Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 7 Tu Hành Tín Tâm

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6344)
Chương 7 Tu Hành Tín Tâm

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Bồ Tát Mã Minh
Chân Đế dịch ra Hán Văn - Cao Hữu Đính dịch ra Việt văn 

Chương 7

Tu Hành Tín Tâm

Đã nói xong phần giải thích, giờ đây nói phần tu hành tín tâm. Trong phần này, vì nương vào chúng sanh chưa vào nhóm Chánh Định, cho nên nói tu hành tín tâm.

Những tín tâm gì? Tu hành thế nào?

Nói ước lược thì Tín tâm có bốn món. Bốn món ấy là gì?

Một là lòng tin căn bản, tức thích niệm cái Chân Như.

Hai là tin Phật có vô lượng công đức, luôn luôn nhớ nghĩ, gần gũi, cúng dường cung kính, phát khởi căn lành, cầu mong được Nhất Thiết Trí.

Ba là tin Pháp có những lợi ích lớn, luôn luôn nhớ nghĩ tu theo các hạnh Ba la mật.

Bốn là tin Tăng tu hành chơn chánh, lợi mình lợi người, thường ưa gần gũi chúng Bồ Tát mà cầu học các hạnh tu như thật.

Tu hành có năm món thành tựu được bốn Tín Tâm ấy. Năm món là gì?

Một là môn Bố Thí.

Hai là môn Trì Giới.

Ba là môn Nhẫn Nhục.

Bốn là môn Tinh Tấn.

Năm là môn Chỉ Quán.

Thế nào là tu hành môn Bố Thí?

Nếu thấy bất cứ ai đến cầu xin, mình có tài vật gì thì tùy sức mà cho họ, để trừ bỏ lòng keo lẫn của mình mà lại khiến được kẻ kia hoan hỷ.

Nếu thấy người đang lo sợ vì bị ách nạn bức bách, thì tùy sức mình có thể cáng đáng mà ban vô úy cho họ.

Nếu có chúng sanh đến cầu học chánh pháp thì tùy theo chỗ hiểu biết của mình mà phương tiện nói cho họ nghe, không nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ đến việc lợi mình lợi người, và hồi hướng công đức về quả giác ngộ.

Thế nào là tu hành môn Trì Giới?

Ấy là không giết hại, không trộm cắp, không dâm dật, không hai lưỡi, không ác miệng, không nói dối, không thêu dệt, xa lìa: tham lam ganh ghét, lường đảo gian dối, dua nịnh quanh co, giận dỗi và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì phải chiết phục phiền não, còn cần xa lìa những nơi huyên náo, thường ở những nơi thanh vắng yên lặng mà tu tập lối sống thiểu dục tri túc và các hạnh đầu đàCho đến một lỗi nhỏ xíu, lòng cũng phải lo sợ, xấu hổ ăn năn, không được khinh thường giới cấm của Phật đã chế, phải giữ gìn đừng để bị tị hiềm chê trách, đừng để chúng sanh vọng khởi tội lỗi.

Thế nào là tu hành môn Nhẫn Nhục?

Ấy là nhịn chịu các khổ đau mà người khác gây ra cho mình, không ôm lòng thù hận.

Lại cũng nhịn chịu trước tám điều là: Được tiền, mất của, bị chưởi mắng, được tâng bốc, được khen, bị chê, sung sướng và khổ sở.

Thế nào là tu hành môn Tinh Tấn?

Ấy là đối với các việc lành, lòng không do dự lùi bước, ý chí kiêng cường, xa lìa khiếp nhược. Phải nhớ nghĩ rằng, từ quá khứ lâu xa đến giờ, mình đã luống chịu quá nhiều đau khổ, hết thân tâm này qua thân tâm khác, mà chẳng ích gì. Cho nên giờ đây phải siêng tu các công đức lợi mình lợi người, để chóng thoát khổ.

Lại nữa, nếu có ai tuy nay tu hành tín tâm, nhưng vì đời trước từng gây ra quá nhiều tội ác nghiệp chướng cho nên đời này bị tà ma ác quỷ não hại, hoặc bị công kia việc nọ của thế gian lôi cuốn buộc ràng, hoặc bị ốm đau bịnh tật bức não, hoặc bị vô số chướng ngại khác khiến phải chịu khổ đau tương tự như thế.

Vì vậy cho nên cần phải dõng mãnh siêng năng, ngày đêm sáu thời, lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh Chư Phật thuyết pháp, tùy hỷ công đứchồi hướng công đức về nơi quả Giác, thường xuyên như vậy, không ngưng không bỏ, thời nghiệp chướng mới tiêu trừ và căn lành mới tăng trưởng.

Thế nào là tu hành môn Chỉ Quán ?

Chỉ nghĩa là ngưng nghỉ tất cả các tướng Cảnh giới, vì tùy thuận nghĩa quán Xa-ma-tha.

Quán nghĩa là phân biệt tướng Nhân Duyên sanh diệt, vì tùy thuận nghĩa quán Tỳ-bát xá na.

Thế nào là tùy thuận?

Ấy là dựa vào cả hai nghĩadần dần tu tập, không rời bỏ nhau, cho nên cả hai cùng có mặt.

Nếu là tu Chỉ thì phải ở nơi thanh vắng, ngồi thẳng lưng, suy tư đứng đắn. Không nương hơi thở. Không nương hình sắc. Không nương hư không. Không nương đất nước lửa gió. Cho đến không nương thấy nghe hay biết. Tất cả các suy tư đều phải bị chánh niệm quét sạch. Ngay cả cái ý tưởng quét sạch cũng bị quét luôn. Vì tất cả các pháp, bản lai không có tướng, niệm niệm chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng lại không được niệm cảnh giới ở ngoài tâm, rồi sau mới lấy Tâm trừ Tâm. Nếu Tâm rong ruổi lăng xăng thì phải lập tức thu về, an trú trong chánh niệm. Nói chánh niệm thì phải biết là chỉ có tâm, không có cảnh giới bên ngoài. Ngay Tâm ấy cũng lại không có tướng riêng, không thể đắc cái Tâm ấy trong từng niệm một.

Sau khi ngồi dậy, nếu có làm gì cần phải đi lại tới lui, thì bất cứ lúc nào cũng phải thường niệm phương tiệntùy thuận quán sát, tập như vậy lâu ngày đến mức thuần thục, thì tâm mình được an trú. Vì tâm được an trú cho nên dần dần trở nên mạnh mẽ sắc bén, mà tùy thuận vào được Chân Như Tam Muội, dẹp sầu phiền não, tăng trưởng tín tâm và mau thành bất thối. Chỉ trừ những kẻ vì nghiệp chướngphạm tội nặng như nghi hoặc, không tin, phỉ báng, hoặc ngã mạn và giãi đãi, thì không thể vào được.

Lại nữa, nương vào tam muội ấy thời biết được tướng nhất của pháp giới. Nghĩa là biết pháp thân của tất cả Chư Phật cùng với sanh thân của chúng sanhbình đẳng không hai. Đó gọi là Nhất Hạnh Tam Muội. Nên biết rằng Chân Như là gốc của tam muội. Ai tu hành thuận theo Chân Như thì dần dần phát sanh vô lượng tam muội.

Nếu chúng sanh nào không đủ căn lành, thì bị ác ma, ngoại đạo quỷ thần mê hoặc não loạn. Đang ngồi, bị chúng hiện hình khủng bố. Hoặc hiện hình trai xinh, gái đẹp. Phải niệm các cảnh giới ấy đều là duy tâm, thì chúng sẽ tự tiêu diệt, không bao giờ quấy phá nổi. Có khi chúng hiện hình chư thiên, chư Bồ Tát, ngay cả hình Phật nữa, với tướng tốt và vẻ đẹp đầy đủ. Có khi chúng nói Đà la ni. Có khi chúng nói Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ. Có khi chúng nói Bình Đẳng, Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, Không Oán Không Thân, Không Nhân Không Quả, Không Tịch Rốt Ráo, cho đó là Niết Bàn chân thật. Có khi chúng khiến người ta biết được những việc xảy ra trong các đời quá khứ và những việc sẽ xảy ra trong đời vị lai, có trí Tha Tâm Thông, có biện tài vô ngại, do đó làm cho chúng sanh càng thêm say đắm đường danh nẽo lợi thế gian. Lại có khi chúng khiến người ta chợt giận chợt mừng, tánh khí thất thường. Khi thì thương yêu da diết, khi thì ốm đau ngái ngủ li bì, tinh thần dã dượi. Hoặc vừa mới hăng hái xong thì liền bỏ dỡ công việc, chẳng tin gì hết, đa nghi đa lự. Hoặc bỏ ngang hạnh tu tốt đang tu mà theo các hạnh tu xằng bậy. Hoặc bị những chuyện phức tạp của thế gian lôi cuốn buộc ràng. Chúng còn có thể khiến người ta có được các loại tam muội mang máng như tam muội chân thật, nhưng đây là tam muội của ngoại đạo sở đắc. Hoặc chúng cũng có thể khiến người ta an trú ở trong định, từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn những thức ăn thơm tho tự nhiên, làm cho thân tâm vui sướng, không thấy đói, không thấy khát, khiến phải đắm say. Hoặc làm cho người ta ăn không chừng đỗi, khi nhiều khi ít, nhan sắc thay đổi thất thường. Bởi những việc ma quái như vậy, cho nên hành giả phải thường vận dụng trí tuệquán sát, đừng để tâm mình rơi vào lưới tà. Phải siêng năng chánh niệm, không nắm bắt, cũng không để bị dính mắc, thời xa lìa được các nghiệp chướng ấy.

Nên biết, tam muội của ngoại đạo tu tập đều không lìa Tâm kiến ái và Tâm ngã mạn, vì họ tham đắm danh lợi và sự cung kính thế gian.

Còn Chân Như Tam Muội thì không trú nơi tướng Kiến, không trú nơi tướng Đắc, cho nên khi ra Định, cũng không có giãi đãi, không kiêu mạn, bao nhiêu phiền não có từ trước đều dần dần mỏng hết. Nếu các phàm phu không tu tập phép Tam Muội ấy mà được vào chủng tánh Như Lai thì đó là điều không thể có. Bởi lẽ, tu theo các phép Tam Muội của thế gian thì phần nhiều dấy khởi sa đắm hương vị trần tục, nương vào ngã kiến, bị trói buộc trong ba cõi, giống như ngoại đạo; Còn nếu rời khỏi sự hướng dẫn của thiện tri thức thời dấy khởi tà kiến cũng giống như ngoại đạo.

Lại nữa, ai siêng năng chuyên chú tu hành phép Tam Muội ấy, thì ngay trong đời này, được mười điều lợi ích. Mười điều lợi ích là gì?

Một là thường được Chư Phật Bồ Tát trong mười phương hộ niệm.

Hai là không bị ma quỷ hung dữ khủng bố.

Ba là không bị quỷ thần của chín mươi lăm ngoại đạo mê hoặc nhiễu loạn.

Bốn là xa lìa sự hủy báng giáo pháp thậm thâm, khiến tội lỗi nghiệp chướng nặng nề vơi dần thành cạn mỏng.

Năm là diệt hết mầm nghi đối với ác giác ác quán.

Sáu là đối với cảnh giới của Như lai, tăng trưởng được tín tâm.

Bảy là xa lìa lo lắnghối hận, lòng dõng mãnh không khiếp sợ đối với cảnh sanh tử.

Tám là tâm trở nên nhu nhuyễn, xả bỏ kiêu mạn, không bị người khác gây khổ não.

Chín là dù chưa được định, nhưng bất cứ lúc nào, ở trong bất cứ cảnh giới nào, cũng giảm thiểu được phiền não, không chạy theo dục lạc thế gian.

Mười là nếu đắc tam muội rồi, không bị mọi thứ âm thanh của ngoại duyên làm kinh động.

Lại nữa, nếu chỉ tu Chỉ thời Tâm bị trầm một, hoặc sanh giãi đãi, không thích làm các điều lành, xa lìa Tâm Đại Bi, cho nên phải tu Quán. Tập phép tu Quán là: 

Phải quán tất cả pháp hữu vi trong thế gian đều không tồn tại dài lâu, biến đổi hư hoại trong nháy mắt. Mọi tạo tác của Tâm đều niệm niệm sanh diệt, bởi thế nên khổ.

Phải quán các pháp sở niệm trong quá khứ, thoáng qua như giấc mộng.

Phải quán các pháp sở niệm trong hiện tại như tia điện chớp.

Phải quán các pháp sở niệm trong vị lai như bức tranh chó bỗng hiện ra trong mây.

Phải quán tất cả các thân đương hiện hữu đều là bất tịnh, chứa đầy ô uế, không một thân nào đáng ưa thích.

Như vậy, nên nghĩ tất cả chúng sanh, từ vô thủy đến giờ, đều vì bị Vô Minh huân tập cho nên khiến tâm sanh diệt, từng chịu biết bao đau khổ ê chề, cả thân lẫn tâm. Hiện tại thì bị vô lượng khổ đau bức bách. Cái khổ của vị lai cũng không có giới hạn. Thật là khó bỏ khó dứt, mà chẳng biết chẳng hay. Chúng sanh như vậy đó, rất đáng thương xót!

Tư duy như vậy rồi thì phải liền dõng mãnh lập Đại Thệ Nguyện. Nguyện sao cho tâm ta xa lìa phân biệt, tỏa khắp mười phươngtu hành tất cả các công đức lành, cho đến tận cùng đời vị lai, dùng vô số phương tiện, cứu vớt tất cả chúng sanh đau khổ, khiến cho họ được hưởng cái vui tuyệt đối của Niết Bàn. Nhờ khởi được các nguyện như vậy, cho nên bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, hễ có các việc lànhtùy theo khả năng của mình mà gánh vác, không bỏ sự tu học, Tâm không trễ nãi biếng nhác.

Chỉ trừ khi ngồi thì chuyên niệm tu Chỉ. Còn những khi khác thì phải quán sát cái chi nên làm và cái chi không nên làm. Dù đi, dù đứng, dù nằm, dù dậy, đều nên song tu cả Chỉ lẫn Quán. Nghĩa là: Tuy niệm các pháp, tự tánh không sanh, nhưng cũng tức là niệm nhân duyên hòa hợp, trong đó các nghiệp lành dữ, các báo khổ vui không mất không hư; Tuy niệm nhân duyên với nghiệp báo lành dữ, nhưng cũng tức là niệm tánh của chúng không thể đắc.

Nếu là tu Chỉ thì như khi đối trị Tâm tham đắm thế gian của phàm phu, khiến xả bỏ được kiến chấp khiếp nhược của Nhị Thừa.

Nếu là tu Quán thì như khi đối trị Tâm lượng hẹp hòi của Nhị Thừa, không phát Tâm Đại Bi, khiến xa lìa được lỗi lầm không chịu tu căn lành của phàm phu.

Chính bởi nghĩa ấy, cho nên môn tu Chỉ Quán này giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau. Nếu Chỉ và Quán không đủ, thời không thể nào vào được đạo Bồ Đề.

Lại nữa, chúng sanh mới học pháp này, muốn cầu Chánh Tín, nhưng vì tâm mình còn quá khiếp nhược, sợ rằng ở cõi Ta Bà này, không được thường gặp Chư Phật để đích thân cúng dường, tín tâm e sợ khó thể thành tựu, ý muốn thối lui, thì hãy nên biết rằng Như Laiphương tiện tốt giúp họ thâu nhiếp tín tâm. Đó là dùng nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, theo nguyện mà được sanh về cõi Phật ở một phương khác, thường được thấy Phật, dứt khoác xa lìa đường dữ.

Như trong kinh nói, nếu ai chuyên niệm Đức Phật A Di Đàthế giới Cực Lạc phương Tây, đem các căn lành do mình tu được mà hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới ấy, thì liền được vãng sanh. Bởi lẽ thường được thấy Phật, cho nên không bao giờ còn bị thối lui. Nếu ai quán Pháp Thân Chân Như của Đức Phật ấy và thường siêng năng tu tập, thì cuối cùng sẽ được sanh về, vì đã trú trong Chánh Định rồi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22061)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15915)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14933)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18787)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14302)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11726)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13570)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13839)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13155)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14919)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10990)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16323)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11779)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17476)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13587)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16252)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13028)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12002)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12663)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12790)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14032)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14024)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14290)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13801)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13068)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13415)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12604)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10130)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13821)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13599)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16167)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11880)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10701)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10895)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11808)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10983)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant