Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Nhân Duyên

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6922)
Phần Nhân Duyên

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ

Tác giả : MÃ MINH - Dịch & giải: Chân Hiền Tâm
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2004

Phần NHÂN DUYÊN

Đầu tiên nói về phần Nhân Duyên

Hỏi : Do nhân duyên gì mà tạo luận này ?

NHÂN DUYÊN là nói về nguyên nhân làm ra bộ luận. Nguyên nhân nào mà bộ luận được tạo ra?

Đáp : Nhân duyên ấy có 8. Thế nào là 8?

1. Tổng tướng của nhân duyên. Đó là để chúng sanh lìa tất cả khổ, được cái lạc rốt ráo, chẳng phải vì cầu danh lợi và sự cung kínhthế gian.

TỔNG TƯỚNG là nói đến tướng chung, tướng tổng quát. Tuy nguyên nhân có 8, nhưng đây là phần nguyên nhân chung hết. Gọi là chung vì nguyên nhân này lồng trong 7 nguyên nhân kia. TƯỚNG là từ nhà Phật dùng để phân biệt với THỂ, tạm hiểu nó như từ ‘hình thức’ hiện nay. Nguyên nhân khiến bộ luận xuất hiện là do lòng thương xót đối với chúng sanh. Không phải vì danh lợi hay sự cung kính của bản thân mà chỉ vì muốn chúng sanh lìa tất cả khổ, được cái vui rốt ráoLuận chủ tạo luận này.

Luận này không chỉ giúp người đạt được cái vui, mà còn là cái vui rốt ráo. VUI RỐT RÁO là vui mà không còn một chút khổ nào hết. Nó không phải là cái vui duyên khởi với cái khổ ở thế gian, nên nó là cái vui rốt ráo. Vui đã RỐT RÁO thì khổ phải lìa TẤT CẢ. 

TẤT CẢ KHỔ là chỉ cho cái khổ của phàm phu, ngoại đạo, Nhị thừaBồ tát. Nhị thừa tuy nói chứng niết bàn, nhưng niết bàn ấy vẫn còn bị ‘biến dịch sanh tử vi tế khổ’ chi phối. VI TẾ nghĩa là nhỏ nhiệm. Phải qua luôn cái biến dịch sanh tử ấy mới gọi là được cái vui rốt ráo.

2. Vì muốn giải thích nghĩa căn bản của Như Lai để chúng sanh nhận hiểu được chân chánh không lầm. 

NGHĨA CĂN BẢN CỦA NHƯ LAI là tất cả những gì được nói trong phần Lập Nghĩa và Giải Thích.

Đây bắt đầu đi vào chi tiết. Nguyên nhân thứ hai khiến bộ luận ra đời là để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai. Giải thích để làm gì? Để chúng sanh nắm được vấn đề rõ ràng. Có nắm được rõ ràng, mới đủ niềm tintu hành. Đã gọi là CỦA NHƯ LAI thì chỗ ấy không phải là chỗ mà phàm phu, Nhị thừaBồ tát có thể nhận hiểu hoàn toàn, nên cần phải giải thích

3. Vì muốn khiến chúng sanh căn lành thành thục có thể kham nhận Đại thừa, chẳng thối mất niềm tin.

Đây là nguyên nhân thứ ba khiến bộ luận xuất hiện. Ngài Hám Sơn cho những CHÚNG SANH CĂN LÀNH THÀNH THỤC này là những vị ở cấp cuối bậc Thập Tín bước vào Thập Trụ. Căn cứ vào phần nhiễm tâm dưới thì mãn tâm Thập Tín đây là chỉ cho những vị đã phá bỏ được sự chấp thủ đối với ngoại cảnh. Nghĩa là, dù đối cảnh tâm có khởi phân biệt yêu ghét chăng nữa, thì cũng không vì cái yêu ghét ấy mà tìm cách ôm giữ hay tống đi để tạo thành ác nghiệp, mà chịu quả báo khổ đau trong 3 đường dữ.

Thập Tín rồi mà không chịu tu tập thì niềm tin ấy cũng không tới đâu. Vì thế, những vị này tuy được liệt vào hạng ‘thiện căn thành thục’, nhưng vẫn chưa được gọi là hạng bất thối. BẤT THỐI là không rơi vào phàm phu hay Nhị thừa nữa. Dù ra đời trong hoàn cảnh nào thì tâm tu hành theo Đại thừa vẫn hiển lộ. Vì thế, việc tạo luận là cần thiết để giúp người tu tậpnuôi dưỡng tín tâm

KHAM NHẬN, diễn tả cho việc nhận lãnh có sự chịu đựngkiên trì trong đó. Vì sao phải kham nhận? Vì tu Đại thừa thì phải lấy lợi ích của muôn loài làm trọng. Muốn vậy thì việc tu hành không đơn giản, không thể tu qua loa, vui vui như tu phước mà phải tập trung phá trừ bản ngã tập nghiệp. Bản ngã phải không thì việc lợi ích cho muôn loài mới thật sự có. Bản ngã phải trừ thì mới thể nhập lại được cái không của Đại thừa. Cái lạc của niết bàn phải bỏ thì mới có thể thấy được Phật tánh của mình. Không có sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ thì không làm được nên nói KHAM NHẬN. Gặp khó mà không nản thì niềm tin mới không thối, nên nói “Có thể kham nhận … chẳng thối mất niềm tin”.

4. Vì muốn khiến chúng sanh căn lành ít ỏi tu tập tín tâm

CĂN LÀNH ÍT ỎI là chỉ cho những vị cũng có thiện căn, nhưng loại thiện căn này không được như loại thiện căn trên. Tin nhân quả, làm lành tránh ác, cúng dường, bố thí ... nhưng lúc được lúc mất. Nghe nói tâm mình là Phật thì cũng không phản đối, nhưng tin thì cũng chưa tin v.v... đều thuộc địa vị này. Luận lập ra là để giải thích và nêu bày phương tiện khiến các vị tu tậpcủng cố thêm niềm tin đối với Đại thừa.

6. Vì chỉ bày phương tiện tiêu trừ các chướng của ác nghiệp, khéo giữ tâm mình, xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà. 

Mục đích thứ năm khiến Luận chủ tạo luận là vì chỉ bày phương tiện tu hành. Phương tiện ấy là tiêu trừ cái chướng của ác nghiệp. ÁC NGHIỆP là chỉ cho những hành động mang lại đau khổ cho muôn loài. Nhân là khổ thì quả là khổ. CHƯỚNG là chướng ngại, không thuận hoặc ngăn che. Ác nghiệp khiến tâm mình xa dần thiện tâm, ngăn không cho mình thể nhập Phật tánh, nên nói là CHƯỚNG.

SI MẠN là chỉ chung cho tất cả những loại tà chấp.

Gọi là LƯỚI TÀ, vì cái tà này nối tiếp cái tà kia, phủ xuống đời người như một tấm lưới. Ác quả này là nhân cho một ác quả kế tiếp. Ác quả kế tiếp là nhân cho một ác quả kế tiếp nữa. Cứ vậy mà nối dài chằng chịt xoay quanh. Một khi vướng vào si mạn và các ác nghiệp thì như cá mắc trong lưới. Nếu không chỉ bày phương tiện thì khó mà thoát được tấm lưới ấy nên phải tạo luận để chỉ bày. Phương tiện này nhắm vào những vị chưa có thiện căn hay thiện căn ít ỏi.

Giữ được tâm không khởi niệm ác thì ác nghiệp không sanh, nên nói KHÉO GIỮ TÂM MÌNH. 

6. Vì chỉ bày tu tập Chỉ Quán, đối trị tâm sai lầm của phàm phuNhị thừa.

Phương tiện này nhắm vào những vị thiện căn khá thuần thục nên nói “ĐỐI TRỊ tâm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa”. Nói thiện căn thành thục mà có PHÀM PHU, là chỉ chung cho những vị phát tâm tu Phật, không kể là tăng hay tục. Nhị thừa là chỉ cho những vị lấy quả vị A La HánBích Chi Phật làm cứu cánh. Chỗ rốt ráo thật sự không phải là những quả vị ấy nên nói SAI LẦM. Không CHỈ không QUÁN thì không thể lắng tâm, dứt vọng tưởngngộ nhập lại Phật tánh của mình, nên phải nêu bày môn CHỈ - QUÁN để tu tập

7. Vì chỉ bày phương tiện “chuyên niệm” để sanh về trước Phật, nhất định chẳng còn thối mất tín tâm.

Đây cũng nhắm vào những vị đã có thiện căn. Song hạng thiện căn này không hợp với phương tiện CHỈ - QUÁN trên, nên phải chỉ bày phương tiện ‘chuyên niệm’. CHUYÊN NIỆM là chỉ cho việc niệm Phật. Không nói là niệm Phật mà gọi là CHUYÊN NIỆM vì cái niệm Phật này cần chuyên cần không gián đoạn. CHUYÊN thì mới đánh bật được dòng vọng tưởng. NIỆM mà toàn là Phật niệm thì cảnh giới mới là cảnh giới Phật. 

Việc CHUYÊN NIỆM này cũng có công năng giúp gạt bỏ dòng vọng tưởng như phương tiện CHỈ - QUÁN. Song nó dễ dùng và mang tính đại trà hơn, vì nó thuận với cái HAY KHỞI của chúng sanh. Thay vì nói chuyện hay suy nghĩ lan man thì ta niệm Phật. Vậy thì vẫn được khởi, mà khởi cái NIỆM Phật.[5] Tạo luận là để mọi căn cơ có được phương tiện thoát khổ, nên không thể chỉ lập bày phương tiện CHỈ - QUÁN mà cần phải có thêm phần CHUYÊN NIỆM này. 

8. Vì chỉ bày sự lợi ích và khuyên tu hành.

Đây là nguyên nhân cuối khiến Luận chủ tạo luận. KHUYÊN TU là đọc, học, hiểu rồi thì … nhớ tu! Tu mới là chính. Vì đọc học nhiều bao nhiêu mà không tu thì không thể hết khổ. Trong khi khổ là nhân duyên tổng quát khiến Luận chủ tạo luận. Nên phải khuyên tu. KHUYÊN nghĩa là không bắt buộc, không ép uổnggiải thích rõ ràng mọi việc, đồng thời nêu bày sự lợi ích của việc tu hành để người người tự phát tâm. Vì thế, CHỈ BÀY SỰ LỢI ÍCH của việc tu hành là điều tất nhiên phải có trong bộ luận. 

Vì các nhân duyên như vậy mà tạo luận. 

Đây là tổng kết nhân duyên tạo luận. Bởi bản ý của Bồ tát là độ chúng sanh, nên vì chúng sanh phát khởi nhân duyên tạo luận. Trong 8 nhân duyên này, duyên đầu là nói chung, 7 biệt duyên còn lại là bao quát toàn luận. Sẽ nói lại đầy đủ ở văn dưới. [6]

Dưới, hỏi để khai triển rộng nhân duyên tạo luận. 

Hỏi : Tudala đã có đủ pháp ấy, sao còn lập lại?

Trong Khế kinh đã có đủ, vì sao còn phải tạo luận?

Đáp : Trong Tudala tuy có pháp ấy, nhưng do chúng sanh căn hạnh chẳng đồng nên nhân duyên nhận hiểu có khác. Nghĩa là, khi Như Lai còn tại thế, chúng sanh thì căn tánh lanh lợi, người thuyết thì nghiệp của thân tâm thù thắng, viên âm một khi nói ra, mọi loài khác nhau đều cùng nhận hiểu nên chẳng cần tạo luận.

TUDALA là khế kinh, là chỉ chung cho kinh Phật. KHẾ có 2 nghĩa là khế lý và khế cơ. KINH có 2 nghĩa là xâu lõi pháp tướng không rời rạc và nắm giữ điều giáo hóa

PHÁP ẤY là “Nghĩa căn bản của Như Lai”.

CĂN HẠNH CHẲNG ĐỒNG là chỉ cho mức độ thanh tịnh tâm ở mỗi người có sai khác. VIÊN ÂM là chỉ cho âm thanh của Phật. Gọi là viên âm vì cái dụng dung thông và tròn khắp của nó. Nghiệp càng thanh tịnh thì dụng càng rộng. Nghiệp càng thanh tịnh thì việc nhận hiểu đại pháp càng sâu. Người gặp được Phật tức căn lành đã khá sâu, nên thời Phật còn tại thế, việc giáo hóa rộng rãi đến muôn loài mà việc nhận hiểu đại pháp cũng dễ dàng thông suốt. Việc tạo luận lúc ấy không còn cần thiết.

Nhưng sau khi Như Lai nhập diệt, hoặc có chúng sanh lấy việc tự lực nghe nhiều mà nhận hiểu. Hoặc có chúng sanh cũng lấy việc tự lực, nghe ít mà hiểu nhiều.

Đây là tình trạng chúng sanh sau khi Phật đã nhập diệt. TỰ LỰC là, không cần nương nhờ sự giải thích nào khác mà tự mình đọc học kinh điển, rồi nhận lấy nghĩa Như Lai đã nói. TỰ LỰC được vì tâm ít loạn động, phiền não lại mòn mỏng. 2 hạng này căn tánh còn sáng sủa nên có thể tự nghe hay đọc khế kinh mà nhận lấy tâm Phật của mình. 

Hoặc có chúng sanh không tự tâm lực, phải nhờ vào những bộ luận rộng mới nhận hiểu được. Cũng có chúng sanh lại thấy việc “luận rộng văn nhiều” là phiền phức, tâm muốn thâu tóm “văn ít mà thu nhiếp nhiều nghĩa” để có thể nhận hiểu.

Những vị này thì tâm ít sáng sủa hơn, không tự mình hiểu được lời Phật dạy trong kinh. Nghe kinh như vịt nghe sấm, nên chư Tổ phải tạo luận. Tạo luận là cốt cắt nghĩa, biện rõ từng chi tiết bằng ngôn ngữ của mỗi thời, sao cho phù hợp với từng căn cơ để người dễ nhận hiểu. Đây chia làm 2 hạng. Một là hạng phải nhờ vào các bộ luận rộng mới hiểu được. Hạng này tuy đọc kinh không hiểu, nhưng đọc những bộ luận dài và rộng vẫn hiểu được. Hạng thứ hai là hạng sợ chữ nhiều nhưng lại muốn nắm được nhiều thứ. Tâm muốn nhiều nhưng nhẫn lực không đủ, nên không kham nỗi những bộ luận dài mà nghĩa lý lại quá mênh môngchi tiết. Vì thế phải tạo loại luận chữ ít mà nghĩa thật nhiều để đáp ứng.

Luận này là như vậy. Vì muốn tổng nhiếp pháp thâm sâu rộng lớn vô biên nghĩa của Như Lai mà nói luận này.

“LUẬN NÀY là như vậy” là loại luận chữ ít mà nghĩa thật nhiều, được làm ra để đáp ứng cho hạng căn cơ sau cùng. Dịch và giải ra đây thấy còn nhiều chứ phần Hán văn chỉ hơn 11.000 chữ. Song tất cả nghĩa lýNhư Lai đã nói đều gom đủ trong ấy. Quả tình là chữ rất ít mà nghĩa rất rộng. CHỮ RẤT ÍT vì những chi tiết đã được giản lược và tóm gọn. NGHĨA RẤT RỘNG vì tuy giản lược nhưng nghĩa lý sâu xa vẫn đầy đủ. Ngài Hám Sơn nói “Trong ấy đã tổng nhiếp hết cả pháp thâm sâu, rộng lớn, vô biên diệu nghĩa của Như Lai. Nghĩa là, gom hết nghĩa sâu xa của trăm bộ Đại thừa một cách bao quát vô biên, mở rộng pháp giới nhất tâm như nhìn thấy trái cây trong lòng bàn tay. Thật là huyền môn nhập lý, diệu chỉ tu hành! Người học há chẳng hết lòng ư?”.

“Há chẳng hết lòng ư?” vì luận này không chê vào đâu được. LÝ thì bao quát rõ ràng. SỰ thì chỉ bày đầy đủ. Ứng hợp cho mọi căn cơ từ thấp đến cao, nên cần phải hết lòng đọc học tu tập để khỏi phụ lòng bậc Cổ đức.

Đã nói Nhân Duyên, kế nói phần Lập Nghĩa. 

Đây là kết phần trước, giới thiệu phần sau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12469)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10335)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12318)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11615)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28771)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12022)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12976)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11426)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17423)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52973)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35454)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21354)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10662)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19204)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12382)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25981)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13293)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14343)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16057)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13706)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16813)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17526)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13105)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12507)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11586)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11574)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14469)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20397)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18933)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19514)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18594)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12158)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12283)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13824)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14950)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15018)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13958)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15497)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11375)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17134)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14935)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20161)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14591)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13804)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11676)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15021)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12969)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22832)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14533)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11618)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16848)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18311)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11481)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15818)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12856)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18875)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18380)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant