Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6 Phát Thú Đạo Hướng

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6378)
Chương 6 Phát Thú Đạo Hướng

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Bồ Tát Mã Minh
Chân Đế dịch ra Hán Văn - Cao Hữu Đính dịch ra Việt văn 

Chương 6

Phát Thú Đạo Hướng

 Phân biệt phát thú đạo hướng là phân tách cái Tướng Đạo mà tất cả Chư Phật chứng đắc, tất cả Bồ Tát phát tâm tu hành để mau đi đến đó. Lược nói phát tâm có ba loại. Ba loại ấy là gì?

 Một là phát tâm của cấp Tín Thành Tựu.

Hai là phát tâm của cấp Giải Hạnh.

Ba là phát tâm của cấp Chứng.

Tín Thành Tựu Phát Tâm:

Phát tâm Tín Thành Tựu là nương vào những hạng người nào, tu theo những hạnh gì mà thành tựu được tín tâm, khiến cho họ đủ sức phát tâm?

Họ là hạng chúng sanh được mệnh danh là Bất Định Tụ. Nhờ có sức của căn lành huân tập cho nên họ tin quả báo của Nghiệp, khởi hành thập thiện, chán khổ sanh tử, mong cầu Vô Thượng Bồ Đề. Được gặp Chư Phật, đích thân cúng dường, tu hành tín tâm, trải qua một vạn kiếp, vì tín tâm đã thành tựu cho nên được Chư Phật Bồ Tát dạy cho phát tâm hoặc nhờ dấy lòng đại bi cho nên có thể tự phát tâm. Hoặc nhận thấy chánh pháp sắp diệt, vì muốn tạo nhân duyên để hộ trì chánh pháp mà có thể tự phát tâm. Do tín tâm thành tựu mà được phát tâm như vậy thì vào Chánh Định Tụ, rốt ráo không thối lui, gọi là trú trong hột giống của Như Lai, tương ưng với Chánh Nhân.

Nếu có những ai mà căn lành quá mỏng, vì từ nhiều kiếp đến nay phiền não quá sâu dầy, thì dù cho có được gặp Phật và được cúng dường Phật, nhưng họ cũng chỉ phát khởi được hột giống trời người, hoặc hột giống Nhị Thừa. Giả sữ họ có cầu pháp Đại Thừa đi nữa, thì căn tánh cũng bất định, có thể tiến có thể thối. Hoặc có cúng dường Chư Phật, nhưng chưa đầy một vạn kiếp, bổng gặp nghịch duyên, cũng gọi là có phát tâm đấy, nhưng đây là loại phát tâm vì thích sắc tướng của Phật. Hoặc nhân cúng dường chúng tăngphát tâmHoặc nhân gặp Nhị Thừa giáo hóa mà khiến phát tâm. Hoặc vì bắt chước người khác mà phát tâm.

Các loại phát tâm như thế thảy là Bất Định, rủi gặp nhân duyên xấu ác, có thể thối thất hoặc rơi vào đất Nhị Thừa.

Phát tâm của Tín Thành Tựu là phát những tâm gì? Nói ước lược thì có ba loại. Ba loại ấy là gì?

Một là Trực Tâm, tức là Tâm chánh niệm cái Chân Như.

Hai là Thâm Tâm, tức Tâm ưa thích quy tụ các hạnh lành về với mình.

Ba là Đại Bi tâm, tức là tâm ưa muốn diệt trừ tận gốc tất cả khổ đau cho chúng sinh.

Hỏi: trên nói Tướng của Pháp giới chỉ là một, Thể của Phật không hai. Tại sao không niệm chỉ một mình cái Chân Như, mà còn phải mượn phương tiện cầu học các hạnh lành?

Đáp: Ví như viên ngọc Ma Ni to, thể chất trong suốt, nhưng có vết quặng dơ. Mặc dù có nghĩ đến tánh quý của ngọc, nhưng nếu không biết dùng phương tiện mà dũa mài bằng nhiều cách thì không bao giờ ngọc ấy được sáng. Cái Chân Như nơi chúng sanh cũng vậy, thể của nó rộng suốt thanh tịnh, nhưng có vô lượng cấu nhiễm phiền não. Mặc dù có niệm Chân Như, nhưng nếu không biết dùng phương tiệnhuân tập tu hành bằng nhiều cách, thì cũng không được thanh tịnh.

Vì có cấu nhiễm nhiều vô lượng và có khắp trong tất cả các pháp, cho nên muốn đối trị là phải tu tất cả các hạnh lành. Nếu ai tu được tất cả các hạnh lành thì tự nhiên trở về với Chân Như và thuận chiều với Chân Như.

Nói ước lược thì phương tiện có bốn loại. Bốn loại ấy là gì?

Một là phương tiện hạnh tu căn bản. Ấy là quán tự tánh của tất cả các pháp vô sanh, xa lìa vọng kiến, không ở trong sanh tử. Lại quán tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất mà khởi tâm đại bi, gây nên các phước đức để nhiếp hóa chúng sanh, không ở trong Niết Bàn. Không ở trong cả hai là vì tùy thuận tánh các pháp vốn vô trú.

Hai là phương tiện ngăn chặn điều ác. Ấy là thẹn mình hỗ người, sám hối tội lỗi, nhờ đó mà ngăn chặn điều ác không cho lớn thêm. Như vậy là vì tùy thuộc thuận tánh các pháp vốn xa lìa tội lỗi.

Ba là phương tiện phát khởi căn lành và tăng trưởng căn lành. Ấy là siêng năng cúng dườnglễ bái Tam Bảo, tán thántùy hỷ, khuyên mời Chư Phật giáo hóa. Nhờ Tâm thuần hậu kính yêu Tam Bảo ấy mà tín tâm được tăng trưởng, rồi mới có thể lập chí cầu đạo vô thượng. Lại nhân được sức gia hộ của Tam Bảotiêu trừ các nghiệp chướng, khiến căn lành không thối thất. Như vậy là tùy thuận tánh các pháp vốn xa lìa chướng ngại si mê.

Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng. Ấy là phát nguyện hóa độ tất cả chúng sanh, cho đến tận cùng đời vị lai, không bỏ sót một ai, khiến tất cả đều rốt ráo vào vô dư Niết Bàn. Như vậy là tùy thuận tánh của các pháp vốn không đoạn tuyệt. Tánh các pháp rộng lớn, hiện diện cùng khắp tất cả chúng sanh; Tánh ấy bình đẳng không hai, không phân biệt bỉ thử, rốt ráo tịch diệt vậy.

Bồ Tát nhờ phát tâm ấy rồi, thời được thấy một phần nhỏ của Pháp thân. Đã thấy được Pháp thân, thời tùy theo nguyện lực riêng mà hiện ra được tám tướng lợi ích chúng sanh. Đó là: Từ Trời Đâu Xuất xuống, vào thai mẹ, ở trong thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành đạo, giáo hóa, và vào Niết Bàn. Nhưng Bồ Tát ấy chưa được gọi là Bồ Tát Pháp Thân vì các nghiệp hữu lậu gây ra từ quá khứ lâu xa cho đến lúc đó chưa cắt đứt hết, cho nên sanh ra ở đâu thì tùy theo chỗ đó mà có những nghiệp khổ vi tế. Nhưng đó cũng không phải là bị nghiệp buộc ràng, vì có sức tự tại của Đại Nguyện. Như trong kinh có chỗ nói rằng còn bị thối đọa vào ác thú, thật ra thì không phải như vậy. Đó là chỉ vì các Bồ Tát sơ học chưa vào được Chánh Định Tụ mà giãi đãi, cho nên Phật nói như thế để họ sợ hãitinh tấn dõng mãnh hơn lên. Lại nữa, các Bồ Tát ấy sau khi đã phát tâm này thời không còn khiếp nhược, rốt ráo không sợ đọa vào đất Nhị Thừa. Dù nghe nói phải cần khổ tu hành trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp mới đắc Niết Bàn, cũng chẳng khiếp sợ. Vì họ tin và biết tất cả các pháp, từ trong bản chất, đã là Niết Bàn rồi.

Giải Hạnh Phát Tâm:

Qua sự phát tâm của Giải Hạnh thì nên biết là đã trở thành thù thắng hơn. Vì Bồ Tát này từ Sơ Phát Tâm Chánh Tín đến nay, khi a tăng kỳ kiếp đầu sắp hết, thâm giải pháp tánh của Chân Như, tu phép Ly Tướng. Vì biết thể của pháp tánh xa lìa xan tham, cho nên tùy thuậntu hành Bố Thí Ba La Mật. Vì biết pháp tánh không nhiễm ô, xa lìa tội lỗi ngũ dục, cho nên tùy thuậntu hành Trì Giới Ba La Mật. Vì biết pháp tánh không đau khổ, xa lìa não hại của sân hận, cho nên tùy thuậntu hành Nhẫn Nhục Ba La Mật. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm, xa lìa giãi đãi, cho nên tùy thuậntu hành Tinh Tấn Ba La Mật. Vì biết pháp tánh thường định, thể nó không loạn, cho nên tùy thuậntu hành Thiền Định Ba La Mật. Vì biết thể của pháp tánh thường trong sáng, xa lìa vô minh, cho nên tùy thuậntu hành Bát Nhã Ba La Mật.

Chứng Phát Tâm:

Phát tâm cấp Chứng là, từ địa vị Tịnh Tâm lên tới địa vị Cứu Cánh, Bồ Tát chứng cảnh giới gì? Đó là Chân Như, nhưng vì nương vào Chuyển Thức cho nên nói là cảnh giới. Thật ra thì cái chứng đó không có tướng cảnh giới mà chỉ là Trí Chân Như, mệnh danh là Pháp Thân.

Bồ Tát ấy trong khoảng một niệm, có thể đến các thế giới ở cùng khắp mười phương, cúng dường Chư Phật, thỉnh Phật chuyển Pháp Luân, chỉ vì mục đích mở đường chỉ nẻo, làm lợi ích cho chúng sanh, không nương vào văn tự. Có khi vì chúng sanh khiếp nhược mà thị hiện mau thành Chánh Giác, vượt qua tất cả các địa vị tu hành. Có khi vì chúng sanh lười biếng khinh nhờn mà nói "ta trải qua vô lượng vô số kiếp mới thành Phật đạo". Thị hiện vô số phương tiện chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng thật ra thì căn cơ chủng tánh của Bồ Tát ngang nhau, thì phát tâm ngang nhau, sở chứng cũng ngang nhau, không có chuyện vượt qua các địa vị được. Vì tất cả các Bồ Tát đều phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu hành. Chỉ vì chúng sanhthế giới không đồng nhau, các điều thấy nghe cũng như căn cơ, ham muốn và tánh tình có khác nhau, cho nên những việc mà Bồ Tát cấp chứng thị hiện ra cũng có sai khác.

Lại nữa, tướng của Tâm mà Bồ Tát ấy phát có ba loại với tướng rất vi tế. Ba loại ấy là gì?

Một là Chân Tâm vì nó không phân biệt.

Hai là Tâm Phương Tiện, vì nó khắp làm lợi ích cho chúng sanh một cách tự nhiên.

Ba là Tâm Nghiệp Thức, vì nó dấy khởi sanh diệt vi tế.

Lại nữa, Bồ Tát ấy khi công đức đã thành tựu viên mãn rồi, thì thị hiện thân rất cao lớn ở nơi cõi Sắc Cứu Cánh, trùm lên tất cả thế gian. Đó là cái tuệ giáctrong một niệm tương ưng, khiến cho vô minh lập tức rũ sạch, gọi là Trí Nhất Thiết Chủng, do đó mà tự nhiênNghiệp dụng không thể nghĩ bàn hiện ra khắp mười phương để làm lợi ích cho chúng sanh.

Hỏi: Hư không vô biên cho nên thế giới vô biênThế giới vô biên cho nên chúng sanh vô biênChúng sanh vô biên cho nên Tâm tạo tác sai khác cũng vô biênCảnh giới như vậy không thể chia cắt, khó biết khó hiểu. Nếu vô minh chấm dứt thì không có tâm tưởng, làm sao rõ biết được mà gọi đó là Trí Nhất Thiết Chủng?

Đáp: Tất cả cảnh giới, bản laiNhất Tâm, xa lìa tưởng niệm. Vì chúng sanh vọng quấy thấy có cảnh giới, cho nên tâm có chia cắt. Vì vọng tưởng khởi niệm không cân xứng với tánh các pháp, cho nên không thể rõ biết. Chư Phật Như Lai xa lìa tướng Kiến, không đâu không cùng khắp. Vì Tâm Chân Thật tức là Tánh của các pháp, Thể của nó soi sáng tất cả các pháp hư vọng, có diệu dụng của trí lớn mà hiện ra vô lượng phương tiện, rồi tùy theo chúng sanh ứng lại như thế nào đó mà được hiểu. tất cả những cái đó đều có thể mở bày nghĩa của pháp này pháp kia. Cho nên nó mới được gọi là Trí Nhất Thiết Chủng.

Lại hỏi: Nếu Chư Phật có nghiệp tự nhiên, hiện được ở khắp mọi nơi để làm lợi ích cho chúng sanh, và tất cả chúng sanh, hoặc thấy thân Ngài, hoặc nhìn thần biến, hoặc nghe Ngài nói, không một việc gì là không có lợi ích, thế nhưng tại sao thế gian phần nhiều không ai được thấy?

Đáp: Pháp thân của Chư Phật Như Lai bình đẳng hiện diện cùng khắp mọi nơi mà không tác ý, cho nên gọi là tự nhiên. Chỉ vì nương nơi tâm chúng sanhthị hiện, nhưng tâm của chúng sanh thì giống như tấm kiếng, nếu kiếng có bụi thì hình ảnh không hiện ra được. Cũng thế, tâm của chúng sanh nếu có bụi phủ thì Pháp thân cũng không hiện ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12335)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13006)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53030)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21388)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19236)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13312)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14376)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16072)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13116)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14502)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20467)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19561)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18649)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12181)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12298)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13857)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13988)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15509)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11392)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15056)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18338)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant