Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giải Thích Đề Tựa

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6903)
Giải Thích Đề Tựa

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ

Tác giả : MÃ MINH - Dịch & giải: Chân Hiền Tâm
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2004

 GIẢI THÍCH ĐỀ TỰA

Đề mục của luận là cương lĩnh chính của toàn luận. 

LUẬN [1] là, quyết trạch đúng sai, phát minh chánh lý, giảng trạch những thứ chẳng phải là kinh luận, dùng luận để minh chứng. Luận này được làm khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt. Tiểu thừa thì chẳng tin duy tâm, ngoài tâm thủ pháp, khởi nhiều tranh luận. Ngoại đạo thì tà chấp, phá hoại chánh pháp. Nên Luận chủ khởi lòng thương xót mà tạo luận này.

Luận này vốn y cứ theo trăm bộ Đại thừa như Lăng Già, Tư Ích … mà làm ra, phát minh ý chỉ duy tâm duy thức, tóm qui về nhất tâm. Nó là cương yếu của 2 tông Tánh Tướng, thâm cùng cội nguồn của mê ngộ, chỉ bày yếu chỉ thẳng tắt của việc tu hành. Nghĩa là, tổng nhiếp tất cả nghĩa lý sâu mầu mà Như Lai đã nói. Thật là cương lĩnh chính yếu của Đại giáo, ý chỉ đích thực của Thiền Tông! 

[1] Lời của đại sư Hám Sơn

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN, là làm phát khởi niềm tin đối với Đại thừa.

ĐẠI THỪA là, trong Thập Nhị Môn Luận, Bồ tát Long Thọ nói “Vì sao gọi là Đại thừa? Vì đối với Nhị thừa là trên nên gọi là ĐẠI THỪA. Chư Phật là bậc tối đại mà thừa này hay đến nên gọi là ĐẠI. Chư Phật là bậc đại nhân mà ngồi thừa này nên gọi là ĐẠI. Hay diệt trừ các đại khổ của chúng sanh, cho việc đại lợi ích nên gọi là ĐẠI. Vì là chỗ nương của các đại sĩ như Quán Âm, Văn Thù … nên gọi là ĐẠI. Thừa này tột biên để của tất cả pháp nên gọi là ĐẠI. Trong kinh Bát Nhã, Phật nói về nghĩa Đại thừa vô lượng vô biên nên gọi là ĐẠI. Phần thâm nghĩa của Đại thừa chính là KHÔNG. Nếu thông suốt nghĩa này là thông suốt Đại thừa, đầy đủ ba la mật, không có chướng ngại ...”. 

Như vậy, nghĩa của ĐẠI THỪA thì vô lượng vô biên, khó mà định nghĩa hết, nhưng không ra ngoài một nghĩa KHÔNG

BỒ TÁT MÃ MINH TẠO LUẬN :

MÃ MINH là tên của người tạo luận. Ngài là người Trung Thiên Trúc, xuất hiện khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt, là Tổ thứ 12 trong Phật giáo Ấn Độ và có công rất lớn trong việc chuyển Phật giáo Tiểu thừa qua Đại thừa. Tương truyền, khi ngài vừa sanh ra đã cảm đến bầy ngựa khiến chúng kêu lên bi thiết. Sau giảng phápBắc Thiên Trúc, bầy ngựa của vua cũng bỏ ăn nghe pháp mà hí vang. Vì thế, người đời gọi ngài là Bồ tát Mã Minh (Mã nghĩa là ngựa, Minh là kêu).

Ngài là người thông minh, hiểu rộng, về mặt biện luận thì không ai bằng. Lúc đầu xuất gia làm sa môn của Ngoại đạo. Một lần, ngài xướng lên rằng “Tỳ kheo nào có thể cùng ta tranh luận thì hãy gõ kiến trùy. Nếu không thắng được thì không được nhận lễ cúng dường”. Bấy giờ, trưởng lão Hiếp đang ở vùng Bắc Thiên Trúc, biết ngài là người có thể giáo hóa, bèn dùng thần thông bay đến Trung Thiên Trúc, sai mọi người gõ kiến trùy cùng ngài tranh luận. Ngài thua và trở thành đệ tử của trưởng lão Hiếp từ đó. 

Sau, Trưởng lão trở về bản quốc. Ngài ở lại, hoằng dương Phật pháp một thời gian thì vua Tiểu Nguyệt Thị nước Bắc Thiên Trúc mang quân đánh chiếm Trung Thiên Trúc. Ngài và chiếc bát của Phật là 2 báu vật mà vua Trung Thiên Trúc phải dâng nạp cho Bắc Thiên Trúc mới được cầu hàng. Từ đó về sau, ngài hoằng phápBắc Thiên Trúc, biện luận thuyết pháp không ai sánh được, có thể cảm hóa cả loài phi nhân

Tác phẩm của ngài gồm có : Đại Thừa Khởi Tín Luận, Đại Tông Nghĩa Huyền Văn Bản Luận, Phật Sở Hành Tán, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Lục Thú Luân Hồi Kinh, Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh

TAM TẠNG CHÂN ĐẾ DỊCH

TAM TẠNG là người học thông ba tạng kinh, luật và luận. Lại giỏi cả ngôn từ của một số nước như tiếng Hoa, tiếng Phạn v.v... giúp việc truyền bá Phật pháp được rộng rãi

CHÂN ĐẾ là tên người dịch. Tiếng Phạn gọi là Câu Na La Đà. Sư người nước Ưu Thiền Ni ở Tây Ấn Độ. Năm Đại Đồng thứ 13 đời Lương, hơn 30 tuổi, Sư sang Trung Quốc, được vua Vũ Đế tri ngộ. Sau gặp quốc nạn, bỏ sang Bắc Tề rồi sang Đông Ngụy. Trong lúc lưu lạc bôn ba, Sư đã soạn thảo và phiên dịch các bộ Kim Quang Minh Kinh, Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Duy ThứcThế Thân Truyện … gồm 278 cuốn. Ngày 11 tháng 01 năm Đại Kiến thứ nhất, Sư viên tịch, thọ 71 tuổi. 

KỆ MỞ ĐẦU

Qui mạng tận mười phương
Nghiệp tối thắng biết khắp
Thân vô ngại tự tại
Đấng cứu thế đại bi
Với thể tướng thân này
Biển pháp tánh chân như
Kho vô lượng công đức
Bậc như thật tu hành
Vì muốn khiến chúng sanh
Trừ nghi bỏ tà chấp
Khởi chánh tín Đại thừa
Chủng Phật chẳng đoạn mất

Người xưa nói “Sau khi Phật diệt độ, phàm các hàng đệ tử có tác thuật kinh luận hay sách vở gì, trước phải kính lễ Tam bảo”. Đây là theo lệ ấy mà làm : tán thán, kính lễ và nêu ra mục đích khiến làm ra bộ luận. 

Vì sao trước phải kính lễ Tam bảo? Vì kinh là lời Phật nói, trí Phật thâm thậm không thể dùng tình thức mà suy lường, nên phải kính lễ để thỉnh cầu uy lực gia hộ của Tam bảo. Có vậy thì nghĩa của luận mới thầm hợp với tâm Phật, lời là phàm mà đạt được ý của thánh nhân

Qui mạng tận mười phương là lấy thân mạng qui hướng về Tam bảomười phương. Mười phương là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, phương trên và phương dưới, là chỉ cho tất cả mọi cõi. Các cõi này đều do chân như tùy duyên mà biến hiện. 

Với người đời, thân mạng là thứ quí hơn hết. Nay nói qui mạng là đem cả thân mạng này mà kính lạy, biểu thị cho lòng thành kính không có 2 tâm. Qui mạng tận mười phương thì thân tâm đều không mới có thể qui đến. Nên QUI còn có nghĩa là qui nguyên, là qui 6 căn về cội nguồn chân thật nhất tâm

Nghiệp tối thắng biết khắp, thân vô ngại tự tại, đấng cứu thế đại bi là chỉ cho Phật. Đây là qui y Phật bảo

Biết khắp là dụng của ý nghiệp khi ý nghiệp đã hoàn toàn thanh tịnh. Biết hết ba thời, biết khắp mọi chỗ, không sót chút gì, dù là một niệm mống khởi trong tâm chúng sanh, nên nói BIẾT KHẮP. 

Vô ngại tự tạitự tại dung thông không trở ngại. Như các ánh đèn hòa vào với nhau không chướng không ngại. Do thân nghiệp của Phật hoàn toàn thanh tịnh nên thân ấy có vô lượng tướng, tướng ấy có vô lượng tướng tốt, căn căn viên dung, khắp giáp tự tại, mười thân rõ khắp, không hoại không tạp lẫn. [2] 

Cứu thế đại bi là chỉ cho tâm đại bi của đức Phật

BI là thương xót. Gọi là ĐẠI vì lòng bi ấy không phải của Bồ tát, không phải của Nhị thừa. ĐẠI BI chỉ có khi thức đã chuyển hoàn toàn thành trí, gọi là ĐẠI TRÍ. Nhờ có đại trí mới có đại bi. Vì thế, cái bi của người đời chỉ là thấy đói cho ăn, thấy lạnh cho mặc, chỉ là cứu cái ngọn chưa cứu được cái gốc. Gốc không cứu thì khổ nạn không bao giờ chấm dứt. Như mắc bịnh phong mà chỉ sức thuốc bên ngoài, không uống thuốc bên trong thì bịnh chỉ tạm dừng rồi lại phát, khổ vẫn hoàn khổ. Cái bi của người đời vì thế không gọi là ĐẠI.

Phật thương xót chúng sanh bằng cái nhìn trí tuệ nên gọi là ĐẠI. Cái thương xót ấy bình đẳng không phân chia thân sơ, nên gọi là ĐẠI. Giáo pháp của ngài là liều thuốc trị bịnh khổ của chúng sanh từ gốc. Đó là cốt làm sao để chúng sanh thật sự thoát khổ. Phật dạy người giữ 5 giới, 10 giới, làm lành tránh ác là để giúp người thoát khỏi cái khổ bịnh hoạn, đói nghèo và nạn tai ở thế gian. Song thế gian thì vô thường, các pháp mong manh như sương mai, vui không bao lâu, khổ chẳng bao giờ vắng mặt. Vì thế, Phật lại có các phương pháp tu trì như thiền định, niệm Phật v.v... để người đạt được cái vui vĩnh hằng.

Lại, ĐẠI BIcăn bản của Phật đạo. Nhờ lực từ bi ấy mà chư vị Bồ tát dù được niết bàn, vẫn trải dài sanh tử không nhàm mỏi để thực hành bi nguyện của mình. Vì thế, không gọi cái bi của người đời là ĐẠI, chỉ gọi cái bi trong pháp Phật là ĐẠI. Cái ĐẠI này cũng tùy duyên mà lập. Đối với Nhị thừa, cái bi của Bồ tát là ĐẠI. Đối với Nhị thừa và chư vị Bồ tát, cái bi của Phật là ĐẠI. ĐẠI nói trong phần này là ĐẠI của chư Phật. 

Cứu thế là cứu người đời thoát khỏi khổ đau phiền não. Song nỗi khổ của chúng sanh là do 3 nghiệp của chúng sanh mà ra. Muốn cứu họ khỏi 3 đường khổ thì chỉ có thể vạch ra con đường để họ tu tập mà tự cải hóa lấy số phận của mình. Vì thế, dù dùng phương tiện hóa thân nào thì GIÁO PHÁP lưu xuất từ chân như cũng là phương thức chính mà đức Phật dùng để cứu độ thế gian. Ngài Hám Sơn nói “Cứu thế đại bi, vì ngữ nghiệp tối thắng. Phật dùng âm thanh luân ứng cơ thuyết pháp. Mọi lời nói ra, mọi loài đều hiểu nên gọi là tối thắng”. 

3 thứ BIẾT KHẮP, THÂN VÔ NGẠI TỰ TẠI và TÂM CỨU THẾ ĐẠI BI ấy, phàm phu, Nhị thừaBồ tát đều chưa thể có, nên nói tối thắng. Cái chưa thể có ấy là do 3 nghiệp của các vị chưa được thanh tịnh như Phật. Vì thế, nói nghiệp của Phật là nghiệp tối thắng. TỐI THẮNG nghĩa là số một, không có gì bằng, đồng nghĩa với từ ‘tối ưu’. 

Với thể tướng thân này, biển pháp tánh chân như, kho vô lượng công đứcqui y Pháp bảo. Thể tướng thân này là chỉ cho thân Phật nói trên. Ngài Hiền Thủ nói “Phàm, luận về Pháp bảo thì có 4 thứ là giáo, lý, hạnh, quả. Trong 4 thứ ấy, GIÁO thì cạn mà LÝ thì sâu, HẠNH thì từng phần mà QUẢ lại tròn đủ. Trong đây, chỗ qui về chỉ lấy sâu và tròn đủ, tức chỉ hướng về LÝ và QUẢ. Cho nên, ước về thân Phật kia là để rõ Pháp bảo là pháp ở QUẢ, hiển thể và tướng của thân là để rõ Pháp bảo là pháp ở LÝ vậy”. 

Thân Phật thì tức THỂ là TƯỚNG, tức TƯỚNG là THỂ. Chính là biển pháp tánh chân như đầy đủ vô lượng công đức. Gọi là BIỂN vì ngoài việc diễn tả sự rộng lớn không thấy bờ mé, còn nói lên tính bất biếntùy duyên, tùy duyênbất biến của pháp tánh chân như

Ngài Hiền Thủ nói “Chân như có 2 nghĩa là bất biếntùy duyên. Theo nghĩa TÙY DUYÊN thì nó biến hiện tạo ra tất cả pháp. Tuy biến tạo mà vẫn bảo tồn cái thể chân như BẤT BIẾN. Tỷ như nước biển thành sóng mà vẫn mang tánh nước chẳng đổi. Như thế, chân như tùy duyên để biến đổi tạo tác ra các pháp nên chân nhưpháp tánh. Song chân như pháp tánh đây vẫn thuần thiện, không mang tính cấu nhiễm. Nhưng do cái duyên có nhiễm tịnh mà mặt biến hiện của nó có nhiễm tịnh riêng biệt”. 

Kho là dịch nghĩa từ chữ TẠNG ra. TẠNG có nghĩa là tích chứa. Mượn chữ KHO là để diễn tả sự tích chứa ấy. Biển pháp tánh bao gồm vô lượng vô biên công đức, nên nói “Biển pháp tánh chân như, kho vô lượng công đức”. [3]

Bậc như thật tu hành là chỉ cho các vị Bồ tát đăng địa. Gọi NHƯ THẬT vì các vị đã thực chứng được cái nhân Phật tánh. Nhà thiền gọi chỗ chứng ấy là kiến tánh hay chứng được nhất niệm vô sanh. Nhân vô sanh thì quả mới vô sanh nên nói NHƯ THẬT TU HÀNH. Đây là qui y Tăng bảo.

Phần dưới là bày tỏ ý tạo luận.

Vì muốn khiến chúng sanh, trừ nghi bỏ tà chấp, khởi chánh tín Đại thừa, chủng Phật chẳng đoạn mất.

Cái MUỐN KHIẾN ấy là kết quả của tâm đại bi. Vì sao muốn khiến chúng sanh bỏ tà chấp? Vì tà chấp là đầu mối của khổ não. TÀ nghĩa là không chánh. CHẤP nghĩa là ôm chặt, thủ lấy. Tà chấp là chỉ cho những quan niệm hay suy nghĩ không đúng đối với Lý Duyên Khởithế gian

Gọi là TÀ vì những thứ ấy khiến thân, khẩu, ý của mình tạo tác, không thể nhập được với dòng chuyển biến của đạo. Thủ chặt những thứ ấy làm kim chỉ nam rồi theo đó mà hành xử thì khổ nạn không thể tránh, cứu cánh niết bàn chẳng thể đạt, nên gọi là TÀ.

Cái TÀ này cũng tùy duyên mà lập. Với ngoại đạophàm phu, pháp Tiểu thừa là CHÁNH, pháp của phàm phu, ngoại đạo là TÀ. Song đối với chân thể pháp thân đầy đủ từ bitrí tuệ thì cái chấp pháp của Nhị thừa lại thành TÀ. Nhớ là do CHẤP mà thành tà, không phải pháp của Nhị thừa là tà. “Pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ”. 

Một khi đã có niềm tin với những lời Phật dạy thì nghi tự trừ, tà chấp đương nhiên hết, nên nói trừ nghi bỏ tà chấp.

Khởi là từ chỗ không mà thành có. Đồng nghĩa với từ sanh, xuất hiện v.v… 

Khởi chánh tín Đại thừa là khởi lên niềm tin chân chánh đối với Đại thừa. Những thứ tin nào đúng với qui luật vận hànhthế gian như tin nhân quả, tin có kiếp trước, kiếp sau … đều gọi là TIN CHÂN CHÁNH. Đây, không phải chỉ tin chân chánh không mà còn là “tin chân chánh đối với Đại thừa”. Vì thế, niềm tin đây phải là tin ‘Tức tâm tức Phật’. 

TIN mình với Phật không có 2 thể, chỉ do vô minh che lấp mà có thân Phật, thân chúng sanh. TIN những cảm giác như buồn, vui, giận, ghét cùng các quan niệm, định kiến mình đang mang đây là vọng tưởng không có thật thể, chỉ do huân tập mà có, cái không trùm khắp sáng ngời kia mới là tâm chân thật của mình. TIN mình có khả năng thể nhập lại với cái tâm thường hằng thanh tịnh ấy bằng những phương tiệnPhật Tổ đã dạy qua kinh luận. TIN ‘Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức’ v.v… Có được những cái tin như thế đều là khởi niềm tin chân chánh đối với Đại thừa.

Chủng Phật là hạt giống sanh ra Phật quả. Chẳng đoạn mất không phải là tiêu mất không còn gì, mà vì bị vô minh che lấp. Như mặt trời bị mây che lấp, không phải không có mặt trời. Như hạt giống nằm sẵn trong đất, nhưng không đủ duyên nên không thể nẩy mầm, không phải là không có hạt giống. ĐOẠN MẤT là như thế. 

LUẬN rằng, có pháp có thể làm phát khởi tín căn Đại thừa cho nên phải nói. Cái nói ấy có 5. 

LUẬN RẰNG, là bắt đầu vào luận.

Thứ gì có khả năng sanh ra thứ khác, gọi là CĂN. Niềm tin có thể sanh ra những thiện pháp khác nên gọi là TÍN CĂN

TÍN CĂN ĐẠI THỪA là chỉ cho Phật tánh đầy đủ trong mỗi chúng sanh. Phật tánh là nhân thì quả mới là niết bàn Phật

PHÁP là chỉ cho những thứ có thể làm phát khởi tín căn Đại thừa. CÓ PHÁP CÓ THỂ … là có một thứ có thể làm phát khởi tín căn Đại thừa, chính là bộ luận này. Được phân rõ từ LÝ tới SỰ qua 5 phần. Đúng 5 mà không 4 hay 3 vì LÝ và SỰ phải đầy đủ. LÝ mà không SỰ hay SỰ mà không LÝ đều không thể khiến tín căn Đại thừa phát khởi. SỰ mà không LÝ thì không thể phát khởi niềm tin để thực hành. Tin mà không thực hành để nhận lấy chỗ thực chứng thì niềm tin ấy sẽ lụi tàn theo thời giantín căn Đại thừa cũng không nẩy mầm để có cái quả là niết bàn Phật. LÝ và SỰ phải đầy đủ dung thông thì tín căn Đại thừa mới phát khởi và mang lại kết quả tốt đẹp, nên luận phân đúng 5 phần.

Thế nào là 5?

1. Phần Nhân Duyên
2. Phần Lập Nghĩa
3. Phần Giải Thích (5) (6) (7) (8) (9) (10) 
4. Phần Tu Hành Tín Tâm
5. Phần Khuyên Tu Và Lợi Ích

Đây là 5 phần chính của luận. Tên của mỗi phần nêu bày ý chủ yếu của phần đó. 

Phần NHÂN DUYÊN, là nêu bày nguyên nhân khiến Tổ làm ra bộ luận. Pháp thế gianpháp duyên khởi, nên pháp không tự xuất hiện mà phải có nguyên do pháp mới xuất hiện. Nguyên do ấy gọi là NHÂN DUYÊN. Nêu bày Nhân Duyên cũng có nghĩa là nêu bày luôn ĐỐI TƯỢNG tu hành mà bộ luận nhắm đến. Ngoài những đối tượng ấy thì bộ luận không có giá trịtác dụng. Đây là lý do vì sao toàn bộ kinh luận đều có phần Duyên Khởi. Thấy pháp của Phật đối nghịch, lộn xộn hay Tam thừa không nhất quán cũng vì không nắm được mặt duyên khởi này.

LẬP NGHĨA là nêu bày tông bổn của luận. Đây là phần chính của luận, là phần LÝ nhằm giải quyết bớt cái nghi của người đời. Nêu tông bổn không chưa đủ, còn phải giải thích phần tông bổn đó cho rõ ràng, chúng sanh mới có thể kham nhận, nên có thêm phần GIẢI THÍCH.

Tạo luận và giải thích là cốt chúng sanh nhận hiểu được rõ ràngphát tâm tu hành. Đó là mục đích chính của kinh luận. Không có phần tu hành này thì pháp Phật chỉ là một môn triết học, không phải là đạo học như chính cái tên đạo Phật nữa. Vì thế, 2 phần cuối mà bộ luận đề cập đến là TU HÀNH TÍN TÂM và KHUYẾN TU. Đây chỉ cho phần SỰ. 

LÝ và SỰ phải đầy đủ dung thông thì tín căn Đại thừa mới phát, nên luận chỉ đúng 5 phần, không thiếu cũng không dư. Thâm hiểu được bộ luận qua kinh nghiệm tu hành của bản thân, ta sẽ phát khởi được tín căn Đại thừa. Phát được tín căn Đại thừa là nhân Phật tánh xuất hiện, thì chủng Phật chẳng đoạn mất, khổ mới thật chấm dứt. Nên cần diễn bày đầy đủ để mọi người cùng hiểu. 

Kế là giải thích phần Nhân Duyên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11639)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11352)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17988)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9952)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15346)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11244)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12100)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10619)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14845)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12690)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19671)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12673)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12269)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11641)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12615)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13629)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13053)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11487)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19706)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant