở có được là do thân (thân không hiện hữuVô sắc giới), là do một loại thân nào đó (một thân có các khoảng trống, loại thân mà chúng sinh ở dạng phôi bào không có), là do tưởng (chúng sinh vô tưởng không có tưởng), là do một loại tưởng nào đó (ở tầng thiền thứ tư không có loại tưởng này). Khi thân có các khoảng trống (śuṣirakāya) và khi tâm thuộc về một địa mà ở đó có sự hít thở (āśvāsapraśvāsabhūmicitta) thì lúc đó mới có sự thở vàothở ra ().

Có sự thở vào khi sinh và khi rời khỏi tầng thiền thứ tư; có sự thở ra khi chết và khi nhập vào tầng thiền thứ tư.

Hơi thở thuộc về loài hữu tình (sattvākhya, hữu tình số) chứ không phải loài phi tình (asattvākhya, phi tình số) bởi vì nó không tạo thành một phần của các giác quan (phi hữu chấp thọ) (indriyapṛthavṛtti, indriyavinirbhāgin; căn tương ly).

Hơi thở thuộc loại đẳng lưu. Nó giảm thiểu khi thân thể tăng; vẫn tiếp tục sau khi đứt đoạn; vì thế nó không thuộc loại trưởng dưỡng (aupacayikī), không sinh từ dị thục (vipākaja). Thật vậy, một sắc pháp được sinh từ dị thục sẽ không thể tiếp tục được (punaḥpratisaṃdhāna) sau khi đã bị đứt đoạn (chinna).

Hơi thở cũng không được quán sát bởi một tâm thuộc hạ địa. Chỉ có loại tâm ở cùng địa với hơi thở hoặc một tâm ở một địa cao hơn mới có thể quán sát các hơi thở này; chứ không phải loại tâm uy nghi (airyāpathika) hoặc thông quả (naimāṇika) của một địa thấp hơn.

 

Phần 22

Trên đây đã nói về hai cửa dẫn vào đường tu. Sau khi đã đắc định nhờ vào hai cửa này, hành giả tiếp tục tu tập gì nữa?

Tụng đáp:

 

依已修成止 為觀修念住
以自相共相 觀身受心法
自性聞等慧 餘相雜所緣
說次第隨生 治倒故唯四.

[Nương vào chỉ đạo được tu thành

Để tu quán bằng các niệm trụ.

Dùng tự tướngcộng tướng

Quán thân, thọ, tâm, pháp.

Niệm trụ tự tánhvăn tuệ, v.v.;

Còn lại là niệm trụ tương tạp và niệm trụ sở duyên

Thứ tự của chúng là thứ tự chúng sinh khởi

Để đối trị điên đảo nên chỉ có bốn loại.]

 

Luận: Sau khi đã đắc định (samādhi, sa-ma-tha), hành giả sẽ tu các niệm trụ (smṛtyupasthānas) để đắc quán (vipaśyanā, tỳ-bát-xá-na). 

(Hỏi) Tu các niệm trụ như thế nào?

(Đáp) Tu bằng cách quán sát các tính chất riêng (svalakṣaṇa, tự tướng) và các tính chất chung (sāmānlakṣaṇa, cộng tướng) của thân, của thọ, của tâm và của các pháp.

Tự tướng chính là thể tánh riêng (svabhāva, tự tánh)

Công tướng tức là “tất cả các pháp hữu vi (saṃskṛta) đều vô thường; tất cả các pháp hữu lậu (sāsrava) đều khổ; tất cả các pháp đều trống không (śūnya) và vô ngã (anātmaka)”.

Tự tánh của thân là các đại chủngsắc pháp (rūpa) được tạo thành từ các đại chủng này (sở tạo sắc).

Khi nói “pháp” (dharmas) là để chỉ cho các pháp không phải thân, thọ hoặc tâm (Vibhāṣā, 187, 2).

Theo truyền thuyết thì thân niệm trụ (kāyasmṛtyupasthāna) được tu tập khi hành giả đắc định (samāhita) quán sát các cực vi và các sát-na kế tiếp nhau (kṣaṇa) ở trong thân.

(Hỏi) Thể của các niệm trụ là gì?

(Đáp) Có ba loại: Niệm trụ tự tánh (svabhāvasmṛtyupasthāna), niệm trụ tương tạp (saṃsargasmṛtyupasthāna) và niệm trụ sở duyên (ālambanasmṛtyupasthāna).

Niệm trụ tự tánh chính là tuệ (prajñā).

(Hỏi) Đó là loại tuệ gì?

(Đáp) Là loại tuệ xuất phát từ sự nghe (śrutamayī, văn sở thành), sự suy nghĩ (cintāmayī, tư sở thành) và sự định tâm (bhāvanāmayī, tu sở thành). Niệm trụ cũng có ba loại như vậy; tức niệm trụ do văn thành tựu, do tư thành tựu và do tu thành tựu.

Niệm trụ tương tác là các pháp khác, tức các pháp không phải là tuệ mà chỉ tương ưng với tuệ.

Khi các pháp này là cảnh sở duyên của tuệ và là các pháp cùng khởi với tuệ (nói cách khác, khi chúng là sở duyên của niệm trụ tự tánh và niệm trụ tương tạp) thì chúng là niệm trụ sở duyên.

(Hỏi) Làm sao biết được niệm trụ tự tánh chính là tuệ?

(Đáp) Bởi vì kinh (Madhyama, 20) nói: “Tuần tự quán sát thân ở nơi thân gọi là thân niệm trụ” (ư thân trụ tuần thân quán danh thân niệm trụ).

(Hỏi) tuần tự quán sát (anupaśyanā) là gì?

(Đáp) Đó là tuệ. Thật vậy, khi nói tuệ là hàm ý những ai có tuệ thì sẽ trở thành người có sự tuần tự quán sát (anupaśya, tuần quán). Từ ngữ “người tuần tự quán sát thân” (kāyānupaśyin, tuần thân quán) được giải thích như sau: Người nào thành tựu sự “tuần tự quán sát” hoặc sự “nhìn thấy” (darśana, kiến) thì gọi người “tuần quán”; người nào có sự tuần quán đối với thân thì được gọi là “tuần thân quán giả”.

(Hỏi) Tại sao gọi tuệ là niệm trụ?

(Đáp) Các luận sư Tỳ-bà-sa nói: “Là vì vai trò ưu việt (udrekatva, abhikatva) của niệm (smṛti), [tức khả năng hiển bày cảnh sở duyên cho tuệ]; cũng giống như sự góp sức của một cái nêm (kīla) trong việc xẻ gỗ; chính nhờ có lực của niệm mà tuệ có thể chuyển động đối với cảnh (tuệ đắc chuyển nghĩa).

Tuy nhiên giải thích sau là hợp lý nhất: Niệm được sử dụng (upatiṣṭhāte) bởi tuệ; vì thế tuệ chính là niệm trụ, có nghĩa là làm cho niệm được đứng vững (smṛter upasthānam, linh niệm trụ). Thật vậy, sự vật (artha) được tuệ nhìn thấy theo cách nào thì nó cũng sẽ được “biểu thị” (abhilapyate) theo cách đó, có nghĩa là sẽ được niệm nắm bắt theo cách đó. Vì thế Vô diệt (Āyuṣmān Aniruddha) nói: “Nếu ở nơi thân thường tuần tự quán sát thân (kāyekāyanupaśyī viharati) thì loại niệm có thân làm sở duyên này (duyên thân niệm) sẽ được an trụ” (Saṃyutta, v. 294). Thế tôn cũng nói: “Nếu trụ ở thân tuần tự quán sát thân thì niệm được an trụ (upaṣṭhita) và không bị suy yếu (asaṃmuṣta)” (Saṃyutta, v. 331).

(Vấn nạn) Nhưng kinh có nói: “Này các thầy, sự tập hợp (samudaya) và sự tán diệt của các niệm trụ xảy ra như thế nào? - Nhờ vào sự tập hợp của thức ăn, sự tập hợp của thân; do sự tán diệt của thức ăn, sự tán diệt của thân, nhờ sự tập hợp của xúc, sự tập hợp của thọ…; nhờ sự tập hợp của danh sắc (nāmarūpa)…; nhờ sự tập hợp của tác ý (manasikāra)….”(Saṃyukta, 20, 4). Như vậy, các niệm trụ chính là thân, v.v..

(Trả lời) trong kinh này, loại niệm trụ được nói đến không phải là niệm trụ tự tánh mà là niệm trụ sở duyên: Niệm được gắn chặt ở đó cho nên đó là niệm trụ. Tên gọi khác nhau là do cảnh sở duyên (kāyasmṛtyupasthānam = kāyaḥ smṛtyupasthānam).

Mỗi niệm trụ đều có ba loại tùy theo cảnh sở duyên được xem xét là chính mình, người khác hay cả chính mình và người khác. [Hành giả quán sát thân mình, thân người khác, v.v..]

Thứ tự của các niệm trụ là thứ tự chúng sinh khởi.

(Hỏi) Tại sao sự sinh khởi của chúng lại theo thứ tự này?

(Đáp) Theo Tỳ-bà-sa, bởi vì những gì thô hiển hơn thì được thấy trước. Hoặc vì thân (1) là sở y của dục tham (kāmarāga) có nguồn gốc ở sự ham muốn cảm thọ (2); sở dĩ có sự ham muốn này là vì tâm (3); không được điều hòa và tâm không được điều hòa là vì các phiền não (4) chưa đoạn được.

Theo thứ tự này, các niệm trụ được đề ra để đối trị bốn loại mê lầm (viparyāsa) là sự tin tưởng vào sự thanh tịnh, sự an lạc, sự thường hằng, và vào chính mình (tịnh, lạc, thường, ngã).

Vì thế chỉ có bốn loại niệm trụ, không nhiều hơn mà cũng không ít hơn.

Trong bốn niệm trụ này, ba loại có sở duyên không tạp loạn (asaṃbhinna, amiśrālambana); loại thứ tư gồm cả hai loại: Khi chỉ duyên các pháp thì sở duyên của nó không tạp loạn; khi duyên cùng lúc hai, ba, bốn pháp thì sở duyên của nó là tạp loạn.

(Hỏi) Sau khi đã tu các niệm trụ có sở duyên là thân, v.v., hành giả sẽ tu tiếp cái gì nữa?

Tụng đáp:

 

彼居法念住 總觀四所緣
修非常及苦 空非我行相.

[Hành giả trụ ở pháp niệm trụ, 

quán chung bốn sở duyên.

Tu các hành tướng vô thường, khổ, 

Không, vô ngã.]

 

Luận: Khi đang ở vào pháp niệm trụ (dharmasmṛtyupasthāna) có sở duyên tạp loạn gồm thân, thọ, v.v., thì hành giả quán sát các sở duyên này dưới bốn hành tướng vô thường, khổ, không và vô ngã.

(Hỏi) Sau khi đã tu loại quán này thì có thiện căn nào sinh khởi?

Tụng đáp:

 

從此生煖法 具觀四聖諦
修十六行相 次生頂亦然
如是二善根 皆初法後四
次忍唯法念 下中品同頂
上唯觀欲苦 一行一剎那
世第一亦然 皆慧五除得.

[Tu pháp quán này sẽ sinh khởi Noãn pháp,

Quán đủ bốn thánh đế,

Tu mười sáu hành tướng;

Kế đó sẽ sinh khởi Đảnh cũng như vậy.

Hai thiện căn trên đây

Lúc đầu đều nương pháp niệm trụ, và sau nương cả bốn loại.

Kế đến là nhẫn, chỉ nương pháp niệm trụ;

Hạ và trung phẩm giống như Đảnh,

Thượng phẩm chỉ quán dục khổ.

Một hành tướng một sát-na.

Thế đệ nhất pháp cũng vậy;

Đều là tuệ, năm uẩn, loại trừ đắc.]

 

Luận: Từ sự tu tập pháp niệm trụ nói trên, cuối cùng sẽ phát sinh (krameṇa) một thiện căn (kuśalamūla). Thiện căn này có tên là Noãn (uṣmagata) vì nó tương tợ như hơi nóng đạo (uṣmaprakāra), là hiện tượng đầu tiên (pūrvanimitta, pūrvasvabhāva) của thánh đạo (āryamārga), là ngọn lửa đốt cháy củi phiền não (hoặc tân).

Noãn thiện căn có thể kéo dài trong một thời gian (prakarṣakatvāt = prābandhikatvāt) nên có sở duyên là cả bốn thánh đế.

Noãn thiện căn có đến mười sáu hành tướng. Quán khổ đế có bốn hành tướng là khổ (duḥkha), vô thường (anitya), không (śūnya), vô ngã (anātmaka); quán tập đế có bốn hành tướng là tập (samudaya), sinh (prabhava), nhân (hetu), duyên (pratyaya); quán diệt đế có bốn hành tướng là diệt (nirodha), tĩnh (śānta), diệu (praṇīta), ly (niḥsaraṇa); quán đạo đế có bốn hành tướng là đạo (mārga), như (nyāya), hành (pratipatti), xuất (nairyāṇika). Sự khác nhau của cá hành tướng này sẽ được bàn đến sau.

Noãn pháp tăng trưởng dần từ yếu, đến khá, đến mạnh; và cuối cùng phát sinh thiện căn thứ hai là Đảnh (mūrdhan).

Giống như Noãn, Đảnh cũng duyên cả bốn thánh đế và có mười sáu hành tướng nhưng lại mang tên khác là vì tính chất thù thắng của nó.

Thiện căn này được gọi là “Đảnh” hay “đầu” bởi vì đó là thiện căn cao nhất hoặc đứng đầu trong các thiện căn “không cố định” (cala, động); có nghĩa là người ta có thể bị rơi xuống từ các thiện căn này; hoặc người ta có thể bị rơi xuống lần nữa từ các “đỉnh” này, hoặc người ta có thể vượt qua chúng bằng cách tiến vào nhẫn (kṣānti).

Chính nhờ có pháp niệm trụ mà hai thiện căn Noãn và Đảnh mới có thể “in dấu” (sơ an túc).

(Hỏi) “In dấu” có nghĩa là gì?

(Đáp) Đó là sự ngăn chặn đầu tiên các hành tướng khác nhau vào thánh đế.

Noãn và Đảnh tăng trưởng dần dần qua bốn niệm trụ. Về sau khi hành giả đã tăng tiến (vivardhayan) thì không làm hiện hữu (saṃmukhībhāva) các thiện căn đã đắc trước đó bởi vì hành giả đã ít coi trọng chúng (abahumānāt).

Đảnh thiện căn cũng tăng trưởng dần từ yếu, đến khá, đến mạnh; và cuối cùng lại phát sinh thiện căn thứ ba là nhẫn (kṣānti).

Nhẫn được gọi tên như vậy là vì ở giai đoạn này các thánh đế đã tạo ra một sự an lạc (kṣamate = rocate) rất mạnh mẽ. Ở giai đoạn của Noãn, các thánh đế chỉ tạo ra một sự an lạc yếu ớt; ở giai đoạn của Đảnh, các thánh đế tạo ra một sự an lạc vừa phải; và chúng ta còn thấy rõ điều này qua sự việc hành giả có thể bị thối đọa từ hai thiện căn đầu tiên nhưng không thể bị thối đọa từ nhẫn.

Nhẫn thiện căn cũng có ba loại: Yếu, trung bình và mạnh (hạ trung thượng).

Hai loại yếu và trung bình đều giống như Đảnh bởi vì chúng cũng là loại “in dấu đầu tiên” (sơ an túc) và đều nương vào pháp niệm trụ; nhưng lại khác với Đảnh về sự tăng trưởng.

Dù yếu, trung bình hay mạnh thì tất cả đều tăng trưởng nhờ vào pháp niệm trụ chứ không phải các niệm trụ khác.

Loại nhẫn mạnh chỉ lấy khổ của Dục giới làm sở duyên vì nối tiếp với Thế đệ nhất pháp (agradharmas). 

Sự hạn chế này không xảy ra đối với các giai đoạn trước đó (tức Noãn và Đảnh); vì thế cả hai thiện căn này đều có sở duyên là khổ, tập, v.v., của ba giới.

Kể từ sát-na hành giả ngưng quán sát hành tướng thứ mười sáu (nairyāṇika) vốn duyên hai giới ở trên (Sắc giớiVô sắc giới) và tiếp tục giảm dần các hành tướng và các giới này cho đến lúc chỉ còn in dấu hai hành tướng (anitya, duḥkha) trong hai sát-na của tâm (nhị niệm) đối với khổ đế của Dục giới thì đó là loại nhẫn trung bình (trung nhẫn vị).

Khi hành giả, trong một niệm duy nhất, chỉ còn quán sát một hành tướng của khổ để Dục giới thì đó là loại nhẫn mạnh (thượng phẩm nhẫn). Trên đây là các giải thích của các luận sư Tỳ-bà-sa. Loại thiện căn này thuộc loại sát-na diệt vì thế không tạo thành chuỗi tương tục.

Đối với Thế đệ nhất pháp cũng thế. Các pháp này, giống hệt như loại thượng phẩm nhẫn, chỉ duyên khổ đế Dục giới và cũng thuộc loại sát-na diệt (ekakṣaṇa). Chúng thuộc về hữu lậu nên được gọi là “thế gian”, là pháp thù thắng nhất trong các pháp thế gian nên được gọi là “Thế đệ nhất pháp”. Chúng là pháp tối thắng vì chỉ nương vào năng lực riêng của chúng (puruṣakāra, sĩ dụng) và mặc dù không có đồng loại nhân (sabhāgahetu) nhưng chúng vẫn lôi kéo được, phát khởi được con đường kiến đế (darśamārga, kiến đạo).

Bốn thiện căn trên đều có thể tánh là niệm trụ; vì thế chúng chính là tuệ. Tuy nhiên, nếu phân tích các thiện căn này cùng với các pháp đi kèm theo (trợ bạn) thì chúng vẫn có năm uẩn.

Các pháp đắc (prāptis) - tức là sự hoạch đắc các thiện căn Noãn, v.v.- không được bao hàm trong các thiện căn Noãn, v.v., này bởi vì đã là thánh giả thì không hiện khởi các thiện căn Noãn, v.v., một lần nữa (), và do đó thánh giả sẽ không có pháp đắc của các thiện căn này.

i. Khi Noãn bắt đầu sinh khởi và duyên ba thánh đế thì chỉ có một niệm trụ, tức pháp niệm trụ, ở hiện tại; ở vị lai thì có cả bốn niệm trụ [một trong các hành tướng được quán sáthiện tại; và bốn hành tướng được thành tựuvị lai]. Khi Noãn duyên diệt đế thì cũng chỉ có pháp niệm trụ nói trên ở hiện tại và đó cũng là niệm trụ duy nhất được thành tựuvị lai. Trong tất cả các trường hợp, các hành tướng đều là các hành tướng của loại thánh đế đang được quán sáthiện tại. [Người ta đang đắc được ở vị lai các hành tướng của các thánh đế không phải là hiện tại].

Trong thời kỳ tăng trưởng, khi Noãn duyên ba thánh đế thì đều có ở hiện tại bất kỳ loại niệm trụ nào; ở vị lai thì có cả bốn niệm trụ. Khi Noãn duyên diệt đế thì có niệm trụ thứ tư ở hiện tại; ở vị lai thì có cả bốn niệm trụ. Tất cả các hành tướng vị lai đều được thành tựu. Bởi vì các chủng tánh (gotras) đã được đắc trước đó.

ii. Về trường hợp của Đảnh, khi duyên bốn thánh đế ở giai đoạn đầu (ākaraṇa) và duyên diệt đế ở giai đoạn tăng trưởng thì có bốn loại niệm trụ cuối cùng (pháp niệm trụ) ở hiện tại; tu vị lai có cả bốn niệm trụ; tất cả các hành tướngvị lai đều có. Khi duyên ba đế còn lại ở thời kỳ tăng trưởng thì đều có ở hiện tại bất kỳ loại niệm trụ nào; ở vị lai có cả bốn niệm trụ; và tất cả các hành tướng.

iii. Về trường hợp của nhẫn, ở giai đoạn đầu cũng như giai đoạn tăng trưởngquán sát bất kỳ thánh đế nào thì cũng chỉ có niệm trụ cuối cùnghiện tại; ở vị lai có cả bốn niệm trụ; và tất cả các hành tướng.

iv. Về trường hợp của Thế đệ nhất pháp thì có niệm cuối cùnghiện tại; ở vị lai có cả bốn niệm trụ - các niệm trụ này thuộc loại không nhất định sinh khởi (anutpattidharman, bất sinh pháp); chỉ có bốn hành tướng, tức các hành tướng của khổ đế - bởi vì các hành tướng của các thánh đế khác không thuộc Thế đệ nhất pháp (anyābhāvāt), bởi vì Thế đệ nhất pháp tương tợ như Kiến đạo - trong Kiến đạo chỉ tu được ở vị lai bốn hành tướng của loại thánh đế được quán sát dưới cùng một hành tướng.

Trên đây đã nói về thể tướng của các thiện căn đã sinh; tiếp theo là phần bàn về các điểm khác nhau của chúng:

 

此順決擇分 四皆修所成
六地二或七 依欲界身九
三女男得二 第四女亦爾
聖由失地捨 異生由命終
初二亦退捨 依本必見諦
捨已得非先 二捨性非得.

[Bốn thuận quyết trạch phần này

Đều do tu thành tựu

Ở sáu địa; hai loại ở bảy địa; 

Nương thân Dục giới, chín xứ.

Ba loại đầu tiên được đắc ở hai thân nam nữ;

Loại thứ tư đối với nữ nhân cũng thế.

Thánh giả xả khi bỏ mất địa;

Dị sinh xả khi mạng chung.

Loại thứ nhất và thứ hai bị thối thất hoặc bị xả bỏ.

Nương căn bổn định tất thấy được các đế.

Xả rồi mà đắc lại không phải là cái cũ.

Tánh của hai loại xả đều là phi đắc.]

 

Luận: Bốn pháp Noãn, Đảnh, nhẫn và Thế đệ nhất pháp là các thiện căn có tên là thuận quyết trạch phần (nirvedhabhāgīya).

Noãn và Đảnh là loại không cố định (cala) và vì có thể bị thối thất cho nên chúng chỉ là loại thuận quyết trạch phần yếu ớt (mṛdu); nhẫn là loại trung bình; và Thế đệ nhất pháp là loại mạnh nhất.

(Hỏi) Quyết trạch phần là gì?

(Đáp) (1) Quyết trạch (nirvedha) có nghĩa là quyết đoạn giản trạch (niścita vedha), vì thế đó chính là thánh đạo. Nhờ có thánh đạo, nghi (vicikitsā) mới được đoạn trừ vì thế thánh đạo là “quyết đoạn” (niścita), và các đế mới được phân biệt (vibhājana, vedha): “Đây chính là khổ… đây chính là đạo”; (2) Kiến đạo (darśanamārga) là một phần (bhāga) của thánh đạo; vì thế Kiến đạo cũng là quyết trạch phần.

Quyết trạch phần [được dùng với tiếp vĩ ngữ chan (thuận)] là các pháp có ích (hita) cho một phần của thánh đạo bởi vì chúng dẫn dắt thánh đạo (āvāhaka).

Tất cả bốn quyết trạch phần này đều sinh từ định (bhāvanāmayam, tu sở thành) chứ không phải văn hoặc tư (śruta, cintāmaya).

Các địa của chúng là Vị chí định (anāgāmya), Trung gian định (dhyānāntara) và bốn tầng thiền: Chúng chỉ đắc được trong sáu giai đoạn này của thiền định. Chúng không hiện hữu ở các địa thuộc Vô sắc giới vì chúng là các pháp trợ bạn (quyến thuộc) của Kiến đạo. Kiến đạo không có ở Vô sắc giớiKiến đạo chỉ duyên Dục giới: Hành giả trước tiên phải biết rõ (parijñā, biến tri) và đoạn trừ Dục giới vốn được xem như khổ và tập.

Quả báo (vipāka, dị thục) của các quyết trạch phần bao gồm năm uẩn của sắc giới (Vibhāṣā, 60, 15). Chúng thuộc loại mãn nghiệp (paripūraka) chứ không phải dẫn nghiệp (ākṣepaka) bởi vì chúng chán ghét sự hiện hữu (bhavadveśitvāt).

Chữ “hoặc” nhằm chỉ cho một ý kiến khác. Theo tôn giả Diệu âm (Bhadanta Ghoṣaka), hai quyết trạch phần đầu tiên có ở cả bảy địa, tức cộng thêm Dục giới.

Tất cả bốn loại đều thuộc về chúng sinh Dục giới. Ba loại chỉ sinh khởi được ở loài người của ba châu (dvīpas). Một khi đã sinh khởi thì chúng có thể được làm cho hiện khởi (saṃmukhībhāva) bởi chư thiên. Loại thứ tư có thể được sinh khởi bởi chư thiên.

Ba loại (Noãn, Đảnh, Nhẫn), do nam và nữ đã đắc được, đều có thể tìm thấy ở thân nam hoặc thân nữ.

Khi do nữ đắc được thì Thế đệ nhất pháp (tức loại thứ tư) sẽ được tìm thấy trong một thân nữ (tức loại thân đang ở hiện tại) và trong một thân nam (tức thânphụ nữ này nhất định sẽ đắc được ở đời sống kế tiếp); khi do nam đắc được thì Thế đệ nhất pháp chỉ sẽ được tìm thấy trong một thân nam - bởi vì đối với Thế đệ nhất pháp thì sẽ có sự “hủy diệt” tính chất của nữ giới (nữ giới phi trạch diệt).

(Hỏi) Các quyết trạch phần được xả bỏ như thế nào?

(Đáp) Thánh giả sẽ xả bỏ các quyết trạch phần khi đánh mất một địa (bhūmityāga) mà ở đó thánh giả đã đắc được các quyết trạch phần này. Thánh giả không đánh mất các quyết trạch phần khi mạng chung hoặc khi thối thất. Một địa được đánh mất là vì phải chuyển sang một địa khác (bhūmisaṃcāra), [chứ không phải là do xả ly địa này, vairāgya].

Đối với dị sinh thì dù có chuyển sang hay không chuyển sang một địa khác cũng sẽ đánh mất các quyết trạch phần khi đoạn trừ chúng đồng phần (nikāyasabhāga).

Di sinh đánh mất hai loại quyết trạch phần đầu tiên vào lúc mạng chung và lúc bị thối đọa (parihāṇi). Thánh giả không bị thối đọa từ hai loại đầu; và dị sinh thì không bị thối đọa từ hai loại cuối.

Hành giả nào dã khởi được quyết trạch phần khi tu các tầng thiền căn bổn thì ngay trong đời sống này chắc chắn sẽ nhìn thấy được các đế (satyadarśana) bởi vì sự chán ghét sinh tử (udvega) rất mãnh liệt ở các hành giả này.

Khi các quyết trạch phần đã bị đánh mất (vihīna) và được đắc lại thì sẽ đắc được các quyết trạch phần mới (apūrva), cũng giống như trường hợp của luật nghi biệt giải thoát (prātimokṣasaṃvara); người ta không đắc các quyết trạch phần đã xả ly trước đó (pūrvatyakta). Bởi vì các quyết trạch phần đã không được tu tập thành thục (anucita) nên chúng không đắc được nhờ vào sự xả ly (vairāgya); và vì do gia hànhtu tập (yatnasādhya) nên một khi đã đánh mất thì không thể đắc chúng lại.

Nếu hành giả gặp được vị thầy đã đắc được nguyện trí (praṇidhijñāna) (phần vị thiện thuyết pháp sư) thì sẽ khởi các quyết trạch phần bắt đầu từ loại quyết trạch phần mà người này đánh mất sau khi đã đắc được. Nếu không gặp được thì phải khởi các quyết trạch phần kể từ loại đầu tiên (tòng bổn tu).

Chúng ta đã biết rằng thánh giả chỉ đánh mất (tyajati, thất) các quyết trạch, nhưng dị sinh thì đánh mất chúng vì bị thối đọa (parihāṇi). Như vậy người ta đã chia thành hai loại là chỉ đánh mất (vihāni, xả) và đánh mất do thối đọa (parihāṇi, thối).

(Hỏi) Cả hai sự đánh mất này bao gồm cái gì?

(Đáp) Chúng chính là phi đắc (aprāti, asamanvāgama, asamanvaga). Sự đánh mất do thối đọa (thối) xuất phát từ chính các phiền não (kleśa); nhưng sự đánh mất thuần túy (vihāni, xả) thì không phải như thế mà lại có thể xuất phát từ một điều tốt (guṇa), chẳng hạn như sự đánh mất dị sinh tánh vào lúc khởi được thánh đạo, v.v..

(Hỏi) Đắc được các thiện căn này có lợi gì?

Tụng đáp:

 

煖必至涅槃 頂終不斷善
忍不墮惡趣 第一入離生.

[Noãn tất đến được Niết-bàn;

Đảnh rốt ráo không đoạn thiện căn;

Nhẫn không đọa ác thú;

Thế đệ nhất pháp nhập được “ly sinh”]

 

Luận: Bất kỳ ai đắc được Noãn, ngay cả khi đánh mất vì thối đọa, thì nhất định sẽ đến được Niết-bàn (nirvāṇadharman).

(Hỏi) Nếu vậy, sự khác nhau giữa Noãn và thuận giải thoát phần (mokṣabhāgīya) trong trường hợp này là gì? Bởi vì bất kỳ ai trồng được loại thiện căn “dẫn đến Niết-bàn” (nirvāṇabhāgīya) cũng sẽ đắc được Niết-bàn.

(Đáp) Nếu khôngchướng ngại thì Noãn gần với kiến đế hơn.

Người nào đã đắc được Đảnh thì cho dù có đánh mất dù thối đọa cũng không chặt đứt các thiện căn; nhưng họ có thể đi đến các thú ác và phạm phải các tội vô gián (ānantarya).

Người nào chỉ đánh mất (xả) nhẫn thì không đi đến các thú ác bởi vì người này đã xa rời các hành động và các phiền não dẫn đến các thú này.

Đối với người đã đắc nhẫn thì một số các thú, chỗ sinh ra, sự tái sinh (xứ), thân hình, các hữu và các hoặc nào đó sẽ ở vào tình trạng không phải sinh khởi (anutpatti-dharmatā, bất sinh pháp): Khi nói “các thú” (gati) là chỉ cho các thú ác (apāya); chỗ “sinh ra” (yoni) là noãn sinh, thấp sinh; sự tái sinh (upapatti) là sự sinh làm chúng sinh Vô tưởng, Bắc-câu-lô châu, Đại phạm; thân hình (āśraya) là hai loại vô tính và lưỡng tính; hữu (bhava) là lần tái sinh thứ tám, thứ chín, v.v.; các hoặc là phiền não được đoạn trừ bởi kiến đế. (Vibhāṣā, 32, 9)

Sự đoạn trừ này có liên quan đến các mức độ của nhẫn: Với loại nhẫn yếu ớt (hạ nhẫn) thì các ác thú ở vào tình trạng không sinh khởi;… với loại nhẫn mạnh (thượng nhẫn) thì tất cả các ác pháp kể trên đều ở vào tình trạng không sinh khởi.

Các quyết trạch phần được chia làm ba loại vì sự khác nhau của các chủng tánh (gotras). Hành giả có thể thuộc chủng tánh Thanh văn (Śrāvakas) Độc giác Phật hoặc Phật; và Noãn, Đảnh, v.v., sẽ thuộc về chủng tánh của hành giả tu tập các pháp này.

(Hỏi) Các thiện căn này có thể chuyển hướng đến các chủng tánh khác (dư thừa) không?

Tụng đáp:

 

轉聲聞種性 二成佛三餘
麟角佛無轉 一坐成覺故.

[Chủng tánh Thanh văn chuyển

Thành Phật bằng hai thiện căn, thành Phật khác bằng ba thiện căn.

Độc giác và Phật không chuyển

Và chỉ một lần ngồi là đã giác ngộ.]

 

Luận: Một người thuộc chủng tánh Thanh văn có thể rút ra (vivart) Noãn và Đảnh từ chủng tánh này mà trở thành Phật (vô thượng chánh đẳng). Tuy nhiên khi đã đắc nhẫn thì lại không thể làm như vậy (Vibhāṣā, 68, 6) bởi vì các ác thú sắp tới đều bị tiêu diệt bởi sự đắc được nhẫn này. Các vị Bồ-tát vì muốn làm lợi lạc cho người khác nên mới đi vào các ác thú. Trên đây là giải thích của Tỳ-bà-sa. Chúng tôi sẽ nói rằng một người thuộc chủng tánh Thanh văn, một khi đã đắc nhẫn thì không thể thành Phật; bởi vì chủng tánh Thanh văn một khi đã được thâm nhập và xác lập (paribhāvita) bởi nhẫn thì không còn có thể bị chuyển đổi (avivartya).

Chữ “khác” (itara, dư) ở trên là để chỉ cho Độc giác Phật. Một người thuộc chủng tánh Thanh văn có thể rút ra ba quyết trạch phần đầu tiên (Noãn, Đảnh, nhẫn) từ chủng tánh này mà trở thành Độc giác Phật.

Và các quyết trạch phần thuộc chủng tánh của Phật và Độc giác Phật thì chúng không thể được rút ra (avivartya, vô di chuyển).

Đạo sư, tức chỉ cho đức Phật. Lân giác, tức tương tợ như con lân, là Độc giác Phật. Cả hai chủng tánh này đều nương vào tầng thiền thứ tư bởi vì tầng thiền này là một loại định không còn bị khuấy động (āniñjya, bất khuynh động) và rất mãnh lợi (paṭu). Chỉ trong một lần ngồi xuống mà không đứng dậy là các vị Phật này đã từ các quyết trạch phần đi đến sự sinh khởi của giác ngộ (bodhi).

Ở phần sau sẽ thấy được sự giác ngộ này chính là Tận trí (kṣayajñāna) và vô sinh trí (anutpādajñāna).

luận sư (Vibhāṣā, 68, 7) cho rằng “một lần ngồi” này (nhất tọa) khởi đầu cùng với bất tịnh quán (aśubhā).

Đối với các luận sư Đối pháp (Ābhidharmikas) vốn thừa nhận sự hiện hữu của các Độc giác Phật có khác biệt với Lân giác, thì việc các Độc giác Phật chuyển đổi chủng tánh của mình không có gì sai trái.

(Hỏi) Sự chuẩn bị (prayoga, gia hành) các quyết trạch phần và sự dẫn khởi các quyết trạch phần có thể xảy ra trong cùng một đời này không? 

(Đáp) Không thể. 

 

前順解脫分 速三生解脫
聞思成三業 殖在人三洲.

[Trước đó là thuận giải thoát phần.

Qua ba đời mới giải thoát

ba nghiệp do văn, tư tạo thành,

Được trồng ở ba châu của loài người.]

 

Luận: trước tiên phải khởi giải thoát phần. Sự gieo hạt, sự tăng trưởng của cây và sự cho quả là ba giai đoạn khác nhau. Trong đạo cũng giống như vậy, thân tương tục nhập đạo, trở nên thuần thụcđược giải thoát theo một tiến trình tiệm tiến: Trong đời sống thứ nhất là gieo trồng các thiện căn có tên giải thoát phần; trong đời sống thứ hai là sinh khởi các quyết trạch phần; và đời sống thứ ba là sinh khởi thánh đạo.

Theo truyền thuyết (Vibhāṣā, 7, 15) giải thoát phần được thành tựu từ văn và tư chứ không phải định (tu).

(Hỏi) Có bao nhiêu loại nghiệp có thể làm giải thoát phần?

(Đáp) Có ba loại. Chính yếu (prādhānyena) là ý nghiệp. Nhưng thân nghiệpngữ nghiệp cũng là giải thoát phần khi chúng được bao hàm (parigrahaṇāt) bởi quyết tâm (praṇidhāna) được giải thoát; quyết tâm này chính là một loại tư (cetanā): Khi có nguyện lực giải thoát hỗ trợ cho một thân nghiệp như bố thí, cho một ngữ nghiệp như trì giới, thì người ta đã phát khởi (ākṣipati) được một giải thoát phần.

Chỉ có con người ở ba châu (dvīpas) mới có thể phát khởi hoặc trồng được các giải thoát phần. Thật vậy, tất cả các sự yểm ly (nirveda) hoặc trí tuệ (prajñāna), hoặc cả yếm lytrí tuệ đều xem như không có ở chư thiên, ở chúng sinh bị đọa và con người ở Bắc châu.

Chúng ta đã nhân tiện bàn về các giải thoát phần; nhưng chủ yếu là chúng ta đã giải thích thứ tự quán sát các đế (satyābhisamaya) và đã theo sát thứ tự này cho đến Thế đệ nhất pháp. Đến đây cần phải trình bày các điểm còn lại.

 

世第一無間 即緣欲界苦
生無漏法忍 忍次生法智
次緣餘界苦 生類忍類智
緣集滅道諦 各生四亦然
如是十六心 名聖諦現觀
此總有三種 謂見緣事別.

[Thế đệ nhất pháp trực tiếp 

Sinh khởi pháp nhẫn vô lậu

Duyên khổ đế Dục giới,

Sau đó pháp nhẫn sinh khởi pháp trí;

Kế tiếp sinh khởi loại nhẫn, loại trí,

Duyên khổ đế các giới khác;

Khi duyên các đế tập, diệt, đạo,

Mỗi đế cũng có bốn pháp như vậy.

Mười sáu tâm như thế

Gọi là thánh đế hiện quán;

Hiện quán có ba loại khác nhau

Là kiến, duyên và sự.]

 

Luận: từ Thế đệ nhất pháp xuất phát một loại nhẫn vô lậupháp nhẫn (dharmakṣānti). Nói thật chính xác thì đó là một pháp trí nhẫn (dharmajñānakṣānti) đi liền ngay sau Thế đệ nhất pháp

(Hỏi) Cảnh sở duyên của pháp trí nhẫn là gì?

(Đáp) Là khổ của Dục giới (kāmadhātvacacara duḥkha); vì thế có tên là khổ pháp trí nhẫn (duḥkhe dharmajñānakṣānti).

Để chứng tỏ loại nhẫn này là vô lậu (anāsrava) người ta đã dựa vào kết quả hay đẳng lưu (niṣyanda) của nó vốn là một loại pháp trí. Vì thế nhóm từ “pháp trí nhẫn” có nghĩa là một loại nhẫn (kṣānti) sinh ra một pháp trí, có quả là một pháp trí (dharmajñānārtham). Cũng giống như một cây có hoa, có trái thì được gọi là cây hoa (puṣpavṛkṣa, hoa thọ), cây trái (phalavṛkṣa, quả thọ).

Loại nhẫn này chính là sự nhập vào “sự quyết định” (niyāma), bởi vì đó là sự bước vào sự nhất định đắc được (niyama) cái thiện tuyệt đối hay chánh tánh (samyaktva). Vậy thì chánh tánh là gì? Kinh nói rằng chánh tánh chính là Niết-bàn. Sự quyết định tuyệt đối (niyama) đối với chánh tánh là cái mà người ta gọi là niyāma và còn gọi là niyama.

Bước vào (avakramana) sự quyết định đắc được chánh tánh tối hậu này có nghĩa là đạt đến (abhigamana), là hoạch đắc được quyết định này. Một khi sự hoạch đắc (prāpti) sinh khởi thì hành giả trở thành thánh giả (āryapudgala).

Ở giai đoạn vị lai (anāgata), tức ở trạng thái sẽ sinh, loại nhẫn này sẽ làm ngưng lại (vyāvartana) tính chất dị sinh, bởi vì đã thừa nhận rằng ở vị lai chỉ loại nhẫn này mới có được tác dụng này, một tác dụng không thuộc về bất cứ một pháp nào khác; cũng giống như ngọn đènvị lai sẽ hủy diệt bóng tối, cũng giống như sinh tướng sẽ là một pháp vị lai sinh khởi.

Các luận sư khác (= chủ trương thứ nhất của Tỳ-bà-sa) cho rằng chính Thế đệ nhất pháp xả bỏ dị sinh tánh. Có người sẽ nói rằng chủ trương này không đúng bởi vì Thế đệ nhất pháp là pháp của dị sinh (taddharmatvāt). Tuy nhiên bác bỏ này không có giá trị bởi vì Thế đệ nhất pháp tương vi (virodhitva) với dị sinh tánh: Trường hợp này cũng giống như một người leo lên vai kẻ thù để giết chết kẻ thù này.

luận sư khác (Vibhāṣā) lại cho rằng dị sinh tánh được xả bỏ là do Thế đệ nhất pháp thế chỗ cho Vô gián đạo (ānantaryamārga) hoặc do nhẫn thế chỗ cho Giải thoát đạo (vimuktimārga). Trong trường hợp đầu, dị sinh tánh được đoạn trừ dần dần (prahīyate); trong trường hợp sau dị sinh tánh được đoạn trừ ngay tức khắc (prahīna).

Ngay sau khổ pháp trí nhẫn sẽ sinh khởi một pháp trísở duyênkhổ đế của Dục giới và có tên là khổ pháp trí (duḥkhe dharmajñāna). 

Tính chất “vô lậu” của loại nhẫn thứ nhất cũng là tính chất của tất cả các loại theo sau; vì thế loại trí đang được bàn đến cũng có tánh vô lậu.

Giống như một pháp trí nhẫn và một pháp trí khi sinh khởi đều duyên khổ đế của Dục giới, và một nhẫn và một trí tiếp theo đó cũng sẽ duyên phần còn lại của khổ đế.

Ngay sau khổ pháp trí sẽ sinh khởi một loại trí nhẫn (), có sở duyên chung (samastālambanā, tổng duyên) là khổ đế của Sắc giớiVô sắc giới. Loại nhẫn này có tên là Khổ loại trí nhẫn (duḥkhe ‘nvayajñānakṣānti). Từ loại nhẫn này lại sinh ra một loại trí có tên là Khổ loại trí (duḥkhe ‘nvayajñāna).

Pháp trí là sự chứng tri các pháp và sở dĩ có tên như vậy là vì pháp trí là sự chứng tri đầu tiên về thể tánh của các pháp như khổ, v.v., mà hành giả đắc được kể từ vô thỉ. Sở dĩ loại trí, tức sự chứng tri kế tiếp, có tên như vậy là vì nó có một pháp trí làm nhân (tadanvaya = taddhetuka), vì nó cũng chứng tri thánh đế theo cách giống như pháp trí (tathaivānugamāt).

Giống như trường hợp bốn pháp (tức hai nhẫn và hai trí) khi được sinh khởi đều duyên Khổ đế, thì một Pháp trí nhẫn khi được sinh khởi ngay sau Khổ loại trí nói trên sẽ duyên Tập đế của Dục giới (tập pháp trí nhẫn); và từ loại nhẫn này lại sinh khởi Tập pháp trí; và trong chuỗi liên tục sinh khởi nối tiếp nhau như vậy sẽ sinh khởi một loại trí nhẫn có sở duyên là phần còn lại của tập đế (tập loại trí nhẫn); và tiếp theotập loại trí.

Kế tiếp sẽ sinh khởi một pháp trí nhẫn có sở duyêndiệt đế của Dục giới (nirodhedharmajñānakṣānti, diệt pháp trí nhẫn) và tiếp theodiệt pháp trí. Kế tiếp sẽ sinh khởi một loại trí nhẫn có sở duyên là phần còn lại của diệt đế (diệt loại trí nhẫn); và tiếp theodiệt loại trí.

Kế tiếp sẽ sinh khởi một pháp trí nhẫn có sở duyên là loại đạo đế (mārga) tương vi với khổ đế của Dục giới (dục đạo); và tiếp theođạo pháp trí (Mārge dharmajñāna). Kế tiếp sẽ sinh khởi một loại trí nhẫn duyên phần còn lại của đạo đế; và tiếp theođạo loại trí.

Như vậy, theo thứ tự tiệm tiến trên đây, sự quán sát các thánh đế (satyābhisamaya, thánh đế hiện quán) có tất cả mười sáu tâm.

bộ phái cho rằng sự quán sát thánh đế chỉ xảy ra trong cùng một lúc (duy đốn hiện quán); tuy nhiên cần phải nghiên cứu thêm chủ trương này. Ở trên khi nói “hiện quán” [có mười sáu tâm] là vì không nêu ra các điểm sai biệt (abhedena). Nếu phân tích chi tiết thì hiện quán có đến ba loại là kiến hiện quán, duyên hiện quán và sự hiện quán.

Kiến hiện quán (darśanābhisamaya) là sự quán sát các đế nhờ vào tuệ vô lậu.

Duyên hiện quán (ālambanābhisamaya) là sự quán sát các đế nhờ vào tuệ vô lậu nói trên và các pháp tương ưng (saṃprayukta) với tuệ này.

Sự hiện quán (kāryābhisamaya) là quán sát các đế nhờ vào tuệ vô lậu nói trên, nhờ các pháp tương ưng với tuệ này, và cũng nhờ các pháp không tương ưng (viprayukta) cùng hiện hữu như giới luật, sinh tướng, v.v..

Khi hành giả thấy được khổ đế thì điều có đủ ba loại quán này đối với khổ đế; nhưng đối với các đế còn lại thì chỉ có loại hiện quán thứ ba (sự hiện quán) bởi vì tập đã đoạn, diệt đã hiện tiền (sākṣātkṛta) và đạo đã được tu tập (đoạn chứng tu).

Nếu đối với các đế mà dựa vào loại kiến hiện quán để cho rằng chỉ có một loại “đốn hiện quán” thì không đúng; bởi vì hành tướng của các đế rất khác nhau: Người ta không thể nhìn thấy tập đế, v.v., dưới các hành tướng của khổ đế. Nếu cho rằng có thể nhìn thấy tất cả các đế dưới một hành tướng chung là vô ngã (anātmākāreṇa) thì sẽ không thể thấy được cá đế dưới các hành tướng khổ, v.v.; và như vậy sẽ trái với khế kinh. Kinh (Saṃyukta, 15, 18) nói: “Chư thánh đệ tử khi quán xét (manasikaroti, tác ý) khổ đế là khổ, tập đế là tập, diệt đế là diệt, đạo đế là đạo thì lúc đó đối với họ sẽ có được sự phân biệt các pháp (trạch pháp) tương ưng với những sự quán sát vô lậu này…”. [Nếu cho rằng đoạn kinh trên chỉ nhằm chỉ cho giai đoạn chuẩn bị (prayogāvasthā) có trước giai đoạn hiện quán thì cũng không đúng bởi vì ở giai đoạn này chưa có sự quán xét vô lậu]. Nếu cho rằng đoạn kinh trên chỉ nhằm chỉ cho giai đoạn Tu đạo (bhāvanāmārga), tức là giai đoạn tu tập các đế đã được nhìn thấy, thì cũng không đúng bởi vì các đế đều được tu tập theo cách giống như đã được nhìn thấy (như kiến tu). 

Nếu cho rằng chỉ có “đốn hiện quán” bởi vì hành giả khi nhìn thấy được một đế tức có được sự thành thục (vaśitvalābhāt, đắc tự tại) đối với các đế khác - có nghĩa là nhờ thấy được khổ đế nên hành giả đắc được khả năng làm hiện khởi sự nhìn thấy các đế khác mà không cần phải có sự chuẩn bị lần nữa (antareṇa prayogam) - thì chúng tôi cũng đồng ý. Tuy nhiên cần phải xét xem ở trung gian có khởi hay không khởi sự xuất quán.

Nếu cho rằng vẫn có sự thuần nhất của hiện quán bởi vì một khi khổ đế đã được tri nhận (parijñāte) tức tập đế sẽ được đoạn trừ, diệt đế sẽ được chứng hiện và đạo đế được tu tập thì chúng tôi cũng đồng ý; bởi vì chúng tôi đã nói rằng khi một đế được “nhìn thấy” tức sẽ có loại Sự hiện quán (kāryābhisamaya) - hay sự quán sát được xem như là quả đối với ba đế còn lại.

(Vấn nạn) Nếu đồng ý với chủ trương trên tức trái với khế kinh đã dạy rằng chỉ có “tiệm hiện quán”. Chính vì để chỉ cho kiến hiện quán mà kinh dạy rằng chỉ có tiệm hiện quán đối với các đế: “Này người chủ của gia đình (trưởng giả), hiện quán không phải là đốn mà là tiệm (anupūrva)…. V.v..” Cả ba kinh đều có các tỷ dụ kèm theo.

(Trả lời) Kinh cũng có nói rằng “người nào không có sự mê mờ hoặc sự nghi ngờ đối với khổ đế thì cũng sẽ không có sự mê mờ hoặc sự nghi ngờ đối với Phật”. Vì thế hiện quán không phải là tiệm mà chính là đốn.

(Giải thích) Nói như vậy cũng không đúng bởi vì kinh chỉ muốn nói rằng (mật ý thuyết) khi đã hiểu được khổ đế thì sự mê mờ hoặc sự nghi ngờ đối với Phật sẽ không còn hiện hành (asamudācāra) và nhất định sẽ được đoạn trừ (avaśyaṃprahāṇa).

(Hỏi) Trên đây có nói đến mười sáu tâm; vậy mười sáu tâm này nương vào các địa nào?

Tụng đáp:

 

皆與世第一 同依於一地.

[Điều cùng Thế đệ nhất pháp

Nương vào một địa.]

 

Luận: Mười sáu tâm này có cùng địa với Thế đệ nhất pháp. Ở trên đã nói có tất cả sáu địa.

(Hỏi) Tại sao nhất định phải có các nhẫn và trí?

Tụng đáp:

 

忍智如次第 無間解脫道.

[Nhẫn và trí, theo thứ tự này,

Vô gián đạoGiải thoát đạo.]

 

Luận: Không thể ngăn cản (antarayitum aśkyatvāt) nhẫn trong việc đoạn trừ (viccheda) sự hoạch đắc (prāpti) các phiền não; vì thế nhẫn chính là con đường không thể ngăn cản được (ānantaryamārga, Vô gián đạo).

Ở những người đã thoát khỏi sự hoạch đắc nói trên đối với phiền não (giải thoát hoặc đắc) thì trí sinh khởi cùng thời với sự đắc được việc xa lìa các phiền não (visaṃyoga); vì thế trí chính là con đường giải thoát (vimuktimārga, Giải thoát đạo).

Như vậy, nhẫn và trí cũng giống như hai hành động: Đuổi ăn trộm đi và đóng cửa lại.

Nếu sự đắc được việc xa lìa phiền não chỉ xảy ra cùng với loại nhẫn hoặc Vô gián đạo thứ hai (duḥkhe ‘nvayajñānakṣānti, khổ loại trí nhẫn), thì trí vốn đã đoạn nghi (vicikitsā) sẽ không thể sinh khởi để duyên các cảnh của Vô gián đạo thứ nhất, tức khổ đế của Dục giới.

(Hỏi) Nếu phiền não được đoạn trừ là nhờ có nhẫn thì điều này có trái với Bổn luận khi Bổn luận nói rằng “có chín nhóm kết sử” (saṃyojananikāya) không?

(Đáp) Không trái với Bổn luận, vì nhẫn là các pháp hỗ trợ (parivāra, quyến thuộc) cho trí; Bổn luận đã thêm vào cho trí các tác dụng của nhẫn cũng giống như trường hợp có những việc do chính tay các cận thần của nhà vua làm ra nhưng lại nói là nhà vua làm.

(Hỏi) Mười sáu tâm trên đều thấy được thánh đế; như vậy có phải tất cả các tâm này đều là Kiến đạo (darśanamārga)?

Tụng đáp:

 

前十五見道 見未曾見故.

[Mười lăm tâm trước là Kiến đạo

Vì thấy được điều chưa từng thấy.]

 

Luận: Mười lăm sát-na, từ khổ pháp trí nhẫn cho đến đạo loại trí nhẫn, tạo thành Kiến đạo; bởi vì sự nhìn thấy những gì chưa từng được nhìn thấy đã xảy ra liên tục.

Vào sát-na thứ mười sáu thì không còn gì để nhìn thấy đối với những điều trước đây chưa nhìn thấy. Sát-na này tu tập thánh đế giống như đã được nhìn thấy vì thế đã trở thành một phần của Tu đạo (bhāvanāmārga).

(Hỏi) Chẳng phải chính sát-na thứ mười sáu nhìn thấy sát-na thứ mười lăm, tức Đạo loại trí nhẫn, vốn chưa được nhìn thấy trước đó sao?

(Đáp) Đúng như vậy. Tuy nhiên điều muốn nói ở đây chính là có biết được đạo đế đã được nhìn thấy hay chưa, chứ không phải là sát-na (của thánh đế này) đã được nhìn thấy hay chưa. Sự kiện một sát-na chưa được nhìn thấy không có nghĩa là thánh đế này chưa được nhìn thấy, cũng giống như trường hợp không thể vì còn một bông lúa chưa được cắt mà nói rằng cánh đồng không được thu hoạch.

Hơn nữa, sát-na thứ mười sáu (đạo loại trí) là một phần của Tu đạo bởi vì (a) nó tạo thành một quả (śrāmaṇyaphala); (b) nó có sự tu tập (bhāvanā), tức sự hoạch đắc tám trí và mười sáu hành tướng (bhāvitāṣṭajñānaṣoḍaśākāratvāt), [trái ngược với Kiến đạo]; (c) nó xả bỏ (vihāni) một loại thánh đạo (pratipannaka); (Đáp) vì nó thuộc về một chuỗi tương tục (prābandhika).

(Vấn nạn) Sát-na thứ mười sáu phải được xem như một phần của Kiến đạo bởi vì chắc chắn nó không có sự thối đọa (āvaśyakāparihāṇitva). Và sự không thối đọa của nó (aparihāṇis, tu) là do khả năng giúp gìn giữ (saṃdhāraṇa, nhậm trì) sự đoạn trừ các phiền não được đoạn trừ bởi Kiến đạo.

(Giải thích) Nếu vì lý do trên mà cho rằng sát-na thứ mười sáu thuộc về Kiến đạo thì điều này sẽ dẫn kết quả phi lý như sau: Sát-na thứ mười bảy và các sát-na kế tiếp, và còn cả sự nhìn thấy các thánh đế ở ngày thứ hai và các ngày kế tiếp, cũng sẽ là Kiến đạo bởi vì chúng cũng giúp gìn giữ sự đoạn trừ các phiền não được đoạn trừ bởi Kiến đạo.

(Hỏi) Cả tám trí đều nhìn thấy những gì nhẫn đã nhìn thấy trước đó, nhưng tại sao chỉ bảy trí đầu tiên là thuộc về Kiến đạo?

(Đáp) Bởi vì sự nhìn thấy các đế chưa hoàn mãn (samāpta, chu biến); phải đến sát-na thứ mười lăm thì sự nhìn thấy này mới hoàn mãn. Bảy trí đầu tiên thuộc về Kiến đạo bởi vì khi sự nhìn thấy các đế chưa được hoàn mãn thì chúng chỉ khởi ở trung gian (tadantarāla), có nghĩa là ở trong tiến trình của Kiến đạo hoặc ở giữa hai nhẫn.

Trên đây đã nói về sự sinh khởi của Kiến đạoTu đạo. Tiếp theo sẽ nói về những người (pudgala, bổ-đặc-già-la) có các thánh đạo sinh khởi.

Trong tiến trình của mười lăm sát-na vốn có thể tánhKiến đạo, có các hàng thánh giả khác nhau: 

 

名隨信法行 由根鈍利別
具修惑斷一 至五向初果
斷次三向二 離八地向三.

[Gọi là tùy tín hànhtùy pháp hành

Vì có căn độn và lợi khác nhau

Vẫn còn phiền não thuộc tu đoạn, đoạn một phẩm

Đến năm phẩm thì gọi là hướng sơ quả;

Kế đến đoạn ba phẩm gọi là hướng đệ nhị quả;

Xả ly tám địa gọi là hướng đệ tam quả.]

 

Luận: Khi đang ở vào các sát-na này, hành giả có các căn chậm chạp (mṛdu, độn) được gọi là tùy tín hành (śraddhānusārin); hành giả có các căn lanh lợi (tīkṣṇa) được gọi là tùy pháp hành (dharmānusārin). Ở đây khi nói “căn” là để chỉ cho các căn tín, định, v.v..

Tùy tín hành có nghĩa là sự đi theo nhờ có tín (śraddhāya anusāraḥ = śraddhānusāraḥ); người có sự theo đuổi này, hoặc người có thói quen làm điều này nhờ có tín được gọi là tùy tín hành giả (śraddhānusārin), bởi vì trước đó (pūrvam) người này đã theo đuổi thánh đế (arthānusevana) [có nghĩa là đã có sự hiểu biết các đế] nhờ vào sự thúc dục của người khác, nhờ sự tin tưởng vào người khác (parapratyayena).

Tùy pháp hành cũng có ý nghĩa tương tợ như vậy, tức là sự theo đuổi nhờ có các pháp (dharmair anusāraḥ = dharmānusāraḥ). Chính nhờ dựa vào các pháp, tức nhờ vào khế kinh nói về mười hay chi, mà bản thân hành giả đã theo đuổi được thánh đế trước đó.

Hai hàng thánh giả này nếu chưa đoạn được các phiền não thuộc về tu đoạn thì sẽ là người đang hướng đến quả đầu tiên. Quả đầu tiên tức là quả của thánh giả Dự lưu (Srotaāpanna) bởi vì Dự lưu chính là quả thứ nhất trong thứ tự đắc quả.

Những người thuộc hạng tùy tín hànhtùy pháp hành nếu trước đó chưa đoạn được một nhóm các phiền não (nhất phẩm) thuộc tu đoạn nhờ vào thế đạo mà vẫn còn bị trói buộc bởi tất cả các loại hệ phược (sakalabandhana) thì họ được gọi là “người hướng đến quả Dự lưu” (sơ quả hướng) kể từ khi bước vào kiến đạo.

Nếu nương vào thế đạo mà họ vẫn chưa đoạn được nhóm phiền não thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư hoặc thứ năm thuộc tu đoạn của Dục giới thì họ cũng được gọi là “người hướng đến sơ quả” một khi đã bước vào kiến đạo.

Nếu trước đó họ đã đoạn nhóm phiền não thứ sáu, thứ bảy hoặc thứ tám (bhūyovītarāga) thì gọi là “người hướng đến quả thứ hai” (đệ nhị quả hướng), tức là quả của thánh giả Nhất lai (Sakṛdāgāmin). 

Trong trường hợp (1) họ đã tách rời Dục giới nhờ đoạn được nhóm phiền não thứ chín thuộc tu đoạn của Dục giới (kāmavītarāga), (2) hoặc đã tách rời các giới cao hơn cho tới Vô sở hữu xứ (ākiñcanyāyatana) thì gọi là “người hướng đến quả thứ ba” (đệ tam quả hướng), tức là quả của thánh giả Bất hoàn (Anāgāmin).

 

至第十六心 隨三向住果
名信解見至 亦由鈍利別.

[Đến tâm thứ mười sáu,

Trong ba quả, hướng đến quả nào thì trụ ở quả đó;

Được gọi là tín giải, kiến chí

Cũng do căn độn lợi khác nhau.]

 

Luận: Vào sát-na thứ mười sáu, hai hàng thánh giả này không còn mang tên tùy tín hànhtùy pháp hành nữa; họ không còn được gọi là “hướng đến” mà đã là “người ở trong một quả” (phalastha, trụ quả), tức những người hướng đến quả Dự lưu, Nhất lai, bất hoàn trước đó nay đã trở thành những người cư trú trong quả Dự lưu, Nhất lai, bất lai, bất hoàn.

Đối với phẩm tánh của A-la-hán (arhattva) thì không thể đắc được một cách trực tiếp (āditas) - có nghĩa là không thể đắc quả A-la-hán nếu trước đó chưa đắc quả bất hoàn - bởi vì các phiền não nếu đã thuộc về loại được đoạn trừ bởi Tu đạo thì không thể được đoạn trừ bởi kiến đạo (Vibhāṣā, 51, 10) và vì không thể xả ly Hữu đảnh () nhờ vào thế đạo.

Vào sát-na này hàng thánh giả độn căn vốn có tên là tùy tín hành nay được gọi là Tín giải (Śraddhāchimukta), và hàng thánh giả lợi căn vốn có tên là tùy pháp hành nay được gọi là Kiến chí (Dṛṣṭiprāpta). Khi tín (śraddhā) thống ngự (hành giả độn căn) thì hành giả được “thông tri” (prabhāvita) nhờ vào sự hy vọng này (adhimokṣa, thắng giải) nên có tên là tín giải. Khi tuệ (prajñā) thống ngự (hành giả lợi căn) thì hành giả được “thông tri” nhờ vào sự nhìn thấy này (dṛṣṭi, kiến) nên có tên là Kiến chí.

(Hỏi) Vào sát-na thứ mười sáu, tại sao hành giả đã đoạn các nhóm phiền não đầu tiên (từ một cho đến năm nhóm) thuộc tu đoạn của Dục giới chỉ trở thành “người trụ quả Dự lưu” mà không phải là “người hướng đến quả Nhất lai”? Vấn đề trên đây cũng được đặt ra đối với các thánh giả đã đoạn các nhóm thứ sáu, thứ bảy và thứ tám nhưng vào sát-na thứ mười sáu thì chỉ trở thành những người trụ ở quả Nhất lai chứ không phải là người hướng đến quả bất hoàn; và cũng được đặt ra đối với các thánh giả đã đoạn trừ các nhóm phiền não cao hơn nhưng vào sát-na thứ mười sáu cũng chỉ trở thành người trụ ở quả bất hoàn chứ không phải là người hướng đến quả A-la-hán.

Tụng đáp:

 

諸得果位中 未得勝果道
故未起勝道 名住果非向.

[Ở các giai đoạn đắc quả

Đều không đắc được đạo cao hơn quả này;

Vì chưa khởi đạo cao hơn

Nên gọi là “trụ quả” chứ không phải “hướng (hậu)”.]

 

Luận: Lúc đắc được một quả thì không thể đắc được một thánh đạo cao hơn quả này (phalaviśiṣto mārgaḥ = phalād viśiṭo mārgaḥ, thắng quả đạo): Như khi đắc quả Dự lưu thì thánh giả chưa đắc được thánh đạo của Nhất lai. Vì thế đối với người đang trụ ở một quả thì chừng nào người này còn chưa gắng sức (prayujyate) tiến bộ cao hơn (viśeṣāya) đễ đắc được một quả mới - có nghĩa là chừng nào người này chưa tu tập loại gia hành (prayuga) dẫn đến sự đoạn trừ các phiền não chưa được đoạn trừ đồng thời cũng là nhân cho việc đắc được một quả mới - thì người này vẫn chưa phải là “người hướng đến” một quả mới.

Tuy nhiên nếu hành giả đã xả tầng thiền thứ ba [nhờ vào thế đạo] để nhập vào chánh tánh quyết định (niyāma) hoặc kiến đạo bằng cách nương vào một địa thấp hơn tầng thiền này [có nghĩa là nương vào vị chí tĩnh lự (anāgamya), tầng thiền thứ nhất và thứ hai, trung gian tĩnh lự] thì chắc chắn người này sẽ chứng được một thánh đạo cao hơn quả (phalaviśiṣṭaṃ mārgam). Nếu không phải như vậy thì trong trường hợp tái sinh ở một địa cao hơn (tầng thiền thứ tư hoặc vô sắc) thánh giả sẽ không thể đắc được lạc căn (sukhendriya). (Vibhāṣā, 90. 6; Jñānaprasthāna, 6, 5)

Trên đây đã giải thích các trường hợp nhập vào kiến đạo, có khi đó là trường hợp bội ly dục - tức xả ly nhóm phiền não thứ sáu, thứ bảy và thứ tám của Dục giới -, có khi đó là trường hợp toàn ly dục (kāmavītarāga) - tức xả ly nhóm phiền não thứ chín; tiếp theo sẽ nói về sự tu tập dần dần của hành giả. Đối với vấn đề này, cần phải thành lập các điểm sau đây:

 

地地失德九 下中上各三

[Mỗi địa đều có chín khuyết điểm và công đức;

Ba nhóm hạ, trung, thượng đều có ba loại.]

 

Luận: Mỗi địa, từ địa thấp nhất cho đến Hữu đảnh, đều có chín nhóm khuyết điểm và chín nhóm công đức. Chín nhóm công đức (guṇa) là chín loại thánh đạo có khả năng đối trị các khuyết điểm trên; đó là các Vô gián đạoGiải thoát đạo.

Có ba nhóm căn bổn là yếu (hạ), trung bình (trung) và mạnh (thượng). Mỗi nhóm căn bổn lại chia thành yếu, trung bình và mạnh. Như vậy có tất cả chín nhóm: Hạ hạ, hạ trung, hạ thượng, trung hạ, trung trung, trung thượng, thượng hạ, thượng trung, thượng thượng.

Loại thánh đạo hạ hạ có khả năng đoạn trừ loại phiền não thượng thượng; và cứ như thế cho đến: Loại thánh đạo thượng thượng lại có khả năng đoạn trừ loại phiền não hạ hạ. Bởi vì loại thánh đạo thượng thượng không thể sinh khởi ngay từ đầu; và vì không thể có loại phiền não thượng thượng vào lúc đang có loại thánh đạo thượng thượng. Cũng giống như khi giặt một tấm vải: Các vết bẩn dễ thấy được giặt trước và sau đó mới đến các vết li ti; cũng giống như những chỗ tối tăm rộng rãi thì chỉ cần một ánh sáng nhỏ cũng đủ thấy, nhưng những chỗ ngõ ngách tối tăm thì phải cần đến nhiều ánh sáng hơn. Đó là các tỷ dụ có thể dẫn trưng.

Một thánh đạo yếu liệt trong một sát-na vẫn có khả năng tận trừ các phiền não đã tăng trưởng do có sự tiếp nối giữa các nhân của chúng trong sự triển chuyển từ vô thủy - thánh đạo này chặt đứt sự đắc được (prāptis) các phiền não vốn tương tợ với các căn này - bởi vì các pháp “trắng” có lực mạnh nhưng các pháp “đen” thì yếu ớt. Cũng giống như các tỳ vết của gió, của đảm trấp, v.v., tích tụ lâu ngày được tẩy trừ bởi một hạt thuốc bột của rễ cây trivṛt (trivṛtkardṣa); cũng giống như một vùng rộng lớn tối tăm bị làm tan vỡ () chỉ trong thoáng chốc bởi một luồng ánh sáng nhỏ bé.

 

未斷修斷失 住果極七返.

[Chưa đoạn các khuyết điểm thuộc tu đoạn

Thì hành giả trụ quả tái sinh tối đa bảy lần.]

 

Luận: Thánh giả trụ quả nhưng chưa đoạn được một nhóm các phiền não thuộc tu đoạn (bhāvanāheya) thì đó là hàng Dự lưu (Srotaāpanna). Thánh giả này vì có thể tái sinh đến bảy lần nhưng không thể nhiều hơn nên nói là “tối đa bảy lần” (cực thất phản). Vì không nhất thiết phải tái sinh đến bảy lần nên mới nói là “tối đa”. Kinh nói “sinh bảy lần là tối đa” (saptakṛtvaḥ paramaḥ, cực thất phản sinh). Ở đây chữ “cực” (paramaḥ) có nghĩa là “tối đa” (prakarṣeṇa).

Trong từ Dự lưu thì lưu có nghĩa là dòng sông (srotas), là dòng sông Niết-bàn, là đạo, bởi vì người ta đi được (gamyate) là nhờ có dòng sông. Hành giả khi đã bước vào đó, khi đã đến được đó, thì gọi là “nhập vào dòng sông” (srota-āpanna, dự lưu).

(Vấn nạn) Làm thế nào để nhập vào đó? Có phải là nhờ đắc được thánh đạo đầu tiên (sơ đắc đạo)? Nếu như vậy thì trong hai trường hợp Bội ly dục và Toàn ly dục khi đắc được quả đầu tiên mà họ đã đắc được thì họ cũng phải là Dự lưu; tuy nhiên các ông đã nói rõ ràng họ chính là Nhất laibất hoàn.

(Giải thích) Hành giả nhập vào dòng sông nhờ đắc được quả thứ nhất; nhưng đó không phải là loại quả mà một thánh giả nào đó lần đầu tiên có thể đắc được; mà là loại quả người ta đắc được trước tiên trong tiến trình chứng đắc cả bốn thánh quả.

(Vấn nạn) Tại sao thánh giả thứ tám đã nhập vào dòng sông của thánh đạo nhưng lại không phải là Dự lưu?

(Giải thích) bởi vì chỉ ở sát-na thứ mười sáu (mārge ‘nvayajñāna, đạo loại trí) thì mới đắc được (1) thánh đạo hướng đến quả gồm mười lăm sát-na (hướng đạo) và quả đạo, (2) đắc được kiến đạoTu đạo; bởi vì vào lúc đó hành giả mới quán sát (abhisamaya, hiện quán) được “dòng sông”, tức toàn bộ thánh đạo, trong đó bao hàm cả sát-na thứ mười sáu.

Tỳ-bà-sa nói rằng khi rời khỏi đời sống hiện tại thì thánh giả Dự lưu sinh trở lại giữa loài người, gồm bảy lần sinh hữu (upapattibhava), bảy lần trung hữu (antarābhava); thánh giả này khi tái sinh vào cõi thiên cũng với số lần như thế. Như vậy sẽ tái sinh cho đến hai mươi tám lần. Tuy nhiên chúng ta đã biết rằng mỗi chuỗi tái sinh chỉ có bảy lần nên hành giả được gọi là “tái sinh tối đa bảy lần”; cũng giống như một Bí-sô được gọi là “thất xứ thiện” (saptasthānakuśala) thì thông thạo được bảy việc; cũng giống như một cây được gọi là “có bảy lá” (saptaparṇa) bởi vì mỗi cành đều mọc bảy lá.

(Vấn nạn) Kinh nói: “Tuyệt đối không có trường hợp một vị thánh (pudgala) đã thành tựu được sự nhìn thấy (dṛṣṭisaṃpanna, kiến viên mãn) mà lại có lần sinh thứ tám”. Như vậy đoạn kinh này đã trái ngược với chủ trương của Tỳ-bà-sa?

(Giải thích) Không phải như vậy, bởi vì đoạn kinh trên phải được hiểu như thế này: “Thánh giả không có lần sinh thứ tám trong cùng một thú (ekasyaṃgatau)”. Hoặc nếu muốn hiểu theo nghĩa đen (yathārutaṃ vā kalpyamāne) của kinh là “sau khi chuyển tiếp, sau khi đã trải qua bảy lần ở cõi trời cũng như cõi người, thánh giả sẽ chứng được sự chấm dứt của khổ”, thì lẽ ra phải kết luận rằng những lần tái sinh của chư thiên và của con người sẽ không có trung hữu (antarābhava) trước đó bởi vì kinh chỉ nói đến trời và người.

(Vấn nạn) Nếu có nghĩa là “thánh giả không có lần sinh thứ tám trong cùng một thú” thì làm sao có thể nói rằng thánh giả Thượng lưu (Ūrdhvasrotas) thuộc loại Cực Hữu đảnh (bhavāgraparama) tái sinh tám lần trong cùng một thú?

(Giải thích) Tỳ-bà-sa trả lời rằng bản kinh không thừa nhận lần sinh thứ tám là chỉ nhằm để chỉ cho lần sinh thứ tám ở Dục giới.

Tuy nhiên bản kinh nào và lập luận nào có thể chứng minh rằng bản kinh trên chỉ nhằm chỉ cho Dục giới? Và điều gì chứng minh rằng thánh giả tái sinh bảy lần ở cõi trời, bảy lần ở cõi người mà không phải là chỉ có bảy lần được tính chung cho cả hai cõi? Bởi vì kinh chỉ nói: “Sau khi tái sinh bảy lần ở cõi trời và cõi người”.

Ẩm quang bộ kinh (Kāśyapiyas) nói: Sau khi tái sinh bảy lần ở cõi trời, bảy lần ở cõi người (saptakṛtvo devān saptakṛtvo manuṣyān)”. Vì thế không có lý do gì để cố chấp vấn đề trên (nātrābhiniveṣṭvyam).

Thánh giả nào đắc quả Dự lưucõi người sẽ trở lại cõi này để đắc Niết-bàn; thánh giả đắc quả Dự lưucõi trời sẽ trở lại cõi trời để đắc Niết-bàn.

(Hỏi) Tại sao hàng Dự lưu không tái sinh lần thứ tám?

(Đáp) Bởi vì trong khoảng thời gian này với bảy lần sinh thì chuỗi tương tục nhất định sẽ thành thục (saṃtatiparipāka). Thể tánh của thánh đạo là như thế; cũng giống như tính chất của nọc độc của loài “rắn bảy bước” (saptapadāśīrviṣa) là người bị cắn sẽ phải chết sau khi bước đi được bảy bước; cũng giống như tính chất của bệnh “sốt bốn ngày” (caturthakajvara) là bệnh sẽ trở lại trong suốt bốn ngày.

Thánh giả không đắc Niết-bàn trong khoảng thời gian ít hơn thời gian này bởi vì vẫn còn bảy kết (saṃyojanas): Hai kết thuộc loại hạ phần (avarabhāgīya) là dục tham (kāmacchanda) và dục sân khuể (vyāpāda); và năm kết thuộc loại thượng phần (ūrdhvabhāgīya) là hai ái (rāgas) của Sắc giớiVô sắc giới, trạo (auddhatya), mạn (māna), và vô minh (moha). Bởi vì thánh giả, mặc dù chứng được thánh đạo (của Nhất laiBất hoàn), vẫn không thể đắc Niết-bàn ở khoảng thời gian này (trung gian) vì cần phải trả xong lực của các nghiệp trong bảy kiếp này. Nếu không có Phật vào thời điểm thánh giả đắc Niết-bàn (buddhānutpāda) thì thánh giả sẽ đắc quả A-la-hán ở nhà; nhưng sau khi đắc được thì không ở lại nhà nữa: Nhờ lực của pháp tánh (dharmatā), tức là nhờ lực của thánh đạo A-la-hán và thánh đạo vô học, mà thánh giả có đủ hình tướng của một Bí-sô (bhikṣulinga); có luận sư cho rằng đó là hình tướng của Bí-sô ngoại đạo.

(Hỏi) Tại sao thánh giả Dự lưu được gọi là “không thể rơi vào một ác thú” (avinipātadharman, vô thối đọa pháp)?

(Đáp) Bởi vì thánh giả không tích tập các nghiệp có khả năng làm cho thánh giả phải thối đọa (thối đọa nghiệp); bởi vì, đối với loại nghiệp làm thối đọa mà thánh giả đã tích tụ xưa kia, thì ngày nay khi thánh giả đã huân tập các thiện căn cường thạnh nhờ có sự thanh tịnh của đạo hạnh, nhờ có sự thanh tịnh của ý lạc đối với Tam bảo thì thánh giả không còn bị tác động bởi sự chín mùi của loại nghiệp này nữa.

Một người nếu đã tích tập loại nghiệp nhất định phải chín ở các ác thú thì sẽ không thể nào sinh khởi được nhẫn (kṣānti) huống hồ là đạo vô lậu (anāsrava mārga). Vì thế có bài tụng viết: “Người ngu dù chỉ phạm một tội nhỏ cũng bị đọa; người trí dù phạm một tội lớn cũng thoát khỏi ác thú; một khối sắt dù nhỏ cũng bị chùm; một cái thùng sắt dù lớn cũng có thể nổi”.

(Hỏi) Kinh nói: “Dự lưu….. làm ra ‘ranh giới cuối cùng của khổ’” (duḥkhasyāntaṃ karoti, tác khổ biên tế). Vậy, “khổ biên tế” là gì?

(Đáp) Là cái khổ mà ở bên kia của cái khổ này thì không còn khổ nữa; tức hàm ý thánh giả làm cho cái khổ không còn sinh trở lại được nữa (apratisaṃdhikaṃ duḥkhaṃ karoti). Hoặc khổ biên tế chính là Niết-bàn.

(Hỏi) Nếu vậy làm sao có thể nói “làm ra” Niết-bàn?

(Đáp) Vì trừ bỏ được các chướng ngại của Niết-bàn (tatprātivibandhāpanayanāt): [Những chướng ngại này chính là sự hoạch đắc phiền não (kleśaprāpti). Cũng giống như khi nói: “Hãy tạo thành khoảng trống! Hãy phá sập ngôi nhà!” (ākāśaṃ kuru maṇḍapaṃ pātaya).

Ngoài hàng Dự lưu ra vẫn có trường hợp tái sinh tối đa bảy lần: Tức trường hợp của dị sinh có tâm đã thành thục (paripakvasamtāna). Tuy nhiên điều này không nhất định: Hàng dị sinh này có thể đắc được Niết-bàn ngay từ đời này hoặc có thể ở trung hữu, v.v.; vì thế không được nói đến.

 

 

Phần 23

 

Đã nói về trường hợp thánh giả trụ ở quả (phalastha) nhưng chưa đoạn trừ các hoặc thuộc Tu đạo nên có tên là Dự lưu và có nhiều nhất là bảy lần sinh (saptakṛtvaḥparama). Tiếp theo là phần nói về thánh giả ở vào giai đoạn đoạn trừ các hoặc để lập thành Nhất lai hướngNhất lai quả.

 

斷欲三四品 三二生家家
斷至五二向 斷六一來果.

[Đoạn ba hoặc bốn phẩm thuộc Dục giới,

Có hai hoặc ba lần sinh được gọi là Gia gia.

Đoạn đến phẩm thứ năm gọi là hướng và quả thứ hai;

Đoạn được phẩm thứ sáu tức thành Nhất lai quả.]

 

Luận: Hàng Dự lưu trở thành Gia gia (kulaṃkula) khi (1) đoạn được phiền não, tức nhờ đoạn trừ ba hoặc bốn nhóm phiền não của Dục giới; (2) thành tựu căn, tức nhờ đắc được các căn vô lậu (anāsrava) có khả năng đối trị các hoặc; (3) thọ sinh, tức chỉ còn hai hoặc ba lần sinh. Tụng văn chỉ nói đến hai duyên đầu và cuối bởi vì nếu nói rằng sau khi đắc quả Dự lưu mà đoạn trừ được các hoặc tức cũng có nghĩa đồng thời thành tựu các căn vô lậu có khả năng đối trị các loại hoặc này vì thế không cần phải nói đến duyên còn lại. Tuy nhiên về số lần sinh phải nói rõ là hai hoặc ba bởi vì sau khi đắc quả Dự lưu, thánh giả có thể có các tính chất của hàng Nhất lai, bất hoàn hoặc A-la-hán và số lần sinh có thể thay đổi, hoặc nhiều hơn hoặc ít hơn.

(Hỏi) Tại sao hàng Dự lưu đoạn nhóm phiền não thứ năm không được gọi là Gia gia?

(Đáp) bởi vì khi đã đoạn nhóm thứ năm thì nhóm thứ sáu cũng đoạn được và lúc đó thánh giả đã trở thành Nhất lai. Chỉ một nhóm các phiền não thì không thể cản trở việc đắc quả, cũng giống như trường hợp của nhất gián (ekavīcika): Khi đắc được một quả mới thì chưa thể chuyển sang một giới khác (dhātu).

Nên biết rằng Gia gia có hai loại: (1) thiên Gia gia (devakulaṃkula) là các thánh giả sau khi đã chuyển sinh vào hai hoặc ba nhà ở cõi thiên sẽ chứng được Niết-bàn ở ngay cõi trời đó hoặc ở cõi trời khác; (2) nhân Gia gia (manuṣyakulaṃkula) là các thánh giả sau khi đã chuyển sinh vào hai hoặc ba nhà ở cõi người sẽ chứng được Niết-bàn ở châu này (dvīpa) hoặc ở một châu khác.

Các thánh giả thuộc hàng Dự lưu này nếu đoạn được từ một đến năm nhóm phiền não thì được gọi là “hướng đến quả thứ hai” (Nhất lai quả hướng); nếu đoạn được nhóm phiền não thứ sáu tức thành tựu quả Nhất lai. Thánh giả thuộc hạng Nhất lai sau khi lên cõi trời chỉ còn sinh trở lại một lầncõi người mà chứng Niết-bàn, tức từ đây trở về sau không còn sinh trở lại cho nên gọi là Nhất lai. Kinh (Saṃyukta, 29, 1) nói rằng thánh giả trở thành Nhất lai “nhờ trừ được tham (rāga), sân (dveṣa) và si (moha)” bởi vì chỉ còn lại ba nhóm thuộc hạ phẩm của các phiền não này (mṛdvadhimātra, mṛdumadhya mṛdumṛdu).

Trên đây đã nói về sự khác biệt giữa Nhất lai hướngNhất lai quả. Tiếp theo là phần lập thành bất hoàn hướngbất hoàn quả.

 

斷七或八品 一生名一間
此即第三向 斷九不還果

[Đoạn bảy hoặc tám phẩm,

Chỉ có một lần sinh được gọi là nhất gián,

Còn gọi là hướng đến quả thứ ba.

Đoạn được phẩm thứ chín

Tức thành bất hoàn quả.]

 

Luận: Hạng Nhất lai trở thành nhất gián vì (1) đoạn trừ bảy hoặc tám nhóm phiền não; (2) thành tựu các căn vô lậu có khả năng đối trị các phiền não này; (3) vì chỉ còn một lần tái sinh.

(Hỏi) Tại sao chỉ còn một nhóm phiền não, tức nhóm thứ chín, mà lại có thể chướng ngại việc chứng đắc bất hoàn quả?

(Đáp) Bởi vì muốn đắc được quả này thì phải chuyển sang một giới khác (Sắc giới). Trước đây có nói tam thời nghiệp là loại chướng ngại mạnh nhất (bởi vì chúng cản trở sự đắc nhẫn, phẩm tánh bất hoàn và phẩm tánh A-la-hán). Ở đây phiền não cũng giống như nghiệp. Cả hai đều ngăn cản sự vượt qua các địa thuộc quả dị thục - tức chỉ cho nghiệp - và quả đẳng lưu - tức chỉ cho phiền não.

“Gián” (vīci) có nghĩa là gián đoạn, cách trở. Thánh giả Nhất lai bị gián đoạn (vyavahita) với Niết-bàn bởi một lần sinh và bị gián đoạn với quả bất hoàn bởi một nhóm phiền não cho nên gọi là nhất gián. Sau khi đoạn trừ được bảy hoặc tám nhóm, hàng thánh giả được gọi là “hướng đến quả thứ ba” (bất hoàn quả hướng).

Các thánh giả trước đó nhờ nương vào kiến đế mà đoạn được ba, bốn, bảy hoặc tám nhóm phiền não (của Dục giới) và sau đó đắc được quả Dự lưu hoặc Nhất lai nhưng vẫn không được gọi là Gia gia hoặc nhất gián nếu chưa tu tập loại thánh đạo cao hơn quả (thắng quả đạo) và chưa thành tựu các căn vô lậu có khả năng đối trị các loại phiền não này.

Nếu đoạn được nhóm phiền não thứ chín (hạ hạ phẩm) của Dục giới tức trở thành bất hoàn vì sẽ không còn tái sinh vào Dục giới. Các phiền não thuộc nhóm thứ chín được gọi là năm kết sử thuộc hạ phần (avaraghāgīya). Tuy trước đó có đoạn hai hoặc ba kết sử nhưng phải đến giai đoạn này mới có thể đoạn trừ tất cả.

Khế kinh đều nói đến các trường hợp khác nhau của thánh giả hạng bất hoàn vì thế ở đây xin trình bày thêm về các tính chất khác nhau này.

 

此中生有行 無行般涅槃
上流若雜修 能往色究竟
超半超遍歿 餘能往有頂
行無色有四 住此般涅槃.

[Trong đó có trung, sinh, hữu hành,

Vô hành bát Niết-bàn,

thượng lưu. Nếu thượng lưu tạp tu tĩnh lự,

Có thể lên đến Sắc cứu cánh thiên;

Trường hợp này có ba loại: Toàn siêu, Bán siêu và Biến một.

Những trường hợp còn lại chỉ lên đến Hữu đảnh.

Thánh giả bất hoàn thuộc hành sắc giới có bốn loại.

Thánh giả bất hoàn chứng đắc Niết-bàn ngay tại cõi này.]

 

Luận: Trung bát Niết-bàn (antarāparinivṛti) có nghĩa là chứng đắc Niết-bàn ở trung gian, tức ở giai đoạn của trung hữu. Các tên gọi khác cũng được giải thích như vậy: [Sinh bát Niết-bàn là] sau khi sinh (utpanasya); [Hữu hành bát Niết-bàn là] nhờ có gia hành; [Vô hành bát Niết-bàn là] không nhờ gia hànhchứng đắc Niết-bàn. 

Có năm loại bất hoàn: Trung bát Niết-bàn (Antarāparinivvāyin), Sinh bát Niết-bàn (Upapadyaparinirvāyin), Hữu hành bát Niết-bàn (Sābhisaṃskāraparinivvāyin), Vô hành bát Niết-bàn (Anabhisaṃskāraparinivvāyin), và Thượng lưu (Ūrdhvasrotras).

Loại thứ nhất đắc được Niết-bàn trong giai đoạn của trung hữu [khi đang trụ ở Sắc giới].

Loại thứ hai đắc được Niết-bàn ngay khi tái sinh (utpannamātra) và rất nhanh chóng bởi vì thánh giả đã có đủ năng lực (abhiyukta), vì thánh đạo thuộc loại tấn tốc, và có tu chứng (abhiyuktavāhimārgatvāt). Đây là loại Niết-bàn “hữu dư y” (sopadhiśeṣa). Có luận sư cho rằng không phải Hữu dư y mà là Vô dư y (nirupadhiśeṣa), giống như thánh giả bất hoàn thuộc loại thứ nhất; có nghĩa là sau khi đắc được phẩm tánh A-la-hán, hàng thánh giả này đắc được Niết-bàn mà không xả bỏ thọ mạng. Điều này không đúng bởi vì các thánh giả bất hoàn thuộc loại thứ hai này chưa có được sự tự tại đối với việc xả bỏ thọ mạng.

Loại thứ ba đắc được Niết-bàn sau khi sinh, không xả bỏ gia hành (apratipraśrabdha-prayoga), bởi vì thánh giảnăng lực; thánh đạo không thuộc loại tấn tốc nên phải có sự nỗ lực. Loại thứ tư đắc được Niết-bàn mà không có sự nỗ lực bởi vì thánh giả không có đủ năng lựcthánh đạo không thuộc loại tấn tốc. Trên đây là giải thích của Tỳ-bà-sa về hai hàng thánh giả này.

Có thuyết cho rằng sự khác nhau giữa hữu hành và vô hành là hữu hành đắc được Niết-bàn nhờ vào loại thánh đạosở duyên là các pháp hưu vi (saṃskṛta) như khổ đế, tập đếđạo đế; trong lúc vô hành lại nương vào loại thánh đạo duyên các pháp vô vi (asaṃskṛta) như diệt đế. Thuyết này phi lý vì mắc lỗi thái quá (atiprasangāt): Nếu nói như thế thì sự khác biệt này cũng có thể tìm thấy trong hai loại đầu tiên của hạng bất hoàn.

Theo khế kinh (Saṃyukta, 27, 23), Vô hành bát Niết-bàn được nói đến trước Hữu hành bát Niết-bàn và đây là thứ tự rất hợp lý (tathā ca yujyate). Bởi vì trường hợp đầu là thánh đạo vô hành, đắc được không do dụng công (ayatnaprāpti) cho nên sự chứng đắc thuộc loại tấn tốc (vāhin); trong khi trường hợp sau là thánh đạo hữu hành, tất cả đều nhờ vào sự dụng công cho nên không thể nhanh chóng chứng đắc Niết-bàn. Trong trường hợp của Sinh bát Niết-bàn, thánh đạo còn tấn tốc hơn (vāhitara = jitatara) và thù thắng hơn (adhimātratara) trong khi các phiền não (anuśayas) lại yếu ớt hơn (mṛdutara).

Loại thứ năm là các thánh giả có sự “lưu chuyển” (srotas), có nghĩa là có sự di chuyển (gati), lên cõi cao hơn. Ở đây chữ srotas và gati có cùng nghĩa. Thánh giả này không đắc Niết-bàn ở nơi đã tái sinh khi rời khỏi Dục giới mà lại đi lên cõi cao hơn.

Thánh giả hàng Dự lưu được chia làm hai loại: Một loại tạp tư tĩnh lự và vì thế khi lên đến cõi trời Sắc cứu cánh (akaniṣṭha) mới chứng đắc Niết-bàn; một loại không tạp tu tĩnh lự và vì thế phải lên đến cõi trời Hữu đảnh.

Các thánh giả tạp tu tĩnh lựchứng đắc Niết-bàn khi lên đến cõi trời Sắc cứu cánh lại được chia làm ba loại là Toàn siêu (pluta), Bán siêu (ardhapluta) và Biến một (sarvacyuta).

Thượng lưu toàn siêu là khi ở Dục giới đã tạp tu cả bốn loại tĩnh lự; sau đó bị thối thất ba loại ở trên mà chỉ còn loại sơ tĩnh lự. Đến khi mạng chung sinh lên cõi Phạm chúng thiên (brahmakāyikas), nhờ vào thế lực từng tu tập tĩnh lự trước đây mà đã tạp tu đệ tứ tĩnh lự trở lại. Đến khi mất ở cõi Phạm chúng thiên lại sinh thẳng lên cõi trời Sắc cứu cánh, tức đã không “rơi xuống” (animajjana) cõi nào trong tất cả mười bốn cõi trời ở giữa cõi trời đầu tiên của Sắc giới (brahmakāyika) và cõi trời cuối cùng (akaniṣṭha) cho nên được gọi là Toàn siêu.

Thượng lưu Bán siêu là khi mất ở cõi Phạm chúng thiên đã sinh lên cõi Tịnh cư thiên (śuddhāvāsa); sau đó lại vượt qua mỗi cõi ở trung gian để sinh vào Sắc cứu cánh thiên. Vì không hoàn toàn vượt qua tất cả các cõi ở trung gian cho nên chỉ gọi là Bán siêu.

Không bao giờ có trường hợp thánh giả tái sinh vào Đại phạm thiên (mahābrahma) vì đây là cõi của tà kiến: Chúng thiên ở cõi này xem Đại phạm như là người đã tạo ra thế gian và là vị đạo sư độc nhất ở cõi này trong lúc đã là thánh giả bất hoàn thì không thể thấp hơn Đại phạm.

Thượng lưu Biến một khi mất ở cõi Phạm chúng thiên đã lần lượt thọ sinh ở tất cả các cõi trời tiếp theo - ngoại trừ Đại phạm thiên - cho đến cõi trời cuối cùngSắc cứu cánh thiên. Vì qua tất cả các cõi trời đến có chết đi để thọ sinh vào cõi tiếp theo cho nên gọi là Biến một. Không có thánh giả bất hoàn nào thọ sinh lần thứ hai ở cõi đã từng sinh (upapattyāyatana) bởi vì hàng thánh giả này chỉ cầu thắng tiến (viśeṣagamanāt) và đây cũng chính là điều làm thành ý nghĩa của Bất hoàn, tức không bao giờ sinh trở lại nơi đã từng sinh; đối với chỗ đang ở còn không muốn sinh trở lại huống là sinh vào các cõi dưới.

Trong hàng thánh giả thượng lưu, những vị nào có tạp tu tĩnh lự thì lên đến Sắc cứu cánh thiên mới chứng đắc Niết-bàn. Những vị nào không có tạp tu tĩnh lự thì lên đến Hữu đảnh mới chứng đắc Niết-bàn; tức vì trước đó không có tạp tu tĩnh lự mà chỉ chuyên chú vào định cho nên đã sinh vào tất cả các xứ ở Sắc giới, ngoại trừ các cõi thuộc Tịnh cư thiên. Sau khi mất ở Sắc giới lại lần lượt sinh vào ba cõi thuộc Vô sắc giới cho đến khi lên đến Hữu đảnh mới chứng đắc Niết-bàn. Trong hai trường hợp trên, các vị đầu thuộc về quán hạnh (vipasāyanacarita, prajñāpriya) các vị sau thuộc chỉ hạnh (śmathacariya, samādhipriya) bởi vì có sự khác nhau giữa lạc tuệ và lạc định.

Mặc dù các luận sư không nói đến điều này nhưng chúng ta vẫn có thể nhận thấy một cách hợp lý rằng trong hai trường hợp của thượng lưu ở trên đều có thể chứng đắc Niết-bàn ở các cõi dưới trước khi họ lên đến Sắc cứu cánh thiên hay Hữu đảnh. Vì thế khi nói lên đến cõi cao nhất là Sắc cứu cánh thiên hay Hữu đảnh là hàm ý sẽ không còn sinh một lần nào nữa sau khi đã lên đến các cõi này chứ không có nghĩa là không có một lần sinh ở các cõi này. Cũng giống như trong trường hợp của hàng Dự lưu, tuy nói nhất định phải sinh trở lại bảy lần nhưng vẫn có trường hợp chưa đến bảy lần.

Năm loại thánh giả trên đây (tức trung hữu, sinh, hữu hành, vô hànhthượng lưu) đều thuộc hàng bất hoàn bởi vì họ đều đi đến Sắc giới (hành Sắc giới).

Có một loại bất hoàn khác được gọi là Hành Vô sắc giới (ārūpyopaga). Sau khi xả ly (virakta) Sắc giới, tức sau khi chết ở đó, thánh giả này tái sinh vào Vô sắc giới. Trường hợp này chỉ bốn loại là Sinh bát Niết-bàn, Hữu hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn và Thượng lưu. Trong đây không có Trung bát Niết-bàn vì Vô sắc giới không có trung hữu.

Như vậy có sáu loại bất hoàn gồm năm loại kể trên và loại hành Vô sắc giới, nếu không kể đến các loại khác nhau của loại hành Vô sắc giới.

Một loại bất hoàn khác đắc được Niết-bàn ngay ở đây, tức những hàng thánh giả “đắc được Niết-bàn ngay trong đời này” (dṛṣṭdharma parinirvāyin). Đây là loại bất hoàn thứ bảy.

Ngoài sự phân loại trên đây, còn có một sự phân loại khác đối với năm trường hợp của bất hoàn thuộc hành Sắc giới.

 

行色界有九 謂三各分三
業惑根有殊 故成三九別.

[Hành Sắc giới có chín loại,

Tức mỗi ba trường hợp đều có ba loại.

Vì nghiệp, hoặc và căn khác nhau

Nên lập thành chín loại.]

 

Luận: Ba loại bất hoàn, mỗi loại được chia thành ba nhóm, tạo thành chín loại bất hoàn bởi vì tất cả đều đi đến Sắc giới.

(Hỏi) Ba loại này là gì?

(Đáp) Đó là Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn và Thượng lưu.

(Hỏi) Tại sao lại chia thành ba nhóm?

(Đáp) (1) Theo sự so sánh của kinh thì có ba loại Trung bát Niết-bàn đắc được Niết-bàn là loại nhanh (āśu), loại không nhanh (anāśu), loại sau một thời gian; (2) về Sinh bát Niết-bàn thì cần phân biệt loại căn bổn Sinh bát Niết-bàn, Hữu hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn: Tất cả ba loại này vì đắc được Niết-bàn sau khi sinh nên đều thuộc Sinh bát Niết-bàn; (3) về thượng lưu thì phải phân biệt ba loại Toàn siêu, Bán siêu và Biến một.

Hoặc có thể nói rằng mỗi trong ba loại bất hoàn này được chia làm ba nhóm là tùy theo họ đắc được Niết-bàn nhanh, không nhanh hay phải sau một thời gian.

Sự khác nhau giữa ba loại bất hoàn hoặc chín nhóm bất hoàn ở trên là do sự khác nhau của nghiệp, căn và các phiền não.

i. Ba nhóm bất hoàn khác nhau là vì (a) các nghiệp tích tập có thể chiêu cảmtrung hữu (abhinirvṛttivedanīyakarman), ở đời sống ngay sau đó (upapadya), hoặc ở một đời về sau (aparaparyāya); (b) các phiền não hiện hành (kleśasamudācāra) thuộc loại yếu, trung bình và mạnh khác nhau; (c) các căn thuộc loại mạnh, trung bình và yếu khác nhau.

ii. Mỗi một trong ba loại bất hoàn lại thuộc về ba nhóm khác nhau vì (a) có các phiền não thuộc các loại đã nói đến ở trên (hạ hạ, hạ trung, hạ thượng đối với ba nhóm trung bát Niết-bàn, v.v.); (b) có nghiệp giống như trường hợp của ba loại thượng lưu, tức cùng một loại nghiệp chiêu cảm quả ở các đời về sau (thuận hậu thọ nghiệp) nhưng khác nhau ở các hạng Toàn siêu, Bán siêu và Biến một.

Như vậy có chín nhóm bất hoàn là do sự khác nhau về nghiệp, phiền não và các căn.

(Hỏi) Tuy nhiên trong các kinh, tại sao Phật chỉ nói đến bảy trường hợp quyết định sinh là thiện sĩ (satpuruṣagatis, thiện sĩ thú)?

Tụng đáp:

 

立七善士趣 由上流無別
善惡行不行 有往無還故.

[Lập bảy thiện sĩ thú

thượng lưu chỉ có một loại;

Lại căn cứ hành thiện, không hành ác

Và có đi lên mà không trở lại.]

 

Luận: Thượng lưuthánh giảtính chất “lưu chuyển” đến chỗ cao (ūrdhvasravaṇadharman).

Kinh (Gatisūtra) không phân thành các nhóm Toàn siêu, Bán siêu và Biến một mà chỉ nói đến bảy thú (gatis) của thiện sĩ là ba loại Trung bát Niết-bàn, ba loại Sinh bát Niết-bàn - cộng thành sáu thú - và thêm thú thứ bảy là Thượng lưu.

(Hỏi) Tại sao chỉ có bảy thú trên? Tại sao không xét đến các thú khác của hàng hữu học (śaikṣa) như Dự lưu và Nhất lai?

(Đáp) Những ai thành tựu bảy thú này chỉ hành thiện (saty eva karmaṇi vṛttiḥ) mà không hành ác, và khi đã đến được các thú này thì họ sẽ không quay trở lại (na punaḥ praty āgatiḥ). Các thánh giả hữu học khác không có đủ ba tính chất trên nên đã khôgn căn cứ vào đó để lập thành bảy thiện sĩ thú.

Chỉ có bảy thú này thuộc về thiện sĩ thú.

Thực ra, kinh (Madhyama, 2, 1) có nói: “Thiện sĩ (satpuruṣa) là gì? Là người thành tựu chánh kiến của các bậc hữu học (śaikṣī samyadṛṣṭi); v.v..” Nhưng sở dĩ kinh nói như vậy là vì nếu phân tích theo một bình diện khác thì hàng Dự lưuNhất lai cũng là thiện sĩ: (1) Họ cũng đắc được loại ln có khả năng làm cho thánh giả rốt ráo không phạm (akaraṇasaṃvara) năm điều ác [sát, đạo, dâm, vọng, tửu]; (2) đã đoạn được phần lớn các phiền não bất thiện thuộc Dục giới. Tuy nhiên ở đây kinh Thất thiện sĩ thú (Saptasatpuruṣagati) chỉ nói đến các thánh giả đã hoàn toàn (niḥparyāyeṇa) là bậc thiện sĩ (satpuruṣa).

(Hỏi) Trong trường hợp các thánh giả đã từng đắc các quả Dự lưuNhất lai trong lần sinh đầu tiên và sẽ đắc quả bất hoàn trong lần sinh tiếp theo - trong trường hợp này họ được gọi là Kinh sinh bất hoàn thánh giả (parivṛttajanmā anāgāmī) - thì các thánh giả này có thuộc về năm loại Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn, v.v. không?

Tụng đáp:

 

經欲界生聖 不往餘界生
此及往上生 無練根并退.

[Thánh giả đắc quả khi sinh ở Dục giới

Không thể sinh vào một giới khác.

Các thánh giả này và các thánh giả sinh lên cõi trên

Không có luyện căn và không thối thất.]

 

Luận: Các thánh giả đắc được thánh quả trong lần sinh ở Dục giới không thể sinh lên Sắc giới hoặc Vô sắc giới bởi vì sau khi đã đắc được quả bất hoàn tức nhất định chứng đắc Niết-bàn ngay trong lần sinh này. Nếu đắc quả trong lần sinh ở Sắc giới thì có thể sinh lên Vô sắc giới như trong trường hợp lên đến Hữu đảnh của hàng thượng lưu thuộc Hành Sắc giới.

(Vấn nạn) Nếu vậy tại sao Thiên đế thích (Śakra) nói rằng: “Ta từng nghe nói đến cõi trời tên là Sắc cứu cánh; sau này khi bị thối đọa ta sẽ sinh lên cõi đó”.

(Giải thích của Tỳ-bà-sa): “Thiên đế thích nói như vậy là vì không biết chánh pháp; và Thế tôn sở dĩ không bác bỏ ông ta là vì chỉ muốn khích lệ ông ta mà thôi”.

Các thánh giả đắc quả bất hoàn khi sinh ở Dục giới và các thánh giả sinh vào thượng giới không thể có luyện căn (indriya saṃcāra) và không bị thối chuyển (parihāṇi).

(Hỏi) Tại sao không thừa nhận các thánh giả Kinh sinh Dục giới và các thánh giả Thượng sinhluyện căn và có thối đọa?

(Đáp) Bởi vì vốn không thể có.

(Hỏi) Tại sao không thể có?

(Đáp) Bởi vì trong khi trải qua hai lần sinh (janmāntaraparivāsena; kālāntara), các căn đã đạt đến mức cực kỳ thuần thục (paripakvataratva) và đã đạt được nơi y chỉ rất thù thắng [tức một nhân cách rất thuận lợi cho thánh đạo (āśrayaviśeṣalābha)].

(Hỏi) Tại sao các thánh giả hữu học chưa xả ly Dục giới (avītarāga) (tức Dự lưuNhất lai) không thể chứng quả bất hoàn ở giai đoạn của trung hữu?

(Trả lời của luận chủ) Bởi vì thánh đạo chưa được thuần thục (ajitatvāt), chưa thể làm cho thánh đạo dễ dàng hiện tiền, chưa thành tựu được thánh đạo (saṃmukhībhāva), và chưa làm cho các phiền não thực sự yếu liệt (alimanda).

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Bởi vì rất khó xa lìa Dục giới (duḥsamatikarma) và vì các thánh giả này còn có nhiều việc phải làm để chứng đắc Niết-bàn: (1) Phải tiếp tục đoạn trừ hai loại phiền não bất thiện thuộc Dục giới; (2) đoạn trừ các phiền não vô ký thuộc Sắc giớiVô sắc giới; (3) phải chứng đắc ba quả Sa-môn trong trường hợp của Dự lưu hoặc hai quả Sa-môn trong trường hợp của Nhất lai, trong khi thánh giả “ly dục” (vītarāga), tức bất hoàn, chỉ còn phải đắc một quả; (4) phải vượt qua tam giới. Vì thế các thánh giả đang ở vào giai đoạn trung hữu đều không thể có các khả năng này.

(Hỏi) Trên đây có nói các thánh giả thượng lưu nhờ có tạp tu tĩnh lự nên có thể sinh lên cõi trời Sắc cứu cánh. Như vậy loại tĩnh lự nào được kết hợp (ākīryate, vyavakīryate, vyatibhidyate) hay tạp tu (miśrīkriyate) trước tiên?

 

先雜修第四 成由一念雜
為受生現樂 及遮煩惱退.

[Trước tiên tạp tu đệ tứ tĩnh lự;

Thành tựu là do tạp tu đến một niệm.

Tạp tu là vì thọ sinh, hiện lạc

ngăn ngừa thối thất vì phiền não.]

 

Luận: Muốn tạp tu bốn loại tĩnh lự, trước tiên phải tu tập tứ thiền vì đây là loại đẳng trì (samādhi) có nhiều năng lực nhất (karmaṇya), và là thánh đạo cao nhất (agra) trong các thánh đạo dễ tu tập (sukhā pratipad, lạc hành).

Theo Tỳ-bà-sa, bậc A-la-hán hoặc bất hoàn khi tạp tu tĩnh lự trước tiên đều nhập đệ tứ tĩnh lự với một chuỗi các niệm vô lậu (anāsrava) kéo đài liên tục (prābandhika). Sau đó xuất thiền rồi nhập trở lại tứ thiền với các niệm hữu lậu kéo dài. Sau đó lại xuất thiền và rồi nhập trở lại tứ thiền với các niệm vô lậu kéo dài. Cứ tiếp tục xoay vần như vậy thánh giả giảm bởi dần số niệm trong mỗi lần thiền định, vô lậu, hữu lậu, vô lậu, v.v., cho đến khi nhập vào một loại tứ thiền chỉ có hai niệm hữu lậutiếp theo là loại tứ thiền cũng chỉ có hai niệm vô lậu. Đến giai đoạn này gọi là thành tựu viên mãn việc tu định gia hành (prayoga).

Tỳ-bà-sa nói rằng: Từ một niệm vô lậu dẫn khởi một niệm hữu lậu; rồi từ một niệm hữu lậu này lại dẫn khởi một niệm vô lậu hiện tiền. Như vậy với sự kết hợp một niệm hữu lậu ở giữa với hai niệm vô lậu ở trước và sau mà sự tạp tu (ākiraṇa) tĩnh lự được viên mãn. Hai sát-na đầu tương tợ (sadṛśa) như Vô gián đạo (ānantaryamārga), sát-na thứ ba tương tợ như Giải thoát đạo (vimuktimārga).

Như vậy sau khi đã tu tập đệ tứ tĩnh lự, thánh giả có thể nương vào thế lực có sẵn này để tạp tu ba loại tĩnh lự ở dưới. Trước hết tạp tu ở ba châu của cõi ngườiDục giới; sau đó nếu bị thối thất vào Sắc giới, thánh giả vẫn có thể thực hành tạp tu tĩnh lự như trên.

Theo chúng tôi, sự tạp tu một niệm hữu lậu độc nhất kèm theo hai niệm vô lậu (kṣaṇavyākiraṇa) không thể có đối với tất cả mọi người, ngoại trừ đức Phật. Vì thế sự tạp tu một tĩnh lự chỉ được thực hiện khi thánh giả muốn nhập vào ba loại tĩnh lự kéo dài, vô lậu, hữu lậu, rồi vô lậu.

(Hỏi) Thánh giả tạp tu các tĩnh lự để làm gì?

(Đáp) Có ba lý do: (1) Hàng bất hoàn thuộc loại lợi căn (tīkṣṇedriya) sẽ được an lạc (sukhavikāra) ngay ở đời này (dṛṣṭadharma) và sinh vào Tịnh cư thiên; thuộc loại độn căn (mṛdvindriya) sẽ tránh được thối thất bằng cách xa rời các loại định tương ưng với mùi vị (āsvādasaṃprayuktasamādhi) vì họ vốn luôn luôn lo sợ các phiền não và; (2) hàng A-la-hán lợi căn sẽ được an lạc ngay trong đời này; hàng độn căn sẽ tránh bị thối thất vì họ cũng sợ các phiền não.

(Hỏi) Tạp tu tĩnh lự là để sinh vào các cõi Tịnh cư nhưng tại sao chỉ có năm trường hợp sinh vào các cõi này?

Tụng đáp:

 

由雜修五品 生有五淨居

[Do tạp tu có năm loại

Nên chỉ có năm trường hợp được sinh vào Tịnh cư.]

 

Luận: Vì sự thực hành (bhāvanā) tạp tu tĩnh lự chỉ có năm loại cho nên sinh vào Tịnh cư chỉ có năm trường hợp. Năm loại là yếu (hạ), trung bình (trung), mạnh (thượng), mạnh hơn (adhimātratara, thượng thắng), mạnh nhất (adhimātratama, thượng cực). Đối với loại thứ nhất chỉ cần có ba tâm là vô lậu, hữu lậu, vô lậu là đã có thể thành tựu; đối với loại thứ hai phải có sáu tâm; loại thứ ba phải có chín tâm; loại thứ tư phải có mười hai tâm; và loại thứ năm phải có mười lăm tâm.

Năm loại tạp tu tĩnh lự theo thứ tự trên đây sẽ chiêu cảm năm trường hợp sinh vào Tịnh cư. Nên biết rằng sự chiêu cảm này là do thế lực của hữu lậu được vô lậu huân tu mà thành.

luận sư cho rằng sự chiêu cảm năm trường hợp sinh vào Tịnh cư là do sự tăng thượng (ādhikya) theo thứ tự của năm căn tín, v.v., làm thành.

(Hỏi) Khi nói bất hoàn còn gọi là thân chứng. Như vậy đã dựa vào tính chất thù thắng nào để gọi là thân chứng?

Tụng đáp:

 

得滅定不還 轉名為身證.

[Thánh giả bất hoàn nếu đắc được Diệt tận định thì đổi tên là thân chứng.]

 

Luận: Thánh giả bất hoàn nào đắc được loại định Diệt tận thọ tưởng (saṃjñāveditanirodhasamāpatti) thì gọi là “Đắc diệt”. Thánh giả bất hoàn do thân chứng được pháp tương tợ như Niết-bàn (nirodhasamāpatti) nên gọi là thân chứng (kāyasākṣin).

(Hỏi) Tại sao thánh giả bất hoàn chỉ chứng đắc ở thân?

(Đáp) Bởi vì vô tâm cho nên phải nương vào thân. [Trên đây là giải thích của Tỳ-bà-sa.] 

(Giải thích của Kinh bộ) Thánh giả bất hoàn sau khi ra khỏi Diệt tận định đã nghĩ rằng loại định này tịch tĩnh giống như Niết-bàn. Thánh giả đã đắc được sự tịch tĩnh của một thân có tri giác (có nghĩa là trong thân này đã có một thức (vijñāna) sinh khởi (savijñānakakāya, hữu thức thân) trước đây chưa từng đắc. Nhờ thế thánh giả đã tri nhận được trực tiếp sự tịch tịnh này nhờ vào thân, qua hai hành động tri nhận (sākṣākaraṇa): Hành động thứ nhất là sự đắc được (prapti) trong khi nhập định một thân phù hợp với Diệt (nirodha); hành động thứ hai là sự nhận biết về trạng thái của thân sau khi đã xuất định, bởi vì người ta gọi “sự tri nhân” (sākṣākriyā) này là sự “làm hiện khởi” (pratyakṣīkāra). Có sự tri nhận khi người ta nhận ra sự tĩnh lự của một thân đã có lại tri giác; và từ sự nhận ra này cho thấy sự tịch tĩnh này đã đắc được trong khi thân đang ở vào tình trạng không có tri giác.

(Hỏi) Kinh có nói đến mười tám hàng hữu học nhưng tại sao thân chứng không được kể đến trong số này?

(Đáp) Bởi vì phẩm tánh của hàng thân chứng không phải là nhân của hữu học.

(Hỏi) Nếu vậy nhân của hữu học là gì?

(Đáp) Đó là tam học vô lậu (śīkṣās), tức giới (adhiśīlam), định (adhicittam), tuệ (adhiprajñām); chúng tạo thành thánh đạo và quả của tam học, tức là sự ly hệ (visaṃyoga). Chính vì sự khác biệt của tam học và quả của chúng mà người ta đã lập thành các hạng hữu học. Trong khi đó Diệt tận định không phải là tam học vì không phải là con đường đoạn trừ (prahāṇamārga, đoạn đạo) và cũng không phải là quả của tam học vì không phải là sự ly hệ. Vì thế không thể căn cứ vào sự đắc được Diệt tận định của một thánh giả để kết luận rằng đó là một loại hữu học.

Trên đây đã nói đến các tính chất dễ thấy của các hàng thánh giả bất hoàn khác nhau, bao gồm năm trường hợp thuộc hàng Sắc giới, một trường hợp có bốn loại thuộc hàng Vô sắc giới và một trường hợp chứng đắc Niết-bàn ngay trong cõi này. Tuy nhiên nếu phân tích thật chi tiết sẽ có vô số các trường hợp khác nhau. Tỷ dụ như trong trường hợp Trung bát Niết-bàn: (1) nếu phân tích theo căn (indriya), sẽ có ba loại là thượng căn, trung cănhạ căn; (2) nếu phân tích theo địa (bhūmi) sẽ có bốn loại là sơ định, nhị định, v.v., tùy theo thánh giả đang có loại định nào làm sở y [đây là trường hợp của hàng bất hoàn thuộc hành Sắc giới (rūpopaga)]; (3) nếu phân tích theo chủng tánh (gotra), sẽ có sáu loại là thối pháp chủng tánh (parihāṇadharman), tư pháp chủng tánh (cetanādharman), hộ pháp chủng tánh (anurakṣaṇādharman), an trụ pháp chủng tánh (sthitākampya), kham đạt pháp chủng tánh (prativedhanādharman) và bất động chủng tánh (akopyadharman); (4) nếu phân tích theo xứ sẽ có mười sáu loại: Từ Phạm chúng thiên cho đến Sắc cứu cánh thiên; (5) nếu phân tích theo sự ly nhiễm ở các địa, sẽ có ba mươi sáu loại: Một loại còn bị hệ phược thuộc Sắc giới (rūpadhātau sakalabandhana), tám loại đã xả ly từ một nhóm cho đến tám nhóm phiền não thuộc tầng thiền thứ nhất, một loại còn bị hệ phược của tầng thiền thứ hai, tám loại đã xả ly tám nhóm phiền não thuộc tầng thiền thứ hai, v.v. Như vậy có tất cả bốn nhóm gồm chín loại Trung bát Niết-bàn. Không kể đến các thánh giả đã giải thoát khỏi nhóm phiền não thứ chín của tầng thiền thứ tư và đang bị trói buộc bởi tất cả các hệ phược thuộc Vô sắc giới bởi vì ở đây đang bàn đến loại Trung bát Niết-bàn, tức hàng bất hoàn thuộc loại Hành Sắc giới, và vì trung hữu không tồn tại ở bên trên Sắc giới.

Như vậy nếu phân tích theo xứ, chủng tánh, ly nhiễm và căn để lập thành thì có tất cả hai nghìn năm trăm chín mươi hai loại trung bát Niết-bàn.

(Hỏi) Làm thế nào để có được con số trên đây?

(Đáp) Tức trong mỗi xứ đều có sáu chủng tánh khác nhau; mỗi một chủng tánh nếu căn cứ vào mức độ ly nhiễm khác nhau - tức từ khi còn các hệ phược của Sắc giới cho đến khi đã xả ly tám nhóm phiền não thuộc tầng thiền thứ tư - thì lại có chín loại. Mỗi chủng tánh có chín loại mà mỗi xứ lại có sáu chủng tánh, như vậy thành ra năm mươi tư loại; nếu nhân với mười sáu xứ tức thành tám trăm sáu mươi tư loại; nếu nhân với ba căn tức thành hai nghìn năm trăm chín mươi hai loại.

Trường hợp xả ly nhóm phiền não thứ chín ở hạ địa được xem nhưtrường hợp còn bị hệ phượcthượng địa cho đến ở mỗi một địa đều có số lần ly nhiễm bằng nhau. Cứ như vậy từ Trung bát Niết-bàn cho đến thượng lưu, mỗi một trong năm trường hợp đều có hai nghìn năm trăm chín mươi hai loại tức thành mười hai nghìn chín trăm sáu mươi loại. Về hàng bất hoàn thuộc loại hàng Vô sắc giới cũng sẽ được tính giống như vậy. 

Trên đây đã phân tích sự khác biệt của hướng và quả thứ ba; tiếp theo là phần lập thành hướng và quả thứ tư.

 

上界修惑中 斷初定一品
至有頂八品 皆阿羅漢向
第九無間道 名金剛喻定
盡得俱盡智 成無學應果.

[Trong các tu hoặc thuộc thượng giới nếu đoạn một phẩm ở sơ định

Cho đến phẩm thứ tám ở Hữu đảnh

Được gọi là A-la-hán hướng.

Vô gián đạo thứ chín

Gọi là Kim cang dụ định

Khi Tận trí sinh khởi cùng tận đắc

Thì thành tựu vô học ứng quả.]

 

Luận: Nếu thánh giả bh tiếp tục đoạn trừ tu hoặc thuộc Sắc giớiVô sắc giới, từ nhóm đầu tiên ở tầng thiền thứ nhất cho đến nhóm thứ tám cuối cùng ở Hữu đảnh thì được đổi tên là Hướng đến A-la-hán (arhatphalapratipannaka, A-la-hán quả hướng). Ở giai đoạn của thánh đạo đoạn trừ phiền não này (ānantaryamārga, vô gián đạo) cho dù đoạn được nhóm phiền não thứ chín của Hữu đảnh thì thánh giả vẫn còn là A-la-hán hướng. Tuy nhiênVô gián đạo thứ chín này có khả năng phá tan tất cả các loại tùy miên (sarvānuśayabhedin) nên được gọi là “loại định tương tợ như kim cương (vajropamasamādh, kim cương dụ địnhi). Thật ra Vô gián đạo thứ chín không phá hết các tùy miên bởi vì có nhiều loại tùy miên đã được phá trước đó nhưng nó vẫn có công năng phá tan tất cả phiền não và là loại định thù thắng nhất trong tất cả các loại Vô gián đạo có khả năng đoạn hoặc.

Kim cương dụ định có nhiều loại. Nói Vô gián đạo đoạn trừ các hoặc thuộc phẩm thứ chín của Hữu đảnh mà sinh ra nhiều loại Kim cang dụ định khác nhau là căn cứ vào chín địa: Vị chí địa (anāgamya), tĩnh lự trung gian (dhyānāntara), tứ thiền và ba loại định ở đầu thuộc Vô sắc giới (ārūpyas); vì thế mới nói là loại định này có các hành tướng và trí khác nhau.

i. Được sinh khởi nhờ nương vào vị chí địa (anāngamyasaṃgṛhīta), tám Kim cang dụ định tương ưng với mỗi một trong bốn hành tướng của khổ loại trí và mỗi một trong bốn hành tướng của tập loại trí; các loại trí này duyên khổ và tập của Hữu đảnh.

Tám Kim cang dụ định tương ưng với mỗi một trong bốn hành tướng của diệt pháp trí, với một trong bốn hành tướng của Đạo pháp trí.

Bốn Kim cang dụ định tương ưng với mỗi một trong bốn hành tướng của Diệt loại trí duyên tầng thiền thứ nhất; và tiếp tục như thế cho đến: Bốn Kim cang dụ định tương ưng với mỗi một trong bốn hành tướng của Diệt loại trí duyên Hữu đảnh.

Bốn Kim cang dụ định tương ưng với mỗi một trong bốn hành tướng của Đạo loại trí, bởi vì Đạo loại trí có giới địa khắp mọi nơi. [Không cần phải phân biệt các địa khác nhau như trong trường hợp của Diệt loại trí].

Như vậy, nếu dựa vào vị chí địa sẽ có đến năm mươi hai Kim cang dụ định do sự khác nhau của các hành tướng và các cảnh sở duyên của các trí và Loại trí.

ii. Cách tính trên vẫn áp dụng cho Kim cang dụ định được sinh khởi nhờ nương vào các địa khác, cho đến tầng thiền thứ tư.

iii. Đối với các Kim cang dụ định được sinh khởi nhờ nương vào ba tầng thiền đầu tiên của Vô sắc giới, có tất cả hai mươi tám, hai mươi bốn và hai mươi loại.

(a) Pháp trí không có ở đó; (b) loại trísở duyênDiệt đế (nirodha) thuộc một địa thấp hơn cũng không có ở đó; (c) loại trísở duyên là đạo đối trị một địa thấp hơn lại có ở đó bởi vì các thánh đạo đều có tính chất làm nhân cho nhau.

Một luận sư đối pháp cho rằng Đạo loại trí không duyên tất cả các địa cùng một lúc mà cần phải phân biệt các địa khác nhau giống như trường hợp của Diệt loại trí. Theo chủ trương này cần tăng thêm hai mươi tám loại cho số lượng các Kim cang dụ định nương vào vị chí địa, v.v.. Kim cang dụ định ở các tầng thiền thuộc Vô sắc giới sẽ có bốn mươi, ba mươi hai và hai mươi bốn loại.

Nếu phân tích theo chủng tánh và căn thì các con số trên còn nhiều hơn.

Trên đây đã nói về trường hợp nhóm phiền não thứ chín của Hữu đảnh được đoạn trừ bởi Kim cang dụ định.

Vào sát-na thánh giả đắc được (prāptyā saha) sự đoạn trừ nhóm phiền não thứ chín thì “cái biết về sự diệt trừ” (kṣayajñāna, tận trí) này sinh khởi. Ngay sau Kim cang dụ định, hay loại Vô gián đạo (ānantaryamārga) cuối cùng, sẽ sinh khởi Giải thoát đạo (vimuktimārga) cuối cùng. Chính vì thế mà Giải thoát đạo này, vốn sinh khởi với (sahajāta) sự đắc được sự đoạn trừ tất cả các lậu (āsravas), mới trở thành “cái biết về sự diệt trừ” sinh khởi đầu tiên và được gọi là Tận trí (kṣayajñāna = kṣayaprathamajñāna).

Khi Tận trí này sinh khởi thì hàng “A-la-hán hướng” thành tựu quả A-la-hán vô học; hàng thánh giả này không còn gì để làm đối với một quả khác cho nên mới gọi là vô học (aśaikṣa). Cũng với lý do này mà thánh giả, sau khi đã tẩy rửa các nhiễm pháp đối với chính mình, mới có đủ tư cách (arhattva) đem lại lợi lạc cho người khác (parārthakaraṇa); mới xứng đáng nhận sự tôn kính (pūjārha) của tất cả chúng sinh còn tham dục (sarāga).

Từ sự định nghĩa A-la-hán là bậc vô học ở trên cho thấy rằng bảy hàng thánh giả khác gồm bốn trường hợp hướng đến quả và ba trường hợp trụ ở quả đều thuộc về hữu học (śaikṣa).

(Hỏi) Tại sao bảy hàng thánh giả này đều có tên là hữu học?

(Đáp) Bởi vì muốn tận trừ các lậu thì phải thường xuyên tu tập các học pháp (śikṣās). Ba học pháp - tức tăng thượng giới (adhiśīlaṃ, śikṣā), tăng thượng tâm (adhicittaṃ śikṣā) và tăng thượng tuệ (adhiprjñāṃ, śikṣā) - đều lấy giới định tuệ làm tự thể.

(Hỏi) Nhưng theo định nghĩa trên thì dù dị sinh cũng có thể là hữu học?

(Đáp) Không thể được; vì không thấy đúng như thực (aprajñāna) các thánh đế và vì có thể đánh mất tất cả các học pháp đã đắc được.

Chính vì để khẳng định rằng những người đang còn học mới thuộc về hữu học và không phải chỉ trừ bỏ tam học là đã trở thành bậc hữu học nên Thế tôn mới nhắc lại rằng: “Này Đạm-phạ (Sīvaka), chỉ những ai tu học những gì cần phải tu học mới được ta gọi là bậc hữu học.”

(Hỏi) Làm sao có thể nói rằng thánh giảthể tánh của hàng hữu học khi đang ở vào trạng thái bình thường (prakṛtiṣṭha; trụ bổn tánh) chứ không phải lúc đang nhập định?

(Đáp) Nói như vậy là vì dựa vào ý chí của hàng thánh giả này. Cũng giống như khách đi đường, dù đang tạm nghỉ chân nhưng vẫn được gọi là hành khách. Hoặc vì ba học pháp vẫn thường gắn bó với các vị này ngay cả khi họ đang ở vào trạng thái bình thường.

(Hỏi) Học pháp là gì?

(Đáp) Là các pháp hữu vi vô lậu của bậc hữu học. Cũng giống như các pháp hữu vi vô lậu của bậc vô học đều được gọi là Vô học pháp.

(Hỏi) Tại sao Niết-bàn là pháp vô vi lại không phải là pháp vô học?

(Đáp) Vì hàng vô họcdị sinh cũng có thể thành tựu Niết-bàn.

Bốn hàng thánh giả hướng quả và bốn hàng thánh giả trụ quả cộng thành tám hàng thánh giả (āryapudgala, thánh bổ-đặc-già-la): Tức bao gồm thánh giả “lên đường (pratipnna) để chứng đắc quả Dự lưu” và thánh giả đã là Dự lưu cho đến hàng thánh giả “lên đường để chứng đắc quả A-la-hán” và thánh giả đã là A-la-hán.

Tuy gọi là tám nhưng thật ra chỉ có năm; đó là thánh giả đang hướng đến (pratipannaka) quả đầu tiên - tức đang ở vào kiến đạo (darśanamārga) - và bốn hàng thánh giả đang trụ ở quả (phalastha); bởi vì ba trường hợp hướng quả ở sau không tách rời ba trường hợp trụ quả ở trước.

Trình bày trên đây là dựa vào sự chứng đắc theo thứ tự của bốn quả (anupūrvādhigama = anupūrvena catuḥphalaprāpti). Trong trường hợp của thánh giả Bội ly dục (bhūyovītarāga) và Toàn ly dục (kāmavītarāga), vì đã đoạn trừ sáu nhóm, chín nhóm phiền não của Dục giới trước khi nhập vào kiến đạo cho nên khi trụ ở kiến đạo thì được gọi là Nhất lai quả hướng và bất hoàn quả hướng mà không phải là Dự lưu quả hướng và Nhất lai quả hướng. Ở đây, thánh giả đang hướng đến một quả cao hơn thì không lẫn lộn với các thánh giả đang trụ ở quả thấp hơn.

(Hỏi) Như trên đã nói con đường tu tập (bhāvanāmārga, tu đạo) có hai loại hữu lậu (thế tục) và vô lậu (xuất thế) khác nhau. Như vậy do loại nào mà hàng hữu học xả ly được nhiễm pháp ở các địa?

Tụng đáp:

 

有頂由無漏 餘由二離染

[Ly nhiễm thuộc Hữu đảnh là do vô lậu;

Ly nhiễm thuộc các địa khác là do cả hai loại.]

 

Luận: Chỉ có đạo vô lậu xả ly các nhiễm thuộc Hữu đảnh chứ không phải đạo hữu lậu bởi vì (1) không có thế tục đạo nào cao hơn Hữu đảnh [người ta xả ly một địa nhờ vào thế tục đạo của một địa cao hơn, trong khi Hữu đảnh lại là địa cao nhất]; (2) thế tục đạo của một địa nào đó không thể đối trị các nhiễm pháp ở cùng địa (tự địa) bởi vì các phiền não ở cùng địa sẽ đeo bám thế tục đạo này (tatleśānuśayitatvāt).

Nếu các phiền não đeo bám theo một thánh đạo thì chúng không thể bị thánh đạo này đối trị. Nếu một thánh đạo có khả năng đối trị một phiền não thì phiền não này chắc chắn không thể đeo bám theo thánh đạo này.

Sự xả ly tám địa còn lại đều có thể nương vào thế tục đạo hoặc xuất thế đạo.

Nếu đều do hai đạo để xả ly các địa thì mỗi đạo có bao nhiêu trường hợp đắc ly nhiễm?

Tụng đáp:

 

聖二離八修 各二離繫得

[Thánh giả đều tu cả hai loại để xả ly tám địa

Và đều đắc được cả hai loại ly hệ.]

 

Luận: thánh giả nếu xả ly tám địa đầu tiên (Dục giới, bốn thiền, ba vô sắc) bằng đạo hữu lậu thì đắc được sự “tách rời” (visaṃyoga, ly hệ) khỏi các phiền não của các địa này. Nói cách khác, thánh giả sẽ đắc được pháp đắc (prāpti), tức sự thành tựu trạch diệt (pratisaṃkhyānirodha) của các phiền não này.

Sự thành tựu này thuộc về cả hữu lậuvô lậu.

(Hỏi) Có luận sư nói rằng trong trường hợp thánh giả xả ly bằng đạo vô lậu thì sự đắc được ly hệ cũng thuộc về cả hữu lậuvô lậu. Tại sao như vậy?

(Đáp) Các luận sư này nói rằng hãy thừa nhận trường hợp thánh giả khi xả ly bằng đạo vô lậu thì họ không có sự đắc được ly hệ (ly hệ đắc0 thuộc hữu lậu. Theo giả thiết này, một thánh giả khi đã xả ly Vô sở hữu xứ (ākiñcanyāyatana) bằng một đạo vô lậu (ārya) thì sau đó sẽ nương vào một tầng thiền để chuyển căn, có nghĩa là làm cho các căn (indriya) trở nên mãnh lợi hơn (saṃcarati). Thánh giả này - vì xả bỏ các đạo đã đắc được trước đó, [tức các đạo thuộc Vô sắc giới đối với hàng độn căn (mṛdvindriyasaṃgṛhīta)]; vì chỉ đắc được bất hoàn quả đạo đối với hàng lợi căn - nên sẽ không còn đắc được sự ly hệ đối với các phiền não của Vô sắc giới; và vì sự ly hệ này đã bị mất nên họ sẽ thành tựu các phiền não này.

Không có ly hệ đắc hữu lậu đối với loại thánh giả này; tuy nhiên họ cũng không có các phiền não được nói đến ở trên.

Cũng giống như trường hợp một thánh giả đã giải thoát được một phần trong số các nhóm phiền não của Hữu đảnh thì chắc chắn sẽ không có sự ly hệ đắc hữu lậu đối với các phiền não này, - bởi vì chỉ có đạo vô lậu mới diệt trừ được các phiền não của Hữu đảnh. Giả sử rằng thánh giả này vì luyện căn bằng cách nương vào một tầng thiền nên đã xả bỏ ly hệ đắc vô lậu đối với các phiền não của Hữu đảnh thì chính các ông cũng có thể nhận ra rằng thánh giả này không có thành tựu các phiền não này.

Cũng giống như trường hợp một dị sinh sinh ở một nơi cao hơn tầng thiền thứ nhất, chẳng hạn như sinh vào tầng thiền thứ hai, v.v.. Bởi vì dị sinh này đã chuyển vào tầng thiền thứ hai (bhūmisaṃcāra, chuyển địa) nên sẽ đánh mất sự ly hệ đắc đối với các phiền não của Dục giới; tuy nhiên các ông vẫn phải thừa nhận rằng dị sinh này không có các phiền não này.

Vì thế lập luận của các luận sư nói trên không hợp lý.

(Hỏi) Nhờ vào địa nào mà người ta đắc sự xả ly các địa khác nhau?

Tụng đáp:

 

無漏未至道 能離一切地
餘八離自上 有漏離次下.

[Đạo vô lậu thuộc vị chí địa

Có thể xả ly phiền não ở tất cả các địa.

Các đạo thuộc tám địa còn lại xả ly tự và thượng địa.

Đạo hữu lậu xả ly hạ địa.]

 

Luận: Nhờ vào vị chí địa vô lậu mà có thể xả ly tất cả các địa, từ Dục giới cho đến Hữu đảnh.

Khi hành giả xả ly một địa thấp hơn nhờ nương vào một cận phần (sāmantaka) thì có phải tất cả Giải thoát đạo (vimuktimārgas) đều sinh từ cận phần cũng giống như trường hợp của các Vô gián đạo (ānantaryamārgas) không?

(Đáp) Không phải.

(Hỏi) Bởi vì sao?

Tụng đáp:

 

近分離下染 初三後解脫
根本或近分 上地唯根本.

[Đạo thuộc cận phần xả ly các nhiễm thuộc hạ địa.

Khi xả ly ba địa đầu tiên, Giải thoát đạo sinh từ

Căn bổn hoặc cận phần.

Khi xả ly thượng đại, Giải thoát đạo chỉ sinh từ căn bổn.]

 

Luận: Có chín địa của sự sinh khởiDục giới, bốn tĩnh lự và bốn Vô sắc định.

Khi hàng phục (jaya) được ba địa - có nghĩa là khi xả ly Dục giới, tầng thiền thứ nhất và tầng thiền thứ hai - thì có Giải thoát đạo thứ chín sinh khởitĩnh lự cận phần hoặc tĩnh lự căn bổn (maula).

Đối với các địa cao hơn thì Giải thoát đạo cuối cùng luôn luôn sinh từ tĩnh lự (samāpatti) căn bổn chứ không phải nằm ở cận phần của tĩnh lự này. Thật vậy, kể từ tầng thiền thứ tư thì tĩnh lự căn bổn và tĩnh lự cận phần có thọ giống nhau, tức là xả thọ. Trong các địa của các tầng thiền đầu tiên thì có hai thọ khác nhau: Hành giả độn căn, với Giải thoát đạo thứ chín, không có khả năng nhập vào tĩnh lự căn bổn vì sự chuyển đổi của thọ rất khó khăn. Vì thế Giải thoát đạo thứ chín của việc xả ly ba địa đầu tiên chỉ sinh khởi từ tĩnh lự cận phần.

Chúng ta đã bàn đến trường hợp hành giả có thể xả ly tất cả các địa bằng các đạo vô lậu được tu tậpVị chí địa (anāgamya). Tuy nhiên khả năng này không thuộc về các đạo vô lậu được tu tập ở các địa không phải là vị chí địa.

Bằng đạo vô lậu được tu tập ở tám địa là bốn tĩnh lự, tĩnh lự trung gian và ba vô sắc định thì hành giả có thể xả ly tự địa và các địa cao hơn; nhưng không có địa thấp hơn bởi vì hành giả đã xả ly loại địa này.

Các đạo xuất thế (lokottara) như Vô gián đạoGiải thoát đạo sinh khởi nhờ các hành tướng của các đế (satyākārapravṛtta), tức sự nhìn thấy các pháp là vô thường, khổ, v.v..

 

世無間解脫 如次緣下上
作麤苦障行 及靜妙離三.

[Vô gián đạoGiải thoát đạo thế tục

Theo thứ tự trên duyên tự địa và thượng địa;

Có các hành tướng là thô, khổ, chướng

Và tĩnh, diệu, ly.]

 

Luận: Các Giải thoát đạo thế tục có các hành tướng tịch tĩnh, v.v.; có nghĩa là xem cảnh sở duyên của chúng là tịch tĩnh, v.v.. Các Vô gián đạo thế tục có các hành tướng thô hiển, v.v..

Các Giải thoát đạo có thể xem một địa cao hơn [hoặc một xứ (sthāna) cao hơn] là tịch tĩnh, là mỹ diệu (praṇītatas), là giải thoát (niḥsaraṇatas). Các Vô gián đạo xem một địa thấp hơn là thô hiển (audārikatas), là khổ (duḥkhilatas), là một bức tường dày (sthūlabhittikatas): Xem là thô hiển bởi vì địa này không tịch tĩnh (aśāntatva), cần có sự dụng công lớn (mahābhisaṃskārataratva); xem là khổ bởi vì địa này không mỹ diệu, không đáng ưa khi (pratikūla) mà thân cũng như tâm đều không có được các công năng lớn lao (bahudauṣṭhulyataratva); xem như một bức tường dày bởi vì với một địa thấp như thế này thì không thể vượt thoát ra khỏi nó, dường như nó là một bức tường rất dày.

Các hành tướng tịch tĩnh, mỹ diệu, giải thoát là các hành tướng đối nghịch lại.

Về vấn đề không quan trọng này đã được bàn đến, chúng ta hãy trở lại chủ đề của chúng ta:

 

不動盡智後 必起無生智
餘盡或正見 此應果皆有.

[Trong trường hợp của A-la-hán bất động, sau Tận trí

Tất sinh khởi vô sinh trí.

Trong các trường hợp khác là Tận trí hoặc chánh kiến;

Chánh kiến này đều có ở các A-la-hán.]

 

Luận: Nếu A-la-hán thuộc chủng tánh bất động (akopyadharman) thì ngay sau Tận trí (kṣayajñāna) sẽ sinh khởi một loại trí về sự không sinh khởi các lậu hoặc trong vị lai (anutpādajñāna, vô sinh trí).

Đối với các A-la-hán không thuộc chủng tánh bất động thì ngay sau Tận trí sẽ sinh khởi Tận trí cùng loại hoặc chánh kiến của bậc vô học (aśaikṣī samyagdṛṣṭi) mà không phải là vô sinh trí bởi vì trong trường hợp hành giả bị thối thất vì không còn là bất động thì sẽ không thể khởi được vô sinh trí.

(Hỏi) Có phải các A-la-hán thuộc chủng tánh bất động không có chánh kiến vô học không?

(Đáp) Vẫn có nhưng không nói đến. Tất cả A-la-hán đều có chánh kiến vô học. Đối với A-la-hán bất động, sau vô sinh trí này lại sinh khởi tiếp vô sinh trí khác hoặc có khi là chánh kiến vô học.

(Hỏi) trước đây có nói đến bốn quả, vậy đó là những quả gì?

(Đáp) Đó là các quả của “đời sống tu hành” (śrāmaṇya, sa-môn tánh).

(Hỏi) Sa-môn tánh là gì? Quả của nó là gì? Các quả này có bao nhiêu loại khác nhau?

Tụng đáp:

 

淨道沙門性 有為無為果
此有八十九 解脫道及滅.

[Tịnh đạo là Sa-môn tánh;

Quả là pháp hữu vivô vi;

Có tám mươi chín loại

Giải thoát đạo và diệt.]

 

Luận: Sa-môn tánh là đạo vô lậu. Nhờ thánh đạo này, nhờ vào Sa-môn tánh (śrāmaṇyayogāt) nên mới trở thành một Sa-môn (śrāmaṇa), có nghĩa là một con người tịch tĩnh hoặc chấm dứt (śamyati) các phiền não (Dhammpada, 265).

Như khế kinh (Madhyma, 48, 1) nói: “Được gọi là Sa-môn vì làm tĩnh lặng tất cả các pháp ác, bất thiện, dẫn đến luân hồi, tạo ra sự tái sinh và giữ được như thế cho đến khi già và chết.”

Dị sinh vì không làm tĩnh lặng các phiền não một cách rốt ráo nên không phải là Sa-môn thực sự (paramārthaśrāmaṇa).

Sa-môn quả là các pháp hữu vivô vi. Khế kinh nói có bốn loại khác nhau nhưng thật ra có đến tám mươi chín loại.

(Hỏi) Tám mươi chín quả Sa-môn này là gì?

(Đáp) Đó là các Giải thoát đạo cùng với các diệt pháp. Có tám Vô gián đạokế tiếptám Giải thoát đạo dành cho sự đoạn trừ các phiền não thuộc kiến đoạn. Có tám mươi mốt Vô gián đạo để đoạn trừ các phiền não thuộc tu đoạn, tức là chín đạo (mārgas) được dùng để đoạn trừ chín nhóm phiền não ở mỗi một trong chín địa. Đối với giải thoát được cũng như vậy.

Tám mươi chín Vô gián đạo tạo thành Sa-môn tánh.

Tám mươi chín Giải thoát đạo là quả hữu vi của Sa-môn tánh, là đẳng lưu quảsĩ dụng quả của Sa-môn tánh.

Sự đoạn trừ hoặc trạch diệt (pratisaṃkhyānirodha) tám mươi chín nhóm phiền não là quả vô vi của Sa-môn tánh, là sĩ dụng quả của Sa-môn tánh.

Như vậy, có tất cả tám mươi chín quả của Sa-môn tánh.

(Hỏi) Nếu chủ trương này là đúng thì không thể nào làm cho lời dạy của Thế tôn được hoàn mãn (upasaṃkhyāna)?

Tụng đáp: 

 

五因立四果 捨曾得勝道
集斷得八智 頓修十六行.

[Năm nhân lập thành bốn quả

Là Xả tằng đạo, đắc thắng đạo,

Tập đoạn, đắc tám trí,

Và đốn tu mười sáu hành tướng.]

 

Luận: Các giai đoạn của con đường đoạn trừ phiền não (prahāṇamārga) mà ở đó có năm nhân tụ hội đã được Thế tôn định nghĩa như là các quả. Đây là chủ trương của bốn tông.

(Hỏi) Năm nhân này là gì?

(Đáp) Năm nhân là (1 - 2) xả bỏ hướng đạo đắc được quả đạo; (3) đắc được (prāpti) sự đoạn trừ toàn bộ (sarvasyaikaprāptilābha, tổng tập đoạn); (4) đắc được trong một lần cả tám trí, tức bốn pháp trí và bốn loại trí; (5) đắc được mười sáu hành tướngvô thường, v.v..

Năm nhân này đều có đủ trong mỗi một bốn quả,

(Hỏi) Nếu chỉ có đạo vô lậu có tên là Sa-môn tánh thì hai quả (Nhất laibất hoàn) khi đắc được nhờ vào đạo hữu lậu thì làm sao có thể nói là thuộc về Sa-môn quả?

Tụng đáp: 

 

世道所得斷 聖所得雜故
無漏得持故 亦名沙門果.

[Sự đoạn diệt phiền não đắc được do thế đạo

Kết hợp với sự đoạn diệt do thánh đạo

Và được vô lậu đắc gìn giữ

Cho nên cũng gọi là Sa-môn quả.]

 

Luận: Quả Nhất lai và quả bất hoàn nếu đắc được nhờ vào đạo hữu lậu thì không phải chỉ là những sự đoạn trừ (trạch diệt) xuất phát từ Tu đạo thuộc về hữu lậu; mà thật ra chúng còn là một quả đoạn trừ (đoạn quả) của kiến đạo. Sự đoạn trừ thứ hai này không thể tách rời với sự đoạn trừ thứ nhất; bởi vì trong các quả Nhất laibất hoàn vốn đã có sự hoạch đắc (prāpti) về tổng tập đoạn - một phần là các phiền não thuộc kiến đoạn và một phần là các phiền não thuộc tu đoạn.

Chính vì thế mà kinh nói: “Quả Nhất lai là gì? - Là sự đoạn trừ ba kiết sử thân, giới, nghi (satkāya, śīlavrata, vicikitsā) thuộc về kiến đoạn và là sự giảm trừ tham, sân, si (kāma, dveṣa, moha). - Quả bất hoàn là gì? - Là đoạn năm kiết sử ở dưới (avarabhāgīya, hạ phần).”

Hơn nữa, sự đoạn trừ đắc được từ thế tục đạo (tức sự đoạn trừ sáu nhóm phiền não trong trường hợp của Nhất lai, v.v.) được gìn giữ (saṃdhāryate) bởi ly hệ đắc vô lậu, cũng giống như trường hợp thánh giả Nhất laibất hoàn nhờ có ly hệ đắc vô lậu này mà không thể mạng chung khi bị thối thất: Họ có thể đánh mất phẩm tánh của mình nhưng lại đắc trở lại trước khi chết.

 

所說沙門性 亦名婆羅門
亦名為梵輪 真梵所轉故
於中唯見道 說名為法輪
由速等似輪 或具輻等故.

[Sa-môn tánh được nói đến

Còn gọi là Sa-la-môn,

Còn gọi là Phạm luân,

Vì do chân Phạm chuyển vận;

Trong đó chỉ có kiến đạo

Được gọi là pháp luân

Vì nhanh chóng, v.v., giống như bánh xe

Hoặc vì có đủ tăm xe, v.v.]

 

Luận: Sa-môn tánh chính là Bà-la-môn tánh (brāhmaṇya) bởi vì nó loại trừ phiền não; cũng chính là bánh xe của Phạm vương (Brahmacakra, Phạm luân).

Thế tônPhạm vương (Brahmā) vì ngài thành tựu được Bà-la-môn tánh tối cao (phạm đức vô thượng). Thật vậy, kinh (Madhyama, 34, 12; Saṃyukta, ii, 27) nói: “Đức Thế tôn này là Phạm vương”; kinh còn nói rằng Thế tôntịch tĩnh (śānta) và thanh lương (śītībhūta).

Bánh xe (cakra) này thuộc về ngài; vì thế bánh xe này là của Phạm vương bởi vì chính Phạm vương làm cho bánh xe này vận hành.

Kiến đạo (darśanamārga) vốn có thể tánh của một bánh xe (cakraratna, luân bảo) cho nên được gọi là Pháp luân.

(Hỏi) Tại sao kiến đạo lại có thể tánh của một bánh xe?

(Đáp) (1) Bởi vì kiến đạo vận hành nhanh chóng: Nó có thể liễu tri các thánh đế trong mười lăm sát-na của tâm; (2) bởi vì nó xả bỏ một nơi này và chiếm thủ một nơi khác (tyajanakramaṇa): Xả bỏ Vô gián đạo và chiếm thủ Giải thoát đạo; (3) bởi vì nó chế ngự các pháp chưa dược chế ngựhàng phục các pháp đã được chế ngự (ajitajayajitādhyāvasana), chế ngự các phiền não nhờ vào Vô gián đạo bằng cách chặt đứt sự hoạch đắc các phiền não này; hàng phục các phiền não đã được Giải thoát đạo trấn áp bằng cách đắc được sự ly hệ đối với các phiền não này; (4) bởi vì nó có thể chuyển vận lên xuống, tức có khi là Vô gián đạo, có khi là Giải thoát đạo, có khi duyên Dục giới, có khi duyên các giới khác cao hơn.

Tôn giả Diệu âm (Bhadanta Ghoṣaka) nói rằng giống như bánh xe có tăm xe, v.v., thánh đạo cũng có tám chi, v.v. nên gọi là “luân”: Chánh kiến (samyagdṛṣṭi), chánh tư duy (samyakṣaṃkalpa), chánh cần (samyagvyāyāma), chánh niệm (samyaksmṛti) giống như tăm xe; chánh ngữ (samyagvāc), chánh nghiệp (samyakkarmānta), chánh mạng (samyagājīva) giống như trục xe; chánh định giống như vành xe.

(Hỏi) Căn cứ vào cái gì để nói rằng pháp luân chính là kiến đạo?

(Đáp) Kinh (Āgama) nói rằng vào lúc kiến đạo sinh khởi ở Kiều-trần-na (Kauṇḍinya), v.v., thì (chư thiên) đều nói rằng bánh xe chánh pháp đã được chuyển.

(Hỏi) Tại sao kiến đạo được gọi là ba chuyển (triparivarta) và mười hai hành tướng ()?

(Đáp) Tỳ-bà-sa nói: Ba chuyển là (1) đây là khổ thánh đế, (2) khổ thánh đế phải được liễu tri (ưng biến tri), (3) khổ thánh đế được liễu tri (dĩ biến tri). Trong mỗi một lần chuyển lại phát sinh riêng các hành tướng là sự nhìn thấy (cakṣus, nhãn), trí (jñāna), minh (vidyā), và giác (buddhi). Tổng cộng cả ba lần chuyển có tất cả mười hai hành tướng (ākāra).

Đối với các thánh đế khác cũng như vậy: Đây là tập thánh đế, v.v..

Vì các chuyển và các hành tướng đều giống nhau đối với mỗi thánh đế cho nên nói rằng pháp luân có ba chuyển và mười hai hành tướng chứ không phải mười hai chuyển và bốn mươi tám hành tướng. Cũng giống như “bài giảng về hai pháp” (dvayadeśanāvat) là một bài giảng về một số lượng lớn các pháp vận hành nhờ vào hai pháp (nhãn và sắc, nhĩ và thanh, v.v.); cũng giống như khi một người “giỏi bảy việc” là hàm ý người này tài giỏi trong rất nhiều trường hợp có bảy việc.

Theo thứ tự trên, ba chuyển tương xứng với kiến đạo, tu và vô học đạo (darśanamārga, bhāvanāmārga, aśaikṣamārga). Đây là giải thích của Tỳ-bà-sa.

(Hỏi) Nếu nói như vậy, kiến đạo sẽ không có ba chuyển và mười hai hành tướng thì làm thế nào pháp luân có thể là kiến đạo?

(Đáp) Cần phải hiểu rằng pháp luân chính là bài thuyết này (dharmaparyāya), tức bài thuyết pháp ở thành Bénarēs đã làm vận chuyển (pravartana) bánh xe chánh pháp, bài thuyết pháp có đủ ba chuyển và mười hai hành tướng: Có ba chuyển vì đã làm cho các thánh đế vận chuyển ba lần [(a) đây là khổ, tập, diệt, đạo; (b) điều này phải được liễu tri; (c) điều này được liễu tri, đoạn trừ, chứng đắc, tu tập]; có mười hai hành tướng vì đã quán xét mỗi thánh đế dưới ba hành tướng [(a) thể tánh của các đế (satyasvarūpa); (b) tác dụng của các đế; (c) sự đạt đến tác dụng này].

Khi nói “làm vận chuyển” bài pháp này có nghĩa là bài pháp này đã vận hành (gamana), đã được ném (preraṇa) vào sự hiểu biết của người khác (parasaṃtāne); bài pháp này đi vào sự hiểu biết của người khác có nghĩa là nó làm cho người khác hiểu được nó (arthajñāpana).

Hoặc chính tất cả thánh đạo, tức kiến đạo, Tu đạovô học đạo, đều là pháp luân bởi vì nó đi thâm nhập vào sự hiểu biết của những người có tín tâm (vineya). Nếu kinh nói rằng bánh xe được vận chuyển (pravartita) khi () chứng được kiến đạo thì chính tiếp đầu ngữ pra đã hàm nghĩa là sự khởi đầu của hành động: pravartita có nghĩa là cái bắt đầu vartita. Khi kiến đạo được sinh khởi trong sự hiểu biết của người khác, trong sự hiểu biết của Kauṇḍinya thì bánh xe chánh pháp bắt đầu được chuyển động, bắt đầu được ném vào sự hiểu biết của người khác.

(Hỏi) Có bao nhiêu quả Sa-môn đắc được ở mỗi giới?

Tụng đáp:

 

三依欲後三 由上無見道
無聞無緣下 無厭及經故.

[Ba quả ở Dục giới,

Quả cuối cùng ở cả tam giới

Do thượng giới không có kiến đạo

Vì không có nghe, không duyên hạ giới,

Không có chán ghét và không sợ hãi.]

 

Luận: Ba quả chỉ đắc được ở Dục giới, chứ không phải ở các nơi khác. Điều này có nghĩa chỉ đắc được bởi các chúng sinh sinh ở Dục giới. Quả A-la-hán đắc được ở cả tam giới.

(Hỏi) Hai quả đầu tiên vì thánh giả chưa ly dục nên nói rằng không đắc được ở thượng giới; nhưng đối với quả thứ ba, tại sao cũng không đắc được ở thượng giới?

(Đáp) Vì ở bên trên Dục giới không có kiến đạo. Vì không có kiến đạo cho nên một người vốn đã xả ly Dục giới (virkta) và tái sinh vào một cõi trời cao hơn không thể đắc được quả bất hoàn.

(Hỏi) Tại sao ở đó không có kiến đạo?

(Đáp) Vì ở Vô sắc giới không có sự nghe pháp (śravaṇa); vì kiến đạo chỉ duyên Dục giới.

Sắc giới thì dị sinh hoàn toàn đam trước vào sự an lạc của định: Tất cả khổ thọ đều không có ở đó; vì thế sự yểm ly (saṃvega) cũng không thể có ở đó; và người ta chỉ có thể nhập vào thánh đạo khi có sự yểm ly.

Hơn nữa, kinh đã nói: “Năm hạng người (bổ-đặc-già-la) - tức trung bát Niết-bàn là hạng đầu tiên và thượng lưu là hạng cuối cùng - thông đạt ở xứ này và thành tựu ở xứ kia.”

Ở đây khi nói “thông đạt” là nhằm chỉ cho sự lập thành thánh đạo ) bởi vì thánh đạophương tiện (upāya) của Niết-bàn. Vì thế thượng giới nhất định không có kiến đạo.

 

Phần 24

Phần trên có nói nếu A-la-hán thuộc loại bất động (akopya) thì sau thánh trí sẽ sinh khởi vô sinh trí (anutpādajñāna); có phải nói như vậy là hàm ý vẫn có sự khác nhau giữa các A-la-hán thuộc hàng dự lưu, v.v.?

(Đáp) vẫn có sự khác nhau.

(Hỏi) Khác nhau như thế nào?

Tụng đáp:

 

阿羅漢有六 謂退至不動
前五信解生 總名時解脫
後不時解脫 從前見至生.

[A-la-hán có sáu hạng

Là thối pháp cho đến bất động.

Năm hạng đầu sinh từ tín giải,

Đều gọi là thời giải thoát.

Hạng cuối là bất thời giải thoát.

Sinh từ Kiến chí trước đó.]

 

Luận: Kinh (Madhyama, 30, 4; Saṃyukta, 33, 10) nói có sáu loại A-la-hán là Thối pháp (parihāṇadharman), Tư pháp (cetanādharman), Hộ pháp (anurakṣaṇādharman), An trụ (sthitākampya), Kham đạt pháp (prativedhanādharman), Bất động pháp (akpopyadharman).

Năm loại đầu sinh từ loại tín giải (śraddhādhimukta). Sự giải thoát về tâm (cetovimukti) của năm loại A-la-hán này mang tính chất thời cơ (samayikī) và đáng ưa (kāntā) bởi vì họ luôn luôn giữ gìn sự giải thoát này. Vì thế các A-la-hán này được gọi là Thời giải thoát (samayavimukta). Phải tùy thuộc vào (apekṣa) thời cơ thì các hạng A-la-hán này mới được giải thoát (vimukta); vì thế tên gọi trên đây (samayavimukta) đã được lập thành bằng cách lược bỏ một từ ở giữa (sơ ngôn) là apekṣa (đãi), cũng giống như khi nói “bình bơ” (ghṛtaghaṭa) là để chỉ cho cái bình đựng bơ.

Đối với hạng A-la-hán này, sự tu định (samādhisaṃmukhibhāva) phải tùy thuộc vào thời cơ, tức phải đợi đến khi có các vật dụng cần thiết (upakaraṇa), khi không mang bệnh và có được nơi tu tập.

Sự giải thoát của các A-la-hán Bất động không thể bị lay động bởi vì họ không thể thối thất sự giải thoát này; vì thế họ có tên là Bất động. Họ còn được gọi là Bất thời giải thoát (asamayavimukta). Họ nhập định tùy theo ý muốn của mình cho nên được giải thoát mà không phải tùy thuộc vào thời cơ (samaya). 

Samaya Còn có nghĩa là thời gian; có nghĩa là năm loại A-la-hán đầu tiên còn bị thối đọa từ sự giải thoát này (vimukti) vì thế họ thuộc loại “được giải thoát trong một thời gian” (kālātara, tạm thời giải thoát) trong khi loại thứ sáu không còn bị thối đọa và đã được giải thoát vĩnh viễn (atyanvimukti) vì thế gọi là Bất thời giải thoát.

Các A-la-hán này sinh khởi từ loại Kiến chí (dṛṣṭiprāpta).

(Hỏi) Sáu loại A-la-hán nói trên có các chủng tánh này (gotra) ngay từ đầu hay chỉ mới đắc được sau này?

Tụng đáp:

 

有是先種性 有後練根得.

[Có trường hợp đắc ngay từ đầu,

trường hợp đắc sau khi luyện căn.]

 

Luận: Có trường hợp ngay từ đầu đã là Tư pháp A-la-hán (cetanādharman); có trường hợp sau khi đã là Thối pháp A-la-hán thì phải làm cho các căn thanh tịnh hoặc viên mãn (uttāpana) căn mới trở thành Tư pháp. Và cứ tiếp tục như thế.

(1) Thối pháp A-la-hán là A-la-hán còn bị thối đọa và không phải là Tư pháp, v.v., cũng không phải là Kham đạt pháp (prativedhanādharman).

(2) Tư pháp A-la-hán là A-la-hán còn phải kết thúc sự tồn tại của mình (cetayitum), và không phải là Hộ pháp (anurakṣaṇādharman), v.v..

(3) Hộ pháp A-la-hán là A-la-hán còn phải phòng hộ.

(4) An trụ A-la-hán là A-la-hán không bị lay động khi không có các nhân thối đọa mạnh mẽ (thắng thối duyên), ngay cả khi không có sự phòng hộ, có nghĩa là vẫn trụ lại ở quả. Họ là những A-la-hán không tăng tiến (vardhayitum) vì không bị thối đọa, và không có gia hành (abhiyoga).

(5) Kham đạt pháp A-la-hán (prativedhanādharman = prativedhanābhavya) là A-la-hán không cần gia hành (abhiyoga) mà vẫn có thể “đạt đến” (prativeddhum) loại Bất động A-la-hán.

(6) Bất động A-la-hán là A-la-hán không còn bị thối đọa.

Hai loại đầu tiên, khi còn thuộc hàng hữu học, đã thiếu sự nỗ lực liên tục và mãnh liệt (sātaya, satkṛtyaprayoga); loai thứ ba chỉ có sự nỗ lực liên tục; loại thứ tư chỉ có sự nỗ lực mãnh liệt; loại thứ năm có cả hai loại nỗ lực nhưng căn lại muộn độn; chỉ có loại thứ sáu có cả hai loại nỗ lựclợi căn.

Thối pháp A-la-hán không nhất định phải bị thối đọa; và các loại sau đó cũng như vậy: Kham đạt A-la-hán không nhất định phải “đạt đến” (quả vị Bất động A-la-hán). Sở dĩ các thánh giả này có tên gọi khác nhau bởi vì có thể có trường hợp họ còn bị thối đọa, v.v.. Vì nguyên tắc này (Vibhāṣā, 62, 4) đã được thừa nhận cho nên có thể kết luận rằng cả sáu loại A-la-hán đều có thể hiện hữu ở tam giới.

Tuy nhiên nếu theo giả thiết Thối pháp A-la-hán là A-la-hán nhất định bị thối đọa, v.v., và Kham đạt A-la-hán là A-la-hán nhất định phải đạt đến thì kết luận trên sẽ bị thay đổi: (1) Sáu loại A-la-hán đều có ở Dục giới; (2) chỉ có hai loại An trụ và Bất động A-la-hán ở các giới trên (thượng giới) bởi vì ở đó không có (a) sự thối đọa (parihāṇi) vì thế không có Thối pháp A-la-hán và Hộ pháp A-la-hán bởi vì sẽ không có việc phòng hộ thối thất; (b) cũng không có tư (cetanā) vì không có Tư pháp A-la-hán; (c) cũng không có sự làm viên mãn các căn vì thế không có Kham đạt A-la-hán bởi vì hàng A-la-hán này phải rèn luyện các căn thật mãnh lợi mới có thể “đạt đến”, mới có thể trở thành Bất động A-la-hán.

(Hỏi) Trong năm loại đầu, loại nào thối đọa từ chủng tánh và loại nào thối đọa từ quả?

Tụng đáp:

 

四從種性退 五從果非先

[Bốn loại thối đọa từ chủng tánh;

Năm loại từ quả; không thối đọa từ (chủng tánh và quả) đầu tiên.]

 

Luận: Bốn loại A-la-hán [từ Tư pháp cho đến Kham đạt] bị thối đọa từ chủng tánh; năm loại A-la-hán [từ Thối đọa cho đến Kham đạt] cũng bị thối đọa từ quả.

Tuy nhiên không có trường hợp thối đọa từ chủng tánhquả đầu tiên:

(1) Thánh giả A-la-hán không bị thối đọa từ chủng tánh đầu tiên, tức chủng tánh đã đắc được trước khi trở thành A-la-hán bởi vì chủng tánh này đã được làm cho kiến cố (dṛḍhīkṛta) bởi hữu học đạo và vô học đạo. thánh giả hữu học không thối đọa từ chủng tánh đầu tiên vì chủng tánh này đã được thế tục đạo và xuất thế đạo làm cho kiên cố. Không thể có trường hợp bị thối đọa từ loại chủng tánh đã đắc được nhờ luyện căn (uttāpanāgatāt tu parihīyate).

(2) Thánh giả không thối đọa từ quả đầu tiên đã đắc được, nhưng có thể thối đọa từ các quả khác. Như vậy họ sẽ không bị thối đọa từ quả dự lưu.

Theo hai nguyên tắc trên sẽ có (1) ba trường hợp có thể xảy ra đối với hàng Thối pháp A-la-hán: Họ có thể đắc được Niết-bàn mà vẫn còn giữ nguyên chủng tánh của mình (trụ tự vị nhi bát Niết-bàn), hoặc có thể làm viên mãn các căn (tăng tiến căn), hoặc có thể thối đọa và trở lại hàng hữu học (thối trụ học); (2) bốn trường hợp có thể xảy ra đối với hàng Tư pháp A-la-hán: Ba trường hợp giống như ở trên, cộng thêm trường hợp có thể bị thối đọa và trở lại hàng Thối pháp A-la-hán; (3) và tiếp theo là năm, sáu và bảy trường hợp có thể xảy ra đối với các hàng Hộ pháp, An trụ và Kham đạt A-la-hán (tức cộng thêm các trường hợp: hoặc trở lại hàng Tư pháp A-la-hán, v.v.) (Vibhāṣā 62, 5).

Khi một A-la-hán trở lại hàng hữu học sẽ trụ ở chủng tánh giống như chủng tánh đầu tiên của mình. Nếu không phải như vậy thì khi đắc được một chủng tánh cao hơn, lẽ ra thánh giả chỉ có thăng tiến chứ không có thối đọa.

(Hỏi) Tại sao không thể thối đọa từ quả đầu tiên?

(Đáp) Bởi vì các phiền não thuộc Kiến đoạn không có sở y (avastuka = anadhiṣṭhāna): Thật vậy, khi có căn là hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi) thì các phiền não mới hiện hữu với ngã (ātman) làm sở y (ātmādhiṣṭhānapravṛtta, ngã xứ chuyển); nhưng ở trường hợp này thì không có ngã.

(Hỏi) Như vậy có phải các phiền não này có sở duyên (ālambana) là một sự vật không hiện hữu?

(Đáp) Không phải. Chúng vẫn có cảnh là các đế, (chúng vẫn quán sát các thủ uẩnvô thường, v.v.); vì thế không phải sở duyên của chúng là một sự vật không hiện hữu; tuy nhiên chúng không thể duyên các cảnh này một cách chính xác (vitathālambana, bất như thực duyên).

(Hỏi) Các phiền não thuộc tu đoạn khác nhau ở điểm nào khi mà chúng cũng duyên cảnh không chính xác giống như các phiền não thuộc kiến đoạn?

(Đáp) Chúng vẫn khác với các phiền não thuộc kiến đoạn. Người ta thấy rõ rằng ý tưởng về ngã (ātmadṛṣṭi) mê chấp các thực pháp như sắc (rūpa), v.v. - vốn không phải là “ngã”, không phải là “ngã tưởng” - có các hành tướng của một thực thể có tạo tác, có cảm thọ, có các hành tướng của một đấng Đại tự tại (Īśvara). Và các loại kiến khác như Biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi), v.v., cũng hiện hữu được nhờ lấy chính ngã tướng này (ātmatva) làm sở y; như vậy sở y của chúng là không thực hữu (y vô sự hoặc), có nghĩa là chúng không có sở y. Trái lại, các phiền não khác với các phiền não thuộc kiến đoạn, tức các phiền não được đoạn trừ bởi Tu đạo (bhāvanā) như tham, sân, mạn, nghi lại có tính chất nhiễm trước, chán ghét, thỏa mãn, mê mờ đối với sắc pháp (rūpa), v.v.; vì thế nếu nói một cách tuyệt đối thì chúng vẫn có sở y. Bởi vì các cảnh đáng ưa (amanāpa, khả ý), không đáng ưa, v.v., của chúng vẫn thực hữu; trong khi đó vẫn không hề có dấu vết của ngã, ngã sở, Đại tự tại, v.v..

Một giải thích khác cho rằng các phiền não thuộc tu đoạn có một sở y nhất định (pratiniyata), mang một tính chất rõ ràng như đáng ưa, không đáng ưa, v.v.. Trong khi đối với các phiền não thuộc kiến đoạn thì không có một sở y nhất định nào mang các tính chất của ngã hoặc ngã sở; vì thế chúng không có sở y.

Một điểm khác nữa là đối với hàng thánh giả (Ārya = Śaikṣa) không suy nghĩ (upanidhyāyati = saṃtīrayati, thẩm lự) thì các phiền não thuộc tu đoạn có thể khởi dậy do bị thất niệm; nhưng các phiền não này không thể khởi dậy ở hàng thánh giả có thẩm lự. Cũng giống như trường hợp tưởng lầm sợi dây là con rắn nếu không quán sát kỹ (Vibhāṣā, 8, 1); [cũng giống như khi thiếu sự chú ý thì người ta sẽ quên mất tính chất siêu hình của các sự vật khả ývô thường, khổ, v.v.]. Trái lại sự sai lầm của ngã kiến không thể khởi dậy ở các thánh giả không thẩm lự bởi vì loại tà kiến này chỉ là một sản phẩm của sự suy đạc (saṃtīrakatvāt).

Như vậy thánh giả không thể thối đọa từ sự đoạn trừ các phiền não mà họ đã đoạn được nhờ vào kiến đạo (thánh kiến đoạn).

Các luận sư Kinh bộ nói rằng thánh giả không còn bị thối đọa từ quả vị A-la-hán. Và ý kiến của họ thì chính xác về cả giáo chứng cũng như lý chứng.

1. Giáo chứng

Kinh (Madhyamāgama, 23, 12; Saṃyutta, iv, 25) nói: “Này các Bí-sô, cái được đoạn trừ chính là cái được đoạn trừ bởi thánh tuệ”.

Kinh (Madhayama, 51, 18; Saṃyukta, 8, 16; Saṃyutta, iv, 25) nói: “ta tuyên bố rằng hàng hữu học cần phải tu bất phóng dật”. Thế tôn không nói điều này đối với hạng A-la-hán.

Chắc chắnThế tôn có nói: “Này A-nan, ta tuyên bố rằng ngay cả đối với A-la-hán thì các thứ tư hữudanh vọng cũng là nguyên nhân của chướng ngại”. Trong khi đó kinh (Madhyamāgama, 49, 21; Saṃyutta, i, 239) lại nói rõ rằng nếu A-la-hán bị thối đọa thì đó chỉ là thối đọa từ Hiện pháp lạc trú (dṛṣṭadharmasukhavihāra): “Về sự giải thoát của tâm thuộc loại bất động (akopyā cetovimukti, bất động tâm giải thoát), [một sự giải thoát] được làm hiện khởi qua thân (thân tác chứng), thì ta tuyên bố rằng nhất định không còn sự thối đọa từ nó”.

Nhưng Tỳ-bà-sa trả lời rằng Thế tôn chỉ nói không bị thối đọa từ tâm giải thoát thuộc loại bất động; do đó vẫn có trường hợp thối đọa khi sự giải thoát này có tính chất tạm thời (sāmayikī). Chúng tôi đồng ý rằng vẫn có sự thối đọa từ loại tâm giải thoát tạm thời. Tuy nhiên, sự giải thoát này là gì? Có phải đó là quả A-la-hán (ứng quả tánh) như các ông nghĩ? Và chẳng lẽ không thể tin rằng khi nói “tạm thời giải thoát” là Thế tôn có ý chỉ cho các tầng thiền thuộc thế tục sao?

Loại thiền định (đẳng trì) bao hàm các tầng thiền căn bổn, khi được tu chứng trong một số trường hợp nào đó - chẳng hạn như ở một nơi không có tiếng ồn, v.v., - vẫn được gọi tên là “sự giải thoát tạm thời” (sāmayikī, thời giải thoát); và nó còn có tên là “sự giải thoát đáng ưa” (kāntā, ái giải thoát) bởi vì mỗi lần bị thối thất thì người ta vẫn mong cầu có lại (kāmanīya) để thọ hưởng các pháp lạc (dṛṣṭadharmasukhavihāra). Có luận sư khác (Bhadanta Rāma) nói rằng loại thiền định này có tên là “Sự giải thoát tạm thời” bởi vì vốn là hữu lậu nên nó thuộc về nhóm các pháp “còn được ham muốn”. 

Trái lại, loại giải thoát tạo thành phẩm tánh A-la-hán không có tính chất tạm thời vì được hoạch đắc thường xuyên (nityānugatatvāt; prātiyogena); nó cũng không còn là loại “đáng ưa” bởi vì người ta không thể tìm kiếm trở lại (prāthanīya) loại giải thoát này. Nếu như còn có trường hợp bị thối đọa từ phẩm tánh A-la-hán thì tại sao Thế tôn lại nói rằng A-la-hán chỉ có thể thối đọa từ Hiện pháp lạc trụ? Vì thế loại tâm giải thoát bất động thuộc về tất cả các A-la-hán.

Một vị A-la-hán thối thất Hiện pháp lạc trụ khi vị này đánh mất sự tự tại đối với thiền định vì bị lợi dưỡng làm cho tán tâm (vyākṣipta); và đây là trường hợp của các hàng A-la-hán độn căn. Nếu thuộc hàng lợi căn thì một A-la-hán không thể thối thất Hiện pháp lạc trụ. A-la-hán thối thất Pháp lạc được gọi là Thối pháp (parihānadharman); và không thối thất pháp lạc thì gọi là Bất thối pháp (aparihānadharman). Các trường hợp của Tư pháp, v.v., cũng được giải thích giống như vậy.

(Hỏi) Bất thối pháp, An trụ và Bất động khác nhau như thế nào?

(Đáp) Loại thứ nhất chưa làm cho các căn trở nên viên mãn (anuttāpanāgata): Các căn này vốn đã mãnh lợi ngay từ đầu; loại thứ ba đã làm cho các căn trở nên viên mãn: Cả hai loại này không còn thối đọa từ các loại thiền định (samādhiviśeṣa, thù thắng đẳng chí) đã đắc được. Loại thứ hai không còn bị thối đọa từ các phẩm tánh mà họ đang an trụ; nhưng họ không thể khởi các phẩm tánh khác (guṇaviśeṣa) hoặc nếu có khởi thì vẫn có thể bị lay động (tasmāt tu kampate). Đó là sự khác nhau của ba loại thánh giả này.

(Hỏi) Tuy nhiên trong trường hợp của Kiều-ma-ka (Āyuṣman Godhika), tại sao không bị thối thất quả A-la-hán?

(Đáp) Khi còn thuộc hàng hữu học, vì còn quá nhiều mong cầu (āsvādanā) và độn căn nên Kiều-ma-ka đã nhiều lần bị thối thất loại giải thoát tạm thời: Vì lòng chán ghét (saṃvega; yếm trách) nên Kiều-ma-ka đã tự hại mình bằng dao. Do không luyến tiếc thân mạng nên đã đắc quả A-la-hán ngay khi mạng chung và đã nhập được Niết-bàn. Vì thế Kiều-ma-ka không bị thối thất quả A-la-hán.

Kinh Tăng thập (Daśottara) nói: “Có một pháp nên khởi (utpādayitavya) là thời ái tâm giải thoát. Có một pháp nên chứng là Bất động tâm giải thoát”.

Nếu thời ái tâm giải thoát là phẩm tánh của A-la-hán và vì thế phẩm tánh này sẽ có hai loại thì tại sao trong các kinh điển chỉ có kinh Tăng thập đề cập đến hai lần loại phẩm tánh này dưới hai tên gọi khác nhau? Hơn nữa, không có kinh nào nói rằng “nên khởi phẩm tánh A-la-hán” mà chỉ nói là “nên chứng phẩm tánh A-la-hán”.

Có phải các ông sẽ nói rằng phẩm tánh A-la-hán khi kết hợp với các căn muội độn (mṛdvindriyasaṃgṛhīta) tất sẽ sinh khởi? Các ông muốn ám chỉ điều gì khi nói như vậy? Có thể “khởi” được phẩm tánh A-la-hán không? Nếu được thì loại phẩm tánh A-la-hán kết hợp với các căn mãnh lợi cũng sẽ phải được sinh khởi. Loại phẩm tánh A-la-hán thứ nhất còn được sinh khởi huống hồ là loại phẩm tánh A-la-hán thứ hai.

thế sự giải thoát tạm thời không phải là phẩm tánh A-la-hán.

(Hỏi) Nếu vậy, tại sao kinh lại nói đến loại A-la-hán thuộc “thời giải thoát” (samayavimukta)?

(Đáp) Đó là trường hợp A-la-hán vì độn căn nên phải tùy thuộc vào các thời cơliên quan đến sự hiện khởi của định. Trái với trường hợp này là loại A-la-hán thuộc “bất thời giải thoát”.

Theo A-tỳ-đạt-ma, có ba nguyên nhân (sthāna, xứ) phát sinh dục tham (kāmarāga): (1) Tùy miên dục tham chưa được hoàn toàn liễu tri (prajñāta, biến tri), chưa được đoạn trừ; (2) các pháp hiện khởi thuận lợi cho sự bộc phát của dục tham; (3) có sự phán đoán sai lạc (ayoniśomanasikāra, phi lý tác ý). [Nhưng trong trường hợp của A-la-hán thì không thể có tất cả các nguyên nhân này.]

Có phải người ta sẽ nói rằng A-tỳ-đạt-ma chỉ nói đến loại dục tham do toàn bộ các nhân này sinh khởi (paripūrṇakāraṇa) [trong lúc vẫn có trường hợp dục tham sinh khởi mà không cần phải có đủ các nhân (aparipūrṇakāraṇa), tức chỉ nhờ vào lực của ngoại duyên (viṣaya)]. Tuy nhiên, có loại pháp nào có thể sinh khởi mà không cần phải đủ tất cả các nhân?

2. Lý chứng:

Ở A-la-hán có sinh khởi các pháp đối trị lại (pratipakṣa) các phiền não và do thể tánh của các pháp này mà các phiền não bị đưa vào “tình trạng tuyệt đối không còn khả năng sinh khởi” mà trở thành loại pháp vô sinh (anutpattidharman). Như vậy A-la-hán làm sao có thể thối đọa được?

Có phải các ông sẽ nói rằng các pháp như thế không thể sinh khởi ở A-la-hán; rằng các phiền não vẫn tồn tại ở A-la-hán dưới dạng chủng tử và chúng sẽ tạo thành chủng tử của các phiền não chưa được hoàn toàn nhổ bật tận gốc (vĩnh bạt)? Nếu đúng như vậy thì làm sao có thể nói rằng A-la-hán là người đã tận trừ tất cả các lậu hoặc (kṣīṇasrava)? Và nếu không phải là lậu tận thì làm sao có thể nói đó là A-la-hán?

Tuy nhiên Tỳ-bà-sa cho rằng chủ trương về sự không thối đọa của A-la-hán trái ngược với kinh Thán dụ (Angārakarṣūpama).

Kinh này (Saṃyutta, iv. 190; Saṃyukta, 43, 14) nói: “Đối với một thánh giả đa văn (Ārya Śrāvaka) y theo một nguyên tắc sống như thế, trải qua thời giờ của mình như thế (evaṃ carata evaṃ viharatas), thỉnh thoảngthất niệm vẫn có thể khởi các tâm xấu”. Và vị thánh giả đa văn này không phải là hàng hữu học mà là một A-la-hán bởi vì kinh còn nói thêm: “Trong một thời gian dài tâm của vị này hướng đến sự viễn ly phiền não, …. Tâm của vị này hướng đến Niết-bàn.” Và qua các kinh khác (Anguttara, iv. 224; Saṃyukta, 26, 23) chúng ta cũng biết được rằng các phẩm tánh như “hướng tâm đến sự viễn ly”, v.v., là một trong các sức mạnh của A-la-hán, sức mạnh này còn được khẳng định qua câu kinh: “Tâm của vị này trở nên mát lạnh (śīlībhūta, thanh lương), được tẩy sạch (vāntībhūta), đối với tất cả các pháp vốn là nơi ẩn náu của các lậu hoặc.”

Chúng tôi xin trả lời rằng: Đúng là các kinh có nói như vậy. Tuy nhiên kinh Thán dụ lại có ý chỉ cho hàng hữu học chứ không phải là A-la-hán. Thật vậy, chỉ đối với hàng hữu học kinh mới nói: “Chừng nào những bước đi của các Bí-sô (cāra) còn chưa được “hiểu rõ” (thiện thông đạt) thì phiền não thỉnh thoảng vẫn sinh khởi ở vị này ngay cả khi đang có những bước đi như thế.”

Các luận sư Tỳ-bà-sa chủ trương vẫn có sự thối đọa từ qủa vị A-la-hán.

(Hỏi) Chỉ có hạng A-la-hán có sáu loại chủng tánh này hay các hạng thánh giả khác cũng có như vậy? Nếu có thì có thể tu luyện căn không?

Tụng đáp:

 

學異生亦六 練根非見道.

[Hữu học, dị sinh cũng có sáu loại;

Luyện căn không có ở kiến đạo.]

 

Luận: Hữu họcdị sinh cũng có sáu chủng tánh như vậy. Các chủng tánh của A-la-hán cũng bắt đầu từ các chủng tánh này.

Các căn có thể được hoàn thiện (indriyasaṃcāra, luyện căn) ở ngoài kiến đạo chứ không phải trong khi đang đi trên thánh đạo này. Kiến đạocon đường vận hành rất nhanh chóng (trong toàn bộ mười lằm sát-na) và hành giả không thể thực hiện được loại gia hành cần thiết cho việc hoàn thiện các căn trong suốt thời gian này.

trường hợp hoàn thiện các căn là loại dị sinh; nhưng cũng có trường hợp hoàn thiện các căn là loại tín giải (Śraddhādhimuktas).

Một bản kinh được trích dẫn ở trên có nói: “Ta tuyên bố rằng trong bốn loại hiện pháp lạc trụ mà một thánh giả đã đắc được thì thánh giả này có thể thối đọa từ bất kỳ loại nào trong bốn loại này; nhưng đối với tâm giải thoát bất động mà một thánh giả đã chứng đắc thì ta tuyên bố rằng tuyệt đối không thể thối đọa từ loại tâm giải thoát này.”

A-la-hán thối đọa từ các hiện pháp lạc trụ như thế nào?

Tụng đáp:

 

應知退有三 已未得受用
佛唯有最後 利中後鈍三.

[Thối đọa có ba loại:

Đã đắc, chưa đắc, thọ dụng.

Phật chỉ có loại cuối; 

Lợi căn có loại giữa và cuối; độn căn cả ba loại.]

 

Luận: Có ba trường hợp thối đọa:

Thối đọa từ sự hoạch đắc một công đức thù thắng (guṇa) tức là sự thối đọa từ những gì đã đắc được (dĩ đắc thối).

Chưa đắc được một công đức thù thắng tức là sự thối đọa từ những gì chưa đắc được (vị đắc thối).

Chưa làm hiện khởi một công đức thù thắng đã đắc được tức là sự thối đọa từ sự thọ dụng (upabhoga).

Trong số các sự thối đọa này, (1) đức Phật chỉ thối đọa từ sự thọ dụng: [vì nghĩ đến sự an lạc của chúng sinh nên ngài đã ngừng thọ dụng các pháp lạc]; (2) hàng Bất động pháp thối đọa từ sự thọ dụng và từ những gì chưa đắc được: Bởi vì không nhất định đã đắc được các pháp thuộc về các cá nhân thù thắng (pudgalaviśeṣa, thắng kỷ); (3) các A-la-hán không thuộc bất động pháp cũng bị thối đọa từ những gì đã đắc được.

Như vậy sự kiện hàng Bất động pháp bị thối đọa từ sự thọ dụng không tương vi với bản kinh nói trên.

Các luận sư không thừa nhận có sự thối đọa (aparihāṇivādin, vô thối luận giả) nói: “Sự giải thoát vô lậu của tất cả A-la-hán đều là bất động: Nhưng hạng Bất động pháp đã được định nghĩa giống như chúng tôi đã nói ở trên vì thế không thể đưa ra vấn nạn: Hạng Bất động pháp bị thối đọa từ các pháp lạc như thế nào?

(Hỏi) Thánh giả khi bị thối đọa quả A-la-hán có phải tái sinh không? Khi bị thối đọa, vị này có làm những việc đã không làm khi còn trụ quả không?

Tụng đáp:

 

一切從果退 必得不命終
住果所不為 慚增故不作.

[Chắc chắn khi đang thối quả

Thì không thể mạng chung;

Những gì không làm khi còn trụ quả

Vì tàm tăng trưởng nên cũng không làm.]

 

Luận: Thánh giả không bao giờ chết ở giai đoạn thối quả. Kinh nói: “Này các Bí-sô, thánh giả đa văn có thể đánh mất chánh niệm, chánh niệm của vị này có thể bị chậm lại. Tuy nhiên vị này có thể nhanh chóng vứt bỏ, làm cho biến mất, hủy diệt, loại trừ [sự thất niệm này]”. 

Nếu không phải như vậy thì khi một người đã trở thành A-la-hán nhưng bị thối thất quả mà vẫn có thể bị luân chuyển trong vòng sinh tử thì đời sống tu hành (brahmacarya, phạm hạnh) sẽ không còn có thể làm cho chúng sinh tin tưởng (anāśvāsika).

Một người bị thối quả không làm những việc mà một người trụ quả đã không thể làm. Ngay cả khi bị thối đọa, người này sẽ không làm những điều đi ngược lại với quả, tức những việc làm thuộc phi phạm hạnh (abrahmacarya). Cũng giống như một tráng sĩ có thể bị lay động nhưng không thể té ngã (śūrapraskhalanāpatnavat).

(Hỏi) Sự hoàn thiện các căn có bao nhiêu Vô gián đạo? Bao nhiêu Giải thoát đạo?

Tụng đáp:

 

練根無學位 九無間解脫
久習故學一 無漏依人三
無學依九地 有學但依六
捨果勝果道 唯得果道故.

[Ở vô học vị, luyện căn có 

Chín Vô gián đạo, chín Giải thoát đạo,

Do tập quán lâu ngày; hữu học chỉ có một;

Tất cả đều vô lậu, nương vào con người ở ba châu;

Vô học nương chín địa,

Hữu học chỉ nương sáu địa

Vì xả quả, thắng quả đạo,

Chỉ đắc quả đạo.]

 

Luận: Hàng kham đạt pháp (prativedhanādharman) khi hoàn thiện các căn và bước vào chủng tánh của hàng bất động pháp phải phát khởi chín Vô gián đạo (ānantaryamārgas), chín Giải thoát đạo (vimuktamārgas), hoàn toàn giống như hàng hữu học đắc quả A-la-hán [phải xả ly hữu đảnh].

(Hỏi) Tại sao như vậy?

(Đáp) Vì hàng Kham đạt pháp đã quá quen với (abhyasta, quán tập) chủng tánh của hàng độn căn nên không thể chuyển đổi chủng tánh này nếu không có sự nỗ lực mạnh mẽ: Thật vậy, chủng tánh này đã được làm cho kiên cố bởi đạo hữu học và đạo vô học.

Một vị thuộc loại tín giải (Śraddhādhimukta) khi chuyển căn để trở thành loại Kiến chí (Dṛṣṭprāpta) thì phải cần đến một Vô gián đạo và một Giải thoát đạo.

Trong cả hai trường hợp đều có một gia hành đạo.

Các Vô gián đạoGiải thoát đạo này đều thuộc tán vô lậu bởi vì các căn của A-la-hán không thể được chuyển bằng các đạo hữu lậu.

(Hỏi) Các căn có thể được chuyển ở đâu?

(Đáp) Chỉ có con người mới có sự chuyển căn; ở các nơi khác đều không có chuyển căn bởi vì ở đó không có sự thối đọa.

(Hỏi) Hạng hữu họcvô học nương vào các địa nào để chuyển căn?

(Đáp) Hạng vô học nương vào chín địa là Vị chí (anāgamya), Trung gian (dhyānantara), bốn tầng thiền và ba định Vô sắc, [bởi vì có thể đắc được cùng một quả A-la-hán khi nương vào các địa này].

Hạng hữu học nương vào sáu địa, tức trừ ba định Vô sắc.

(Hỏi) Tại sao?

(Đáp) Khi hàng hữu học hoàn thiện các căn thì lại xả bỏ một quả (sakṛdāgāmiphala), tức loại quả đã đắc được nhờ con đường của các căn muội độn: Họ xả bỏ Thắng tiến đạo (viśeṣa), tức là sự tiến bộ mà họ đã đắc được - gia hành đạo, Vô gián đạo, Giải thoát đạo, Thắng tiến đạo - trong khi xả ly các tầng thiền, thì sự tiến bộ đã chứng đắc nhờ các căn muội độn. Họ chỉ đắc một quả duy nhất thuộc về chủng tánh lợi căn, loại quả tạo thành một phần của sự xả ly Dục giới chứ không phải là quả Bất hoàn vốn thuộc về Vô sắc giới.

Hạng A-la-hán vì có các căn hoàn toàn khác nên có đến chín địa.

(Hỏi) Có bao nhiêu loại vô học?

Tụng đáp:

 

七聲聞二佛 差別由九根.

[Bảy loại Thanh văn, hai Phật,

Khác nhau do chín căn.]

 

Luận: Có bảy loại Thanh văn, trong đó năm loại bắt đầu từ thối pháp, cộng thêm loại Bất động pháp; loại này được chia thành hai loại tùy theo trường hợp đó là A-la-hán vốn đã thuộc chủng tánh bất động hay là A-la-hán đắc được chủng tánh này nhờ hoàn thiện các căn.

Hai Phật là Bích chi Phật (Pratyekabuddha, Độc giác) và Phật (đại giác) đều thuộc hàng Bất động.

Như vậy có tất cả chín loại (pudgalas) khác nhau vì có các căn hạ hạ, v.v., khác nhau.

Nói chung tất cả thánh giả đều thuộc một trong bảy loại: (1) Tùy ngôn hành (Śraddhānusārin), (2) Tùy pháp hành (Dharmānusārin), (3) Tín giải (Śraddhādhimukta), (4) Kiến khí (Dṛṣṭprāpta), (5) Thân chứng (Kāyasākṣin), (6) Tuệ giải thoát (Prajñāvimukta), (7) Câu giải thoát (Ubhayatobhāgavimukta).

(Hỏi) Tại sao lập thành bảy loại? Có bao nhiêu sự (dravyatas) khác nhau?

Tụng đáp:

 

加行根滅定 解脫故成七
此事別唯六 三道各二故.

[Do gia hành, căn, Diệt định,

Giải thoát nên thành bảy loại;

Nếu xét về sự thì chỉ có sáu

Vì mỗi đạo đều có hai loại.]

 

Luận: (1) Do gia hành (prayoga), như trường hợp của Tùy tín hànhTùy pháp hành. Lúc đầu, khi còn ở giai đoạn của dị sinh, nhờ có tín (śraddhā) nên loại thứ nhất khi có sự thôi thúc của người khác (parapratyayena, có nghĩa là nghe được “nghĩa”, smṛtyupasthānas, v.v., của người khác) mà đã chú tâm (prayoga) đến các “sự” (artheṣu), có nghĩa là đã chú tâm đến tư và tu (cintābhāvanāsevanāt). Loại thứ hai cũng có sự chuyên tâm như vậy nhưng lại dựa theo (anusāra) pháp, tức giáo pháp về mười hai chi, bằng cách tự mình nương theo (anusarati) các pháp, tức là các giác phần (bodhipākṣikas, v.v).

(2) Do căn, như trường hợp của Tín giảiKiến chí. Các căn của hai loại này có tính chất muội độn và mãnh lợi khác nhau do tính chất ưu việt (ādhikya) của ý chí xuất phát từ Tín (śraddhayā adhimokṣaḥ) trong trường hợp thứ nhất, của tuệ (prajñā) trong trường hợp thứ hai.

3. Do định (samāpatti), như trường hợp của thân chứng bởi vì loại này đã chứng đắc được Diệt định (nirodhasamāpatti).

4. Do giải thoát, như trường hợp của tuệ giải thoát.

5. Do định và giải thoát, như trường hợp của câu giải thoát.

Như vậy nếu xét về danh thì có tất cả bảy loại; nhưng nếu xét về sự (dravyatas) thì chỉ có sáu loại.

kiến đạo có hai loại là Tùy tín hànhTùy pháp hành; hai loại này trở thành Tín giảiKiến chíTu đạo, thời giải thoátbất thời giải thoátvô học đạo.

Đối với Tùy tín hành, (1) vì dựa vào căn nên chia làm ba loại: Mặc dù các căn của loại này vốn muội độn nhưng lại thuộc về ba phẩm hạ hạ, hạ trung và hạ thượng khác nhau; (2) vì dựa vào chủng tánh nên chia làm năm loại là thối pháp, v.v.; (3) vì dựa vào đạo nên chia làm mười lăm loại, tức đang ở vào một trong tám nhẫn hoặc bảy trí; (4) vì dựa vào xả ly nên chia làm ba mươi ba loại: Loại thứ nhất còn bị trói buộc với tất cả các loại hệ phược của Dục giới (sakalabandhana, cụ phược), chín loại tiếp theo đã xả ly một cho đến chín nhóm hệ phược của Dục giới, chín loại tiếp theo đã xả ly một cho đến chín nhóm hệ phược của tầng thiền thứ nhất, và cứ tiếp tục như vậy cho đến Vô sở hữu xứ (ākiṃcanya). Tám lần chín - gồm sự xả ly thuộc Dục giới, thuộc bốn tầng thiền, thuộc ba định Vô sắc giới - tạo thành bảy mươi hai loại, cộng thêm loại “cụ phược” tức thành bảy mươi ba loại; (5) vì dựa vào thân sở y (āśraya) nên chia làm chín loại: Sinh ở một trong ba châu (dvīpas), tức loại trừ Bắc châu (Uttarakuru); sinh ở một trong sáu cõi trời thuộc Dục giới. Ở các cõi trên không có kiến đạo.

Như vậy, nếu dựa vào tất cả các sự khác nhau trên đây sẽ có tất cả 147825 loại tùy tín hành. Đối với tùy pháp hành, v.v., cũng được tính theo cách trên.

(Hỏi) Tại sao gọi là Câu giải thoátTuệ giải thoát?

Tụng đáp:

 

俱由得滅定 餘名慧解脫.

[“Câu” vì đắc được Diệt định;

Trường hợp còn lại là Tuệ giải thoát.]

 

Luận: Thánh giả đã nhập Diệt tận định (nirodhasamāpatti) được gọi là “giải thoát đôi”, bởi vì nhờ vào sức mạnh của tuệ (prajñā) và định (samādhi) mà giải thoát được phiền não chướng (kleśavaraṇa) và giải thoát chướng (vimokṣavaraṇa).

Thế tôn nói: “Người đã đoạn được năm phiền nãothế gian này và không còn bị thối đọa chính là bậc hữu học toàn mãn (học mãn).

(Hỏi) Do những nguyên nhân nào mà bậc hữu họcvô học được gọi là toàn mãn?

Tụng đáp:

 

有學名為滿 由根果定三
無學得滿名 但由根定二.

[Hữu học được gọi là toàn mãn

Do ba pháp căn, quả và định;

Vô học có tên là toàn mãn

Chỉ do hai pháp căn và định.]

 

Luận: Bậc hữu học toàn mãn thuộc về ba loại, toàn mãn về quả, về căn và về định.

Chỉ toàn mãn về quả là hàng bất hoàn thuộc loại Tín giải chứ không phải thân chứng (vị đắc Diệt tận định).

Chỉ toàn mãn về căn là hàng thánh giả thuộc loại Kiến chí chưa xả ly Dục giới.

Toàn mãn về quả và căn là hạng bất hoàn thuộc loại Kiến chí không phải thân chứng.

Toàn mãn về quả và định là hàng bất hoàn thuộc loại Tín giải đã là thân chứng (đắc Diệt tận định).

Toàn mãn về quả, căn và định là hàng bất hoàn thuộc loại Kiến chí đã là thân chứng.

Một bậc hữu học không thể toàn mãn chỉ nhờ vào định bởi vì Diệt tận định (nirodhasamāpatti) được xem như là quả của hàng bất hoàn; vì thế, trong trường hợp này có sự toàn mãn là nhờ vào quả. Bậc hữu học cũng không thể toàn mãn nếu chỉ dựa vào căn và định.

Bậc vô học toàn mãn về căn và định. Không có bậc vô học nào mà không toàn mãn về quả: Vì thế sự toàn mãn về quả không được tính đến trong trường hợp này.

Loại tuệ giải thoát (prajñāvimukta) thuộc bất thời giải thoát được toàn mãn nhờ vào căn.

Loại câu giải thoát (ubhayatobhāgavimukta) thuộc thời giải thoát được toàn mãn nhờ vào định.

Loại câu giải thoát thuộc bất thời giải thoát được toàn mãn nhờ vào căn và định.

(Hỏi) Trước đây đã nói đến vô số các đạo khác nhau như thế đạo (laukikamārga), xuất thế đạo (lokottara), kiến đạo (darśana), Tu đạo (bhāvanā), vô học đạo (aśaikṣa), gia hành đạo (prayoga), Vô gián đạo (ānantarya), Giải thoát đạo (vimukti), Thắng tiến đạo (viśeṣamārga). Nếu nói tóm lược thì chủ yếu có bao nhiêu đạo?

Tụng đáp:

 

應知一切道 略說唯有四
謂加行無間 解脫勝進道.

[Nên biết tất cả các đạo

Nói tóm lại chỉ có bốn

gia hành đạo, Vô gián đạo

Giải thoátThắng tiến đạo.]

 

Luận: Gia hành đạo - con đường ứng dụng hoặc luyện tập dự bị - là con đường mà nhờ nó Vô gián đạo sau nó mới có thể kế tục sinh khởi.

Vô gián đạo - con đường không thể bị cản trở - là con đường mà nhờ nó một chướng ngại (āvaraṇa) mới có thể được đoạn trừ.

Giải thoát đạo - con đường giải thoát - là con đường đầu tiên sinh khởi mà không bị ràng buộc bởi các chướng ngại đã được đoạn trừ bởi Vô gián đạo.

Thắng tiến đạo - con đường thù thắng nhất - là con đường khác với con đường trước đó.

(Hỏi) Nghĩa của chữ đạo (mārga) là gì?

(Đáp) Đạo là con đường Niết-bàn (Niết-bàn lộ) bởi vì con đường này dẫn đến Niết-bàn, hoặc vì nhờ có con đường này mà Niết-bàn mới được đạt đến.

(Hỏi) Làm thế nào Giải thoát đạoThắng tiến đạo có thể gọi là “con đường” được, khi mà sự đắc được Niết-bàn chỉ tùy thuộc vào Gia hành đạoVô gián đạo?

(Đáp) Bởi vì Giải thoát đạoThắng tiến đạo tương tợ với con đường đoạn trừ (đoạn đạo, prahāṇamārga = ānantarya) về mặt cảnh sở duyên (tức tứ đế), về mặt hành tướng (tức các hành tướng vô thường, v.v.), về mặt thanh tịnh (anāsrava). Chúng nổi bật nhờ tính chất tối thượng của chúng (adhimātratara) bởi vì các nhân của chúng bao gồm tất cả các nhân của các “đoạn đạo” khác cộng thêm chính bản thân các “đoạn đạo” này. Hơn nữa, chính nhờ hai loại đạo này mà người ta càng ngày càng đạt được các đạo khác cao hơn: [cần có Giải thoát đạo mới có thể đạt được một Vô gián đạo mới]. Hoặc vì nhờ có hai loại đạo này nên mới có thể nhập vào Niết-bàn vô dư y.

Đạo còn được gọi là lộ trình (pratipad, thông hành) bởi vì người ta đi đến Niết-bàn nhờ vào lộ trình này. 

(Hỏi) Có bao nhiêu lộ trình như thế?

Tụng đáp:

 

通行有四種 樂依本靜慮
苦依所餘地 遲速鈍利根.

[Lộ trình có bốn loại:

Lạc, nương căn bổn tĩnh lự;

Khổ, nương các địa khác;

Trì, tốc do độn, lợi căn.]

 

Luận: Các đạo (gia hành, v.v.) được tu tập bằng cách nương vào các tầng thiền - có nghĩa là trong khi hành giả đang ở vào các tầng thiền - là loại lộ trì dễ đi (sukhā pratipad, lạc thông hành). Bởi vì các tầng thiền này đều có đủ các chi và sự quân bình tuyệt đối giữa chỉ (śamatha) và quán (vipaśyanā); vì thế trong các tầng thiền, lộ trình này lưu chuyển mà không cần đến sự gắng sức nào cả.

Con đườngvị chí, trung gian tĩnh lự, các định thuộc Vô sắc là loại lộ trình khó đi (huḥkhā pratipad, khổ thông hành) bởi vì các loại định này không có đủ các chi, và không có sự quân bình giữa chỉ và quán. Ở vị chítĩnh lự trung gian (dhyānāntara), năng lực quán sát thì lớn nhưng chỉ thì nhỏ; ở các định Vô sắc thì ngược lại.

Khi các căn thuộc loại muội độn thì lộ trình này có thể dễ hoặc khó, được gọi là lộ trình “chậm hiểu” (dhandhābhijñā, trì thông); khi các căn thuộc loại mãnh lợi thì lộ trình được gọi là “chóng hiểu” (tốc thông).

Lộ trình được gọi là “chậm hiểu” khi sự thông đạt (abhijñā) hoặc tuệ (prajñā) ở lộ trình này có tính chất chậm chạp (dhandhā abhijñāsyām). “Thông đạt” là từ tương đương với tuệ và “chậm chạp” (dhanda) là từ tương đương với “muội độn” (manda). Lộ trình được gọi là “chóng hiểu” khi sự thông đạt ở lộ trình này có tính chất nhanh chóng, có nghĩa là khi tuệ trở nên rất mãnh lợi đối với lộ trình này.

Hoặc có thể giải thích: Sự thông đạt của một người có đầu óc muội độn thì chậm chạm…; sự thông đạt của một người có đầu óc sắc bén thì nhanh nhẹn.

Đạo còn được gọi là Bồ-đề phần pháp (bodhipākṣika, giác phần).

(Hỏi) Có bao nhiêu giác phần như vậy?

Tụng đáp:

 

覺分三十七 謂四念住等
覺謂盡無生 順此故名分.

[Giác chia làm ba mươi bảy loại

Là bốn niệm trụ, v.v.

Giác là Tận trí, vô sinh trí;

Thuận với các trí này nên gọi là phần.]

 

Luận: Có ba mươi bảy giác phần là bốn niệm trụ (smṛtyupasthānas), bốn chánh đoạn (samyakpradhānas), bốn thần túc (ṛddhipādas), năm căn (indriyas), năm lực (balas), bảy giác chi (bodhyangas), tám chi thánh đạo (āryamārgangas).

Tận trí (kṣayajñāna) và Vô sinh trí (anuypādajñāna) chính là giác (bodhi). Do sự khác biệt giữa các thánh giả đắc được giác ngộ nên giác được chia làm ba loại: Thanh văn giác (śravakabodhi), Bích chi giác (pratyekabuddhabodhi, Độc giác bồ-đề), Vô thượng chánh đẳng giác (anuttarā samyaksaṃbodhi). Thật vậy, nhờ hai loại trí này mà vô minh được tận trừ (aśesāvidyāprahāṇāt); nhờ Tận trí mà thật sự biết được (avabodha) rằng sự vụ này đã được hoàn tất; nhờ vô sinh trí mà biết được rằng sự vụ này sẽ không còn phải hoàn tất lần nữa.

Bởi vì thuận hợp (anuloma) với giác nên ba mươi bảy pháp này được gọi là giác phần, tức là các pháp phụ trợ cho giác.

(Hỏi) Thể tánh của ba mươi bảy giác phần này có khác nhau không?

Tụng đáp:

 

此實事唯十 謂慧勤定信
念喜捨輕安 及戒尋為體.

[Các giác phần này xét về sự chỉ có mười loại

Là tuệ, cần, định, tín,

Niệm, hỷ, xả, khinh an,

Giới và tầm.]

 

Luận: Nếu xét về danh tức có ba mươi bảy giác phần; nhưng nếu xét về sự thì chỉ có mười giác phần là tín (śraddhā), cần (virya), niệm (smṛti), tuệ (prajñā), định (samādhi), xả, hỷ, khinh an, giới và tầm. 

Thể tánh của các niệm trụ, chánh đoạn, thần túc chính là tuệ, cần và định.

i. Như vậy trước tiên chúng ta có năm sự là tín, cần, niệm, định và tuệ. Năm sự này theo tên gọi riêng của chúng tạo thành năm căn và năm lực.

Trong số năm sự này, tuệ tạo thành: (a) Bốn niệm trụ, (b) một trong các giác chi (bodhyanga) là trạch pháp giác chi (dharmapravicayasaṃbodhyanga), (c) một trong các đạo chi (mārgānga) là chánh kiến (samyadṛṣṭi).

Cần tạo thành: (a) bốn chánh đoạn, (b) một trong các giác chitinh tấn giác chi (vīryasaṃbodhyanga), (c) một trong các đạo chi (mārgānga) là chánh tinh tấn (samyagvyāyāma).

Định tạo thành: (a) bốn thần túc, (b) một trong các giác chiđịnh giác chi (samādhisaṃbodhyanga), (c) một trong các đạo chichánh định (samyaksamādhi).

Niệm tạo thành: (a) một trong các giác chiniệm giác chi (smṛtisaṃbodhyanga), (b) một trong các đạo chichánh niệm (samyaksmṛti).

ii. Ngoài năm sự đầu tiên nói trên còn có các sự nào nữa? - Trong số các giác chihỷ giác chi (prītisaṃbodhyanga), khinh an giác chi (praśrabdhisaṃbodhyanga), xả giác chi (upekṣāsaṃbodhyanga); trong số các đạo chichánh tư duy (samṃyaksaṃkalpa) và ba giới chi (śīlānga) là chánh ngữ (samyagvāc), chánh nghiệp (sayakkarmānta), chánh mạng (samyagājīva) - các giới chi này được tính chung thành một sự, tức là giới.

Như vậy các giác phần có tất cả mười sự.

Theo Tỳ-bà-sa, có tất cả mười một sự: Chánh ngữchánh nghiệp tạo thành một sự; chánh mạng được kể riêng là một sự. Như vậy cộng thêm vào chín sự ở trước là hai sự thuộc về giới (śīla).

(Hỏi) Tại sao nói rằng thể của các niệm trụ, chánh đoạn, thần túc là tuệ, cần và định?

Tụng đáp:

 

四念住正斷 神足隨增上
說為慧勤定 實諸加行善.

[Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn,

Bốn thần túc dựa vào tính chất tăng thượng

Để nói là tuệ, cần và định;

Chúng cũng là các phẩm tánh sinh từ gia hành.]

 

Luận: Sở dĩ nói như vậy là đã căn cứ vào yếu tố chính (yathāpradhānam) của các niệm trụ, v.v.; tuy nhiên tất cả các giác phần này cũng là một tập hợp chung của các phẩm tánh (guṇa), vô lậu hoặc hữu lậu, sinh khởi từ gia hành (prāyogika), tức văn, tư và tu.

(Hỏi) Tại sao cần lại có tên là chánh đoạn?

(Đáp) Bởi vì nhờ có cần nên thân, ngữ và ý mới được thể hiện (pradhīyante) một cách đúng đắn.

(Hỏi) Tại sao định lại có tên là thần túc?

(Đáp) Bởi vì định là nền tảng (pāda = pratiṣṭhā) của thần (ṛddhi), có nghĩa là “kết quả” của tất cả các phẩm tánh hoặc các điều tốt đẹp về tinh thần (sarcaguṇasaṃpatti).

Nhưng có luận sư (Vaibhāṣikas) cho rằng “thần” chính là định và bốn pháp dục (chanda), tâm (citta), cần (virya), quán (mīmāmsā) là “chân” (túc) của loại “thần” này: Nếu thế lẽ ra phải nói là giác phần có đến mười ba sự, vì phải cộng thêm dục và tâm. Hơn nữa, nếu cho rằng “thần” là định tức đã đi ngược lại khế kinh. Kinh (Mahāvyutpatti, 15; Anguttara, iii. 280; Dīgha, i. 77) nói: “Thần (ṛddhi) là gì? - Là hành giả đã thực hiện được các loại năng lực thần diệu khác nhau: là một nhưng hành giả lại trở thành nhiều”; v.v.

(Hỏi) tại sao tín, cần, v.v., lại có tên là căn và lực?

(Đáp) Vì tùy theo các giác phầntính chất yếu liệt (mṛdu) hay mạnh mẽ (adhimātra); bởi vì có thể giết hại hoặc chế phục (avamardanīya) các căn nhưng đối với các lực thì không thể làm như vậy. (Vibhāṣā, 141, 9).

(Hỏi) Thứ tự của các căn được giải thích như thế nào?

(Đáp) Để đắc được quả (phala) mà người ta đã tin tưởng (śraddhā) tất nhiên phải có sự nỗ lực (vīryam ārabhate). Khi đã nỗ lực tức có niệm trụ (smṛtyupasthiti). Khi có niệm trụ tức phải chú tâm (samādhi) để tránh bị tán loạn. Khi tâm đã định thì sẽ sinh khởi cái biết phù hợp với cảnh (như thực tri).

(Hỏi) Các giác phần khác nhau được định đặt và trở thành các yếu tố quan trọng ở các giai đoạn nào?

Tụng đáp:

 

初業順決擇 及修見道位
念住等七品 應知次第增.

[Trong các giai đoạn sơ nghiệp, thuận quyết trạch,

Tu đạo, và kiến đạo,

Bảy phẩm niệm trụ, v.v.,

Tăng theo thứ tự này.]

 

Luận: Ở giai đoạn khởi đầu (ādikārmika) là các niệm trụ bởi vì đây là giai đoạn khảo sát thân, v.v..

Ở giai đoạn của noãn (uṣmagata) là các chánh đoạn bởi vì đây là giai đoạn gia tăng các nỗ lực (vīrya), sự gia tăng này chính là nguyên tắc của sự tiến triển (viśeṣādhigama).

Ở giai đoạn của đảnh (mūrdhan) là các thần túc bởi vì nhờ các thần túc này mà giữ các thiện căn không bị thối thất.

Ở giai đoạn của nhẫn (kṣānti) là các căn bởi vì tín, cần, v.v., ở giai đoạn này đã có được tính chất tăng thượng khiến cho hành giả không còn bị thối đọa.

Ở giai đoạn của đệ nhất pháp (agradharmas) là các lực bởi vì tín, cần, v.v., ở giai đoạn này không còn bị áp chế bởi các phiền não - các phiền não này không thể hiện hành - hoặc bởi các pháp thế gian khác.

Ở giai đoạn của Tu đạo (bhāvanāmārga) là các giác chi bởi vì loại đạo này tiếp cận với giác (bodhyāsanna), tức là hai loại Tận trívô sinh tríTu đạo đã ngăn cách chúng với kiến đạo.

Ở giai đoạn của kiến đạo (darśanamārga) là các đạo chi bởi vì loại đạo này mang tính chất vận hành (gamanaprabhāvita), và vì nó vận hành rất nhanh chóng. 

[Kiến đạo vốn đi trước Tu đạo; tại sao ở đây không theo thứ tự này?] - Kinh đề cập đến các giác chi (bhāvanāmārga) trước và sau đó mới đến các đạo chi (darśanamārga) vì để có được một thứ tự tương ứng với số lượng các chi: Trước tiên là bảy chi và sau đó là tám chi. Trạch pháp (dharmapravicaya) vừa là giác vừa là giác chi; chánh kiến vừa là đạo vừa là đạo chi. (Vibhāṣā, 141, 9).

Trên đây là chủ trương của Tỳ-bà-sa.

Các luận sư khác đã chứng minh thứ tự (ānupūrvi) của các giác chi phần (bodhipakṣyas) mà không làm xáo trộn tiến trình đã được quy định bằng cách đưa kiến đạo ra trước rồi sau đó mới đến Tu đạo:

(1) Thứ nhất là các niệm trụ cốt để chế phục (nigraha) các tâm (buddhi) vốn bị phân tán một cách tự nhiên bởi đủ các loại cảnh khác nhau (bahuvidhaviṣayavyāsekavisārin). Bốn niệm trụ trói buộc tâm lại bởi vì như kinh đã nói: “… Cốt để loại trừ các niệm tham dục (kāmasaṃkalpa; anubhūtaviṣayasmṛtisaṃkalpa) lấy ái làm sở y (gardhāśritānāṃ smarasaṃkalpānām)”. (Madhyama, 51, 20).

(2) Thứ hai là cần: Cần tăng trưởng nhờ có lực của các niệm trụ, nhờ có sự kiểm soát và điều khiển được (pradhāna) tâm để hoàn thành bốn sự vụ là đoạn trừ các ác pháp đã sinh, không cho phát khởi các ác pháp chưa sinh, v.v.: Đây chính là bốn loại “nỗ lực chân chính” (samyakpradhānas, chánh đoạn).

(3) Kế đến nhờ có sự thanh lọc (viśodhanāt) của định (samādhi) nên các thần túc mới sinh khởi và được chứng đắc (prabhāvyante).

(4) Nhờ nương vào định mà tín, cần, v.v., trở thành các duyên tăng thượng (adhipatibhūta) cho các pháp xuất thế (lokottaradharmas); chúng dẫn khởi các pháp này (tadāvāhakatvāt) và đây chính là các căn.

(5) Cũng cùng các loại tín, cần, v.v. nói trên khi chúng chế ngự được sự bộc phát của các pháp đi kèm theo chúng (nirjitavipakṣasamudācāra); đây chính là các lực.

(6) Ở kiến đạo là các giác chi bởi vì đây là lần đầu tiên hành giả hiểu được thể tánh chân thực của các pháp. [Giác có nghĩa là tịnh tuệ (anāsrava).]

(7) Ở kiến đạoTu đạo cũng là các giác chi. Kinh nói: “Tám chi thánh đạo đạt đến sự viên mãn như vậy là nhờ tu tập (bhāvanā), bốn niệm trụ đạt đến sự viên mãn nhờ vào tu tập…; bảy giác chi đạt được viên mãn nhờ vào tu tập”.

Kinh còn nói: “Này các Bí-sô, khi nói ‘hãy nói lời chân thật (như thực ngôn)’ tức nhằm chỉ cho tứ đế; này các Bí-sô, khi nói ‘hãy tiến bước trên con đường đã thông hiểu’ tức nhằm chỉ cho tám chi thánh đạo.”

Như vậy, cả kiến đạoTu đạo đều có tám chi thánh đạo; và điều này cho thấy thứ tự các giác chi nằm trước các đạo chi là thứ tự đúng.

(Hỏi) Trong số “các pháp phụ trợ cho Bồ-đề” (bodhipākṣikadharma, bồ-đề phần pháp), có bao nhiêu pháp thuộc hữu lậu và bao nhiêu pháp thuộc vô lậu?

Tụng đáp:

 

七覺八道支 一向是無漏
三四五根力 皆通於二種.

[Bảy giác chi, tám đạo chi

Đều là vô lậu;

Ba, bốn, năm căn lực

Đều có cả hai loại.]

 

Luận: Các giác chiđạo chi đều thuộc tánh vô lậu bởi vì chúng đều nằm ở kiến đạotu đạo. Chắc chắn cũng có các loại chánh kiến, v.v., mang tính chất thế tục tuy nhiên chúng không được gọi là đạo chi.

Các Bồ-đề phần khác có thể thuộc hữu lậu hoặc vô lậu.

(Hỏi) Có bao nhiêu Bồ-đề phần pháp ở các địa khác nhau?

Tụng đáp:

 

初靜慮一切 未至除喜根
二靜慮除尋 三四中除二
前三無色地 除戒前二種
於欲界有頂 除覺及道支.

[Ở sơ tĩnh lự đều có tất cả;

vị chí, trừ hỷ căn;

Ở đệ nhị tĩnh lự trừ tầm;

Ở đệ tam, đệ tứ, trung gian trừ cả hai;

Ở ba địa Vô sắc giới đầu tiên

Trừ các giới chi và hai loại ở trên;

Dục giới, Hữu đảnh,

Trừ giác chiđạo chi.]

 

Luận: Ở tầng thiền thứ nhất có đủ tất cả ba mươi bảy pháp.

vị chí loại trừ hỷ (prīti).

(Hỏi) Tại sao không có giác chi hỷ ở Vị chí?

(Đáp) Bởi vì ở tĩnh lự cận phần (sāmantaka) chỉ được chứng đắc nhờ vào lực (balavāhanīya) và hành giả vẫn còn lo sợ bị thối đọa trở lại hạ địa.

Ở tầng thiền thứ hai không có đạo chi chánh tư duy (saṃkalpa) mà chỉ còn ba mươi sáu giác phần. Không có chánh tư duy bởi vì ở đây không có tầm (vicāra).

Ở tầng thiền thứ ba và thứ tư không có hỷ và chánh tư duy mà chỉ còn ba mươi lăm giác phần.

tĩnh lự trung gian cũng có ba mươi lăm giác phần; tức cũng loại trừ hỷ và chánh tư duy.

Ở ba định Vô sắc đầu tiên không có ba giới chi là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và cũng không có hỷ và chánh tư duy; như vậy ở mỗi định chỉ có ba mươi hai giác phần.

Dục giới và Hữu đảnh không có các giác chiđạo chi bởi vì hai nơi này không có đạo vô lậu. Như vậy mỗi địa chỉ còn hai mươi hai giác phần.

(Hỏi) Hành giả tu tập các giác phần sẽ đắc được sự chứng tịnh (avetyaprasādas) - tức bốn loại tín (và thanh tịnh) đi kèm theo tuệ - vào lúc nào?

Tụng đáp:

 

證淨有四種 謂佛法僧戒
見三得法戒 見道兼佛僧
法謂三諦全 菩薩獨覺道
信戒二為體 四皆唯無漏.

[Chứng tịnh có bốn loại

Là Phật, pháp, tăng và giới.

Kiến ba đế đắc chứng tịnh đối với pháp và giới;

Kiến đạo đắc thêm chứng tịnh đối với phập, và tăng.

Pháp là toàn bộ ba đế

Và đạo của Bồ-tát và Độc giác.

Tín và giới làm thể.

Bốn loại đều vô lậu.]

 

Luận: Khi quán chiếu (abhisamaya) ba đế đầu tiên tức đắc được loại chứng tịnh liên quan đến pháp, và các giới luật thanh tịnh, đáng qúy đối với thánh giả (thánh sở ái giới).

Khi quán chiếu đạo đế tức đắc được loại chứng tịnh liên quan đến Phật và Tăng (śravakasaṃgha). Chữ “thêm” ở trên hàm ý hành giả cũng đắc được sự chứng tịnh đối với pháp và các giới.

Sự thanh tịnh (prasāda) liên quan đến Phật cũng chính là sự thanh tịnh liên quan đến các pháp của bật vô học, tức các pháp tạo thành một vị Phật. Cung như vật, khi nói Tăng (saṃgha) là nhằm chỉ cho các pháp của bậc hữu họcvô học, tức các pháp lập thành chúng tăng.

(Hỏi) Trong nhóm từ “sự chứng tịnh liên quan đến pháp” thì chữ pháp phải được hiểu như thế nào?

(Đáp) Pháp chínhba đế và đạo của Độc giác cũng như Bồ-tát. Vì thế khi quán sát tứ đế thì sẽ đắc được chứng tịnh liên quan đến pháp.

Như vậy nếu xét về danh sẽ có bốn loại “tịnh” (prasāda) khác nhau do tính chất đa dạng của các cảnh sở duyên của “tịnh”.

Nếu xét về sự, cả bốn loại tịnh nói trên chỉ là hai sự, tức tín và giới.

Loại chứng tịnh liên quan đến Phật, pháp và tăng có thể tánh là tín (śraddhā). Các giới đáng quý của thánh giảthể tánh là giới (śīla). Vì thế chỉ có hai sự.

(Hỏi) Hai sự này là hữu lậu hay vô lậu?

(Đáp) Cả bốn loại chứng tịnh đều thuộc vô lậu.

(Hỏi) Chứng tịnh có nghĩa là gì?

(Đáp) Đó là tín đi liền theo sau sự quán sát đúng đắn các đế.

Các loại chứng tịnh được sắp xếp theo thứ tự hiện khởi (saṃmukhīkaroti) của chúng khi xuất quán (vyutthita).

(Hỏi) Làm thế nào để cho chúng có thể hiện khởi khi xuất quán?

(Đáp) Bằng cách nói: “Ồ! Thế tôn là bậc giác ngộ hoàn toàn! Chánh pháp tỳ-nại-da (vinaya) được thuyết giảng thật rõ rãng ! Thánh chúng (śravasaṃgha) hành trì thật đúng đắn!”. Khi nói như vậy tức đã làm cho các loại chứng tịnh hiện khởi bởi vì Phật, pháp, tăng chính là người thầy thuốc, là thuốc chữa bệnh, là người trông bệnh.

Vì sự thanh tịnh của giới xuất pháp từ sự thanh tịnh của tâm nên loại tịnh này được gọi là loại thứ tư, tức loại cuối cùng: Chính khi tâm có sự tin tưởng (prasanna) như thế thì hành giả mới đắc được các giới luật đáng quý của hàng thánh giả. Hoặc sự thanh tịnh của giới được nói đến cuối cùng bởi vì Phật, pháp, tăng nếu đã được xem như là người thầy thuốc, thuốc men và người nuôi bệnh thì sự thanh tịnh của giới phải được xem nhưsức khỏe (āroga). Hoặc Phật là người dẫn đường, pháp là đường đi, tăng là khách thương và giới của thánh giả là chiếc xe.

Kinh có nói bậc hữu học thành tựu tám chi (anga) tức là tám chi của thánh đạo (mārgānga) thuộc hàng hữu học; và bậc vô học thành tựu mười chi, tức tám chi của thánh đạo thuộc hàng vô học cộng thêm hai chi chánh giải thoát Vô học (aśaikṣī amyagvimukti) [tức sự giải thoát viên mãn của A-la-hán] và chánh trí Vô học (aśaikṣa samyajñāna) [tức trí tuệ về sự hoạch đắc giải thoát này ()].

(Hỏi) Tại sao kinh không nói đến chánh giải thoátchánh trí đối với hàng hữu học?

Tụng đáp:

 

學有餘縛故 無正脫智支
解脫為無為 謂勝解惑滅
有為無學支 即二解脫蘊
正智如覺說 謂盡無生智.

[Vì hữu học vẫn còn hệ phược

Nên không có các chi chánh giải thoát, chánh trí.

Giải thoát hữu vivô vi

thắng giảitrạch diệt.

Giải thoát hữu vivô học chi,

Gồm hai loại, là giải thoát uẩn.

Chánh trí giống như phần nói về giác

Tức Tận trívô sinh trí.]

 

Luận: Hàng hữu học còn bị trói buộc bởi vì vẫn còn các hệ phược của phiền não. Như vậy làm sao có thể xem bậc hữu học là đã giải thoát được? Một người chỉ mới xả bỏ một phần hệ phược thì không thể gọi là đã giải thoát. Khi sự giải thoát chưa có ở người này thì vẫn không thể thành tựu cái trí về sự đắc được giải thoát (vimuktijñāna).

Trái lại, hàng vô học đã hoàn toàn giải thoát tất cả các hệ phược: Vì thế họ có đủ các tính chất, các biểu hiện (prabhāvita = prakarṣita) của sự giải thoát các phiền não cũng như cái biết tức thời về sự giải thoát này (vimuktipratyātmajñāna). Vì thế chỉ có hàng vô học mới có đủ hai chi chánh giải thoátchánh trí.

(Hỏi) Giải thoát nghĩa là gì?

(Đáp) Giải thoát vừa là hữu vi (saṃskṛta) vừa là vô vi (asaṃskṛta). Sự đoạn trừ (prahāna = pratisaṃkhyānirodha) các phiền nãogiải thoát vô vi; thắng giải (adhimokṣa) của hàng vô họcgiải thoát hữu vi. Chính sự giải thoát hữu vi mới được gọi là vô học chi; bởi vì các chi chánh kiến, v.v., đều là hữu vi.

Kinh (Saṃyukta, 3, 6) chia giải thoát hữu vi ra làm hai loại là tâm giải thoát (citovimukti) và tuệ giải thoát (prajñāvimukti) [thoá khỏi tham (rāgavirāgāt) là tâm giải thoát; thoát khỏi vô minh (adviyāvirāgāt) là tuệ giải thoát]: Giải thoát hữu vi cũng tạo thành cái được gọi là giải thoát uẩn (vimuktiskandha).

Tuy nhiên có thuyết cho rằng nếu giải thoát uẩn chỉ là thắng giải thì làm thế nào để giải thích kinh? Kinh (Saṃyukta, 3, 6) nói: “Này, Vyāghrabodhāyanas! Yếu tố then chốt của sự thanh tịnh giải thoát là gì? - Đó là tâm của một Bí-sô đã xả ly, đã thoát khỏi tham (rāga); tâm của Bí-sô này đã xả ly, đã giải thoát khỏi sân và si (dveṣa, moha). Từ đó, hoặc vì sự viên mãn của giải thoát uẩn chưa được đầy đủ, hoặc vì trì giữ (anugraha) giải thoát uẩn vốn đã viên mãn mà có sự quyết tâm (chanda, dục), sự tinh tấn (vīrya, cần)… Đó chính là yếu tố then chốt nhất.”

Đoạn kinh trên cho thất Thắng giải không tạo thành giải thoát. Sự giải thoát này phải là sự thanh tịnh (vaimalya = anāsravatva) của tâm xuất phát từ sự đoạn trừ các phiền não tham (rāga), v.v., tức các phiền não được loại trừ bởi một loại trí đúng đắn (lattvajñāna, chân trí).

Trên đây đã giải thích xong chánh giải thoát (samyagvimukti).

(Hỏi) Chánh trí (samyagjñāna) khác với chánh giải thoát như thế nào?

(Đáp) Sự giác ngộ (bodhi, giác), bao gồm Tận trívô sinh trí như đã nói ở trên, chính là chánh trí, tức chi thứ mười của hàng vô học.

(Hỏi) Loại tâm nào - quá khứ, vị lai hay hiện tại - được giải thoát (vimucyate)?

Tụng đáp:

 

無學心生時 正從障解脫.

[Tâm vô học khi sinh

Được giải thoát khỏi chướng ngại.]

 

Luận: Bổn luận (Jnānaprasthāna, 5, 20) nói: “Tâm vị lai của bậc vô học được giải thoát khỏi chướng ngại.”

(Hỏi) Chướng ngại là gì?

(Đáp) Đó là sự đắc được (prāpti) các phiền não (thuộc nhóm thứ chín của Hữu đảnh) sự hoạch đắc này tạo thành một chướng ngại (vibandha) cho sự sinh khởi của tâm vô học. Vào sát-na của Kim cang dụ định (Vajropamasamādhi), sự hoạch đắc này được đoạn trừ; và tâm vô học sinh khởiđược giải thoát. Khi sự hoạch đắc này được đoạn trừ xong thì tâm vô học đã sinh và đã được giải thoát.

(Hỏi) Đối với tâm vô học chưa sinh vào sát-na của Kim cang dụ định hoặc đối với tâm thế tục đã khởi ở hàng vô học thì như thế nào?

(Đáp) Hai loại tâm này cũng được giải thoát; tuy nhiên loại tâm giải thoát mà bổn luận nói đến chính là tâm vô học sẽ sinh ở vị lai (niyatam utpattau = utpādābhimukham).

(Hỏi) Tâm thế tục của bậc vô học được giải thoát từ cái gì?

(Đáp) Cũng được giải thoát từ sự hoạch đắc các phiền não vốn làm chướng ngại sự sinh khởi của tâm này.

(Hỏi) Loại tâm thế tục này không khởi ở hàng hữu học; tại sao không nói tâm này cũng được giải thoát?

(Đáp) Tâm thế tục của hàng hữu học không giống như tâm thế tục của hàng vô học vì ở hàng vô học không có kèm theo (sahita) sự hoạch đắc phiền não.

(Hỏi) Chướng ngại cho sự sinh khởi tâm vô học được đoạn trừ ở loại đạo nào - quá khứ, vị lai hay hiện tại?

Tụng đáp:

 

道唯正滅位 能令彼障斷.

[Đạo lúc đang ở giai đoạn tán diệt

Mới có thể đoạn trừ chướng ngại này.]

 

Luận: Nói “Đang diệt” là có ý chỉ cho hiện tại.

Bổn luận và cuốn luận này có nói về loại giải thoát vô vi. Mặt khác, kinh (Saṃyukta, 17, 8; Dīrgha, 8, 11) và Bổn luận cũng nói về ba giới (dhātu) là Đoạn giới (prahāṇadhātu), Ly giới (virāgadhātu), và Diệt giới (nirodhadhātu).

(Hỏi) Giải thoát vô vi quan hệ với ba giới này như thế nào?

Tụng đáp:

 

無為說三界 離界唯離貪
斷界斷餘結 滅界滅彼事.

[Giải thoát vô vi là ba giới:

Ly giới chính là xả ly tham;

Đoạn giới là đoạn trừ các kiết sử khác;

Diệt giới là diệt trừ sự.]

 

Luận: Giải thoát vô vi là ba giới. Sự đoạn trừ tham (rāga) chính là ly giới. Sự đoạn trừ các phiền não còn lại là đoạn giới. Sự đoạn trừ các sự như sắc (rūpa) hữu lậu, v.v., tức không phải sự đoạn trừ phiền não, chính là diệt giới.

(Hỏi) Hành giả có được sự chán ghét (nirvidyate) nhờ vào chính các pháp mà hành giả đã nương vào đó để đắc được sự xả ly (virajyate) không?

Tụng đáp:

 

厭緣苦集慧 離緣四能斷
相對互廣陜 故應成四句.

[Có yếm khi tuệ duyên khổ tập;

Có xả ly khi tuệ duyên tứ đế và đoạn được phiền não;

Hỗ tương đối đãi có rộng hẹp khác nhau

Nên lập thành tứ cú.]

 

Luận: Chỉ nhờ vào các loại nhẫn (kṣāntis) và các loại trí (jñāna) về khổ đếtập đế thì hành giả mới đắc được sự chán ghét; chứ không phải các loại nhẫn và trí khác.

Các nhẫn (tức kiến đạo) và các trí (tức tu đạo) về khổ đế, tập đế, diệt đếđạo đếhành giả đã dựa vào đó để đoạn trừ phiền não cũng chính là các nhẫn và trí mà hành giả nương theo để đắc sự xả ly.

Như vậy có tất cả bốn trường hợp:

(1) Hữu yếm phi ly: Với các nhẫn và trí về khổ và tập, nếu hành giả không đoạn trừ phiền não thì chỉ đắc được sự chán ghét bởi vì các nhẫn và trí này chỉ c các duyên chán ghét làm cảnh.

(2) Hữu ly phi yếm: Với các nhẫn và trí về diệt và đạo, hành giả đoạn trừ được các phiền não vì thế chỉ đắc được sự xả ly: Các nhân và trí này chỉ có các duyên vui thích làm cảnh (nirvedavastu, yếm cảnh).

(3) Hữu yếm hữu ly: Với các nhẫn và trí về khổ và tập mà hành giả đoạn trừ được các phiền não thì sẽ đắc được cả sự xả ly lẫn sự chán ghét.

(4) Phi yếm phi ly: Với các nhẫn và trí về diệt và đạo, nếu hành giả không đoạn trừ được phiền não thì đều không đắc được xả ly cũng như chán ghét.

Trong trường hợp thứ nhất và thứ tư, một hành giả đã ly dục khi nhập vào kiến đạo sẽ không đoạn trừ các phiền não nhờ vào pháp trí nhẫn (dharmajñānakṣāntis) và pháp trí (dharmajñānas). Hành giả cũng không đoạn trừ phiền não nhờ vào các trí vốn là một phần của các đạo gia hành, giải thoátthắng tiến.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15187)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12090)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant