Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Khái Quát Về Khởi Tín Luận

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7356)
1. Khái Quát Về Khởi Tín Luận

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 1:
 KHÁI QUÁT VỀ KHỞI TÍN LUẬN

 

I. TÁC GIẢ CỦA KHỞI TÍN LUẬN

Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra) còn được gọi tắt là Khởi Tín Luận, tương truyền do ngài Mã Minh (Aśvaghoṣa) biên soạn, là một trong các tác phẩm tinh hoa, giới thiệu về Phật giáo Đại thừa. Nguyên bản Sanskrit của Luận này không còn nữa. 

Các nghiên cứu học đường gần đây đã đặt ra những câu hỏi liên quan đến tác giả của bản luận. Có thực sự Khởi Tín Luận[1] do luận sư Ấn-độ là ngài Mã Minh biên soạn, hay do một vị luận sư người Trung Hoa trước tác sau này. Damien Keown cho rằng vì “không có bản nguyên tác bằng tiếng Ấn-độ nào đã được phát hiện, hiện nay, chúng ta có thể xác quyết rằng bản luận này là một tác phẩm nguỵ tạo có nguồn gốc từ Trung Quốc.”[2]

Các nhà biên tập Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh hồ nghi tác giả của Khởi Tín Luận không phải là ngài Mã Minh nên đã liệt luận này vào Nghi Tợ Bộ.[3] Giả thuyết này có thể do dựa vào Tứ Huyền Luận Luận 10 và 12 của ngài Huệ Quân. Theo tác phẩm này, tác giả của Khởi Tín Luận là một luận sư tông Địa Luận, vì học thuyết Như Lai tạng trong luận này rất giống với tông thuyết của tông Địa Luận. Giả thuyết này cũng được tác giả của Khai Nguyên Thích Giáo Lục 8 cũng như các học giả Vọng Nguyệt Tín Hanh, Lương Khải Siêu, Âu Dương Tiệm, Lư Trừng, Vương Âm Dương v.v… ủng hộ, với những lý do không tìm thấy bản Sanskrit và không có bản Tây Tạng tương ứng. Các học giả khác như đại sư Thái Hư, đại sư Ấn Thuận, HT. Thích Trí Quang, cư sĩ Đường Đại Viên, Chương Thái Viêm và các dịch giả Khởi Tín LuậnViệt Nam đều cho rằng tác giả của luận này không ai khác hơn chính là ngài Mã Minh.[4]

Mặc dù theo các học giả Nhật Bản hiện đại, tác giả của Khởi Tín Luận không phải là luận sư Ấn-độ, mà là luận sư Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã không thuyết phục được giới học giả rằng luận sư Trung Quốc đó là ai. 

Khởi Tín Luận được các trường phái Đại thừa xem như là luận phẩm chánh thống, được sử dụng rộng rãi đến ngày nay, như sách giáo khoa không thể thiếu về áo nghĩa Đại thừa. Trong tương lai, nếu bản nguyên tác Sanskrit không tìm ra được thì đó là một sự mất mát lớn đối với học giới, và do vậy, chúng ta chỉ có thể giới hạn tư tưởng triết học của ngài Mã Minh vào các bản dịch bản chữ Hán được truyền thừa.

 II. CÁC BẢN DỊCH KHỞI TÍN LUẬN

Mặc dù bản nguyên tác Sanskrit không còn, cũng không có bản Tây Tạng để đối chiếu, chúng ta có được hai bản dịch chữ Hán trong Đại Tạng Kinh

Niên đại ra đời của dịch phẩm Khởi Tín Luận cũng không được thống nhất. Trong lời tựa của bản dịch đời Lương, Khởi Tín Luận được dịch ra chữ Hán lần đầu vào năm 550,[5] trong khi đó, có chỗ ghi năm dịch là 553.[6] 

Vào niên hiệu Thừa Thánh thứ ba thuộc triều Lương Nguyên Đế, nhằm năm 553, bản đời Lương của ngài Chân Đế (真諦; S. Paramārtha)[7] được phiên dịch tại chùa Kiến Hưng, thuộc Hoàng Châu, có sự cộng tác của nhiều người. Vương tử Bà-thủ-na (婆首那) người nước Nhục Chi dịch ngữ. Sa-môn Trí Khải chấp bút. Sa-môn Huệ Hiển, Vân Trấn v.v… chứng nghĩa

Theo Chúng Kinh Mục Lục 5 (Đại 55: 142a), có thể ngài Chân Đế không phải là dịch giả của luận này, vì trong tuyển tập các tác phẩm và dịch phẩm của ngài mang tên là Chân Đế Lục không hề thấy ghi chép về dịch phẩm này. Đó là lý do Khởi Tín Luận được liệt vào Nghi Tợ Bộ.

Đây là bản dịch được đưa vào Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập 32, các trang 575-583, với nhiều bản sớ giải của các luận sư[8] từ trước đến giờ. Ngoại trừ Suzuki, các học giả đã chọn bản dịch này làm bản nghiên cứu và dịch ra các thứ tiếng khác. 

Vào đời Đường, năm 669, ngài Thật-xoa-nan-đà (實叉難陀; S. Śikṣānanda)[9] đã dịch lại Khởi Tín Luận, đưa vào Đại Tạng Kinh, tập 32: 583-591, ngay sau bản dịch của đời Lương. Bản dịch này chỉ có một bản sớ giải của ngài Trí Húc đời Minh, trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh[10] và ít được trích dẫn trong các nghiên cứu học đường.

Các mặc ước trích dẫn của hai bản dịch này sẽ được ghi là Đại 32: 575-583 và Đại 32: 583-591, với mặc ước như sau: Đại viết tắt của Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, 32 là số tập trong ấn bản tân tu của Đại Tạng Kinh vừa nêu và các con số sau dấu hai chấm là số trang tương ứng

D.T. Suzuki là người đầu tiên dịch tác phẩm này ra Anh ngữ. Bản dịch của Suzuki đã được tái bản nhiều lần, vốn dựa vào bản dịch chữ Hán của Thật-xoa-nan-đà. Mỗi lần tái bản, các nhà xuất bản đã đặt lại tên khác. Bản dịch tiếng Anh được nhà xuất bản Asian Humanities Press ấn hành vào năm 1900 ghi là “Luận Đánh Thức Niềm Tin về Đại Thừa của ngài Mã Minh” (Asvaghosha’s Discourse on the Awakening of Faith in the Mahayana); trong khi đó, ấn bản của Nhà xuất bản Dover Publications New York ấn hành vào năm 2003 ghi là “Đánh Thức Niềm Tin: Luận Giải Cổ Điển về Phật Giáo Đại Thừa (The Awakening of Faith: The Classic Exposition of Mahayana Buddhism). 

Bản dịch tiếng Anh thứ hai của Timothy Richard mang tựa đề là “Đánh Thức Niềm Tin của Mã Minh” (The Awakening of Faith of Ashvagosha) được ấn hành vào năm 1907. Mặc dù dịch sau Suzuki, bản này không được đầu tư một cách công phu, như một dịch phẩm học đường, thiếu hẳn phần nghiên cứu và chú thích cần thiết.

ít nhất năm bản dịch tiếng Việt đã được xuất bản từ trước đến giờ. Các bản dịch này đều dựa vào bản dịch chữ Hán đời Lương của ngài Chân Đế. Bản dịch tiếng Việt của chúng tôi lấy bản đời Lương làm chuẩn, có đối chiếu với bản dịch đời Đường của ngài Thật-xoa-nan-đà. Các điểm khác biệt sẽ được ghi nhận ở phần cước chú, để độc giảthể tham khảo khi cần thiết.

Bản dịch của cư sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám có thể là bản dịch tiếng Việt đầu tiên dưới dạng bản cảo. Bản dịch này được sử dụng làm giáo án cho tăng sinh của Phật Học Đường Báo Quốc khoảng 50 năm về trước. Bản dịch này đã được HT. Thích Trí Quang giới thiệu trong phần phụ lục của Khởi Tín Luận của mình (các trang 277-343). Bản dịch này không có chú thích, cũng không có phân đề mục, như chính trong bản nguyên tác.

HT. Thích Trí Quang có hai bản dịch về Khởi Tín Luận. Bản dịch đầu được xuất bản vào năm 1949. Bản dịch mới nhất có bổ sung và chú thích đầy đủ hơn được xuất bản năm 1995. Đây là hai bản dịch có đối chiếu tham khảo với bản dịch đời Đường, có chú thích chi tiết, phân chương mục cụ thể, theo phong cách học đường, rất có giá trị cho việc khảo cứu chuyên sâu về đề tài.

Bản dịch của HT. Thích Thiện Hoa mang tựa đề “Luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch Nghĩa và Lược Giải” được xong vào năm 1962, được đưa vào bộ “Phật Học Phổ Thông, khoá X-XI, và được tái bản nhiều lần. Cấu trúc của dịch phẩm này dựa vào cấu trúc truyền thống của bản dịch chữ Hán đời Lương, nhưng lại phân chia thành bài khoá cụ thể, giúp cho người học dễ nắm bắt. Mỗi bài gồm phần chính văn, phần dịch nghĩa và phần lược giải, rất cô đọng và dễ hiểu.

Bản dịch của cư sĩ Tâm Nguyên – Cao Hữu Đính hoàn tất vào năm 1983 và được NXB Thuận Hoá ấn hành vào năm 1996, với tựa đề “Luận Đại Thừa Khởi Tín.” Đây là bản dịch có phân tiết mục, phiên âm bản Hán, dịch nghĩa tiếng Việt và giải thích nghĩa lý từng phần, tiện cho người học tham khảo.

Ngoài ra, còn có bản dịch của TT. Thích Thiện Thông có phong cách giống với tác phẩm của HT. Thích Thiện Hoa và Cao Hữu Đính.

Mặc dù Khởi Tín Luận là bản tóm tắt quan trọng về triết lý Đại thừa, mà không học giảhành giả nào lại không lưu tâm, các bản dịch ngoài tiếng Anh cho đến bây giờ vẫn còn là điều hiếm thấy. Theo Suzuki, sở dĩ các nhà nghiên cứu phương Tây không quan tâm nhiều về Khởi Tín Luận là vì đây là bộ luận nền tảng về Đại thừa, mà Đại thừa theo họ là:

Chủ nghĩa hư vô, phủ định thượng đế, thần hồn, thế giới và tất cả. Một số người cho rằng Đại thừađa thần giáo . . . hoặc học thuyết nguỵ biện . . . trong khi đối với người phủ định Đại thừa từ gốc độ lịch sử cho rằng Đại thừa không phải là lời dạy chánh thống của đức Phật, mà chỉ là sự sáng tạo đơn thuần của Long Thọ. . . Hoặc có người cho rằng Đại thừa là sự hỗn hợp giữa thần học Ấn-độ vốn phát triển thoải mái trong giai đoạn mật tông với sự biến thái của những lời dạy về đạo đức cao quý trong Phật giáo nguyên thuỷ.[11]

Mặc dù bản nguyên tác không còn nữa, thông qua 2 bản dịch của các dịch giả Trung Quốc, chúng ta vẫn có thể truy nguyên các tư tưởnghọc thuyết về Đại thừa sơ khởi. Khởi Tín Luậntác phẩm tóm tắt rất đặc sắc về triết lý và siêu hình học Đại thừa. Tác phẩm này đã được hầu hết các tông phái Đại thừa nghiên cứuhành trì như một quyển sách gói đầu giường.

 III. CẤU TRÚC NỘI DUNG CỦA KHỞI TÍN LUẬN

Khởi Tín Luận (起信論; Śraddhotpāda Śāstra = phát khởi niềm tin) gọi đủ là Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論; Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra) là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa. Trong tựa đề nguyên tác Sanskrit, có ba thuật ngữ được đề cập đến. 

Mahāyāna có nghĩa là đại thặng, thường quen đọc là đại thừa,[12] chỉ cho cỗ xe lớn, có khả chuyên chở cùng một lúc nhiều hành giả đến bến bờ giác ngộ tối thượng (vô thượng chánh đẳng chánh giác). Đây là con đường chuyển hoá rộng lớn của các bậc đại nhân hay đại sĩ, trên nền tảng của tình thương cứu độ vượt thoát khỏi ranh giới của thân sơ. Phương thức chuyên chở và cứu cánh của bờ bên kia là hai tiêu chí để xác lập đâu là cổ xe lớn và cổ xe thông thường còn lại. Đại thừa là cổ xe lớn, đáp ứng nhu cầu của nhiều căn cơ, có khả năng giúp cho nhiều người và nhiều loài được an vui và giác ngộ. Do đó, đại thừa là cổ xe của lòng vị tha, vô ngã và dấn thân phục vụ cộng đồng không mệt mỏi. Đại thừa thường được xác lập trên cái tâm từ bi vĩ đại đối với chúng sanhtrí tuệ bao la trong cách hoá độ; hoàn toàn không phải là thuật ngữ chỉ cho những vị sư theo truyền thống Nam tông hay Bắc tông hay hình thức ăn mặc của các vị sư trong hai truyền thống ấy.

“Khởi tín” là từ dịch sát nghĩa của tiếng Phạn là śraddhotpāda. “Pāda” trong ngữ cảnh này còn có nghĩa là “thiết lập,” “xây dựng,” hay “nền tảng.” “Śraddha” có nghĩa đen là “niềm tin,” với đối tượng không phải là thượng đến hay sự ban phước giáng hoạ, sự hên xui may rủi, mà là lòng xác quyết trước chân lý, và dĩ nhiên chân lý ở đây là lý đại thừa. Do đó, “khởi tín” có thể dịch là “thiết lập niềm tin,” hay “xây dựng niềm tin,” hoặc bóng bẩy hơn là “đánh thức niềm tin” (the awakening of faith) như bản dịch tiếng Anh của Suzuki và Timothy Richard.

“Luận” (śāstra) là thuật ngữ chỉ chung cho các tác phẩm Phật học của các vị tổ sư Phật giáo, giới thiệu một cách có hệ thống giáo nghĩa Phật dạy trong các kinh, hoặc chỉ cho một học thuyết Phật học do một vị luận sư hay tổ sư chủ xướng như một cách thức hiểu và hành trì Phật học, có ít nhiều liên hệ hoặc độc lập với các tác phẩm có trước, hay là một tác phẩm nhằm chiết phục các chủ thuyết của các tư tưởng gia ngoài đạo Phật, hay chỉnh đốn lại các học thuyết đã có trong PG.

“Đại Thừa Khởi Tín Luận” có thể được dịch là “Phát Khởi Niềm Tin về Đại Thừa” hay “Xây Dựng Niềm Tin về Đại Thừa” hay “Đánh Thức Niềm Tin về Đại Thừa.” Cần lưu ý ở đây rằng cụm từ “Đại thừa khởi tín” (mahāyāna śraddhotpāda) không nên dịch là “phát khởi niềm tin đại thừa,” mà là “phát khởi niềm tin về/đối với đại thừa.” Các bản chữ Hán dịch rất xác với bản Sanskrit là “khởi đại thừa chi tín” (起大乘之信 = phát khởi niềm tin về đại thừa) hoặc “đại thừa chi khởi tín (大乘之起信 = sự phát khởi niềm tin về đại thừa). 

HT. Thích Thiện Hoa dịch “đại thừa khởi tín” thành “phát khởi lòng tin đại thừa” trong đoạn sau đây: “Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là “Đại thừa khởi tín.”[13] Cao Hữu Đính vì quá cố gắng o ép “đại thừa” thành “tâm đại thừa” nên đã dịch “đại thừa khởi tín” thành “phát khởi tín tâm Đại Thừa”[14] làm cho mạch văn trở nên tối nghĩa. HT. Thích Trí Quang đã đồng ý với quan điểm của Cao Hữu Đính, khi cho rằng: “Đại thừa khởi tín không có nghĩa nhiều rằng phát khởi đức tin đối với đại thừa, mà nghĩa chính là phát khởi đức tin đại thừa: đức tin tin cái Tâm đại thừa.”[15] Trên thực tế, tâm đại thừa chỉ là một trong những nội dung quan trọng của đức tin về đại thừa, không thể thay thế cho toàn bộ nội dung của đức tin về đại thừa được. 

Phần chính văn của Khởi Tín Luận ghi rất rõ: “khởi Đại thừa chi chánh tín” (起大乘之正信) tức “làm khơi dậy niềm tin về đại thừa một cách chân chánh.”[16] Cũng cần nói thêm rằng “phát khởi niềm tin đại thừa” có nội dung khác với “phát khởi niềm tin về/đối với đại thừa” vì trong mệnh đề đầu, niềm tin ở đây được hiểu là niềm tin đại thừa, khác với các niềm tin phi đại thừa. Như vậy, đại thừa trở thành tính từ bổ nghĩa cho danh từ niềm tin, chứ không nói lên được bản chất và nội dung của niềm tin này là gì mà được gọi là cổ xe lớn. Trong khi đó, trong mệnh đề “phát khởi niềm tin về đại thừa,” thuật ngữ “đại thừa” trở thành tân ngữ của động từ niềm tin, chỉ tin về đại thừa, chứ không tin theo bất kỳ cái gì khác ngoài đại thừa, và đại thừa ở đây làm cho niềm tin trở nên vĩ đại. Niềm tin về đại thừa tức tin vào giáo pháp cao siêu, có khả năng chuyển hoá nhiều người đạt ngộ, giải thoát khổ đau. 

Như vậy, bản chất của “đức tin đại thừa” đó là gì? Cao Hữu Đính đã dựa vào một đoạn văn trong bản dịch chữ Hán khẳng định rằng đó là niềm tin vào cái tâm bình thường ở mọi người và mọi chúng sinh có khả năng giúp cho chúng sinh có thể đi và đến như chư Phật: “Bốn chữ ‘Đại Thừa Khởi Tín’ phải được hiểu theo nghĩa đúng đắn của nó là: ‘phát khởi lòng tin vào chính cái Tâm bình thường ở ngay nơi mình. Từ cái Tâm bình thường đó, chúng sinh sẽ đi đến đất Phật, như Bồ tát đang đi và sẽ đến như chư Phật đã đến.”[17]

HT. Thích Trí Quang đã giải thích đức tin đại thừa trên nền tảng thể tướng dụng của tâm, vốn khác với các niềm tin tôn giáo thông thường:

Đức tin đại thừa là tin vào thể tướng dụng của Tâm. Tâm ấy vĩ đại, Tâm ấy đưa những bậc vĩ đại đạt đến vị trí vĩ đại. Đó là sự tự tín không phải như đức tin của tôn giáo thượng đế hay ý thức về ngã. Tin Phật, đấng thực chứng về tâm, khai thị tâm ấy, và hội trì để cho người khác cũng tin tưởngthực chứng được Tâm ấy, tin Phật như vậy, và đức Phật được tin như vậy, cũng là biểu hiện của đức tin đại thừa mà không có gì so sánh được.[18]

Thực ra, niềm tin về đại thừa trong Khởi Tín Luận không chỉ tin vào cái tâm vĩ đại, để đạt đến vị trí vĩ đại, mà là tin tất cả giáo nghĩa, học thuyết và sự hành trì đại thừa, được giới thiệu trong các Kinh luật đại thừa như Hoa Nghiêm, Mật Nghiêm, Thắng-man, Kim Quang Minh, Đại Tập, Lăng-già, Anh-lạc, Bát-nhã, Pháp Hoa và Niết-bàn.[19] Tác giả của KTLSKHD: 33, cho rằng các Kinh Luật nêu trên được xem là kinh điển nền tảng về đại thừa đã được ngài Mã Minh tóm tắt một cách cô đọng và súc tích trong Khởi Tín Luận

Các niềm tin về đại thừa này đã được trình bày một cách ngắn gọn nhưng vẫn sâu sắc, kèm theo đó là các phần quyết nghi, được trình bày dưới dạng tự vấn đáp. Các nội dung tiêu biểu nhằm xác lập niềm tin về đại thừa bao gồm

a) Thuyết nhất tâm cho rằng tâm chúng sinh và tâm Như Lai vốn không khác nhau về mặt chân lý tuyệt đối (chân đế); 

b) Thuyết nhị môn chủ trương rằng tâm có hai phương diện là tâm nhìn từ phương diện bản thể (tâm chân như môn) và tâm nhìn từ phương diện hiện tượng (tâm sinh diệt môn); 

c) Tam đại của tâm bao gồm ba cái lớn về mặt bản thể (thể đại), về mặt hình tướng (tướng đại) và về mặt hoạt dụng (dụng đại). 

d) Hai loại chân như (Bhūtatathatā) tức ly ngôn chân như (ngôn thuyết, danh từ và tâm duyên) và y ngôn chân như (như thật khôngnhư thật bất không).

e) Phân biệt tâm bất giác (gồm nghiệp tướng, chuyển tướnghiện tướng) và tâm giác ngộ (gồm thuỷ giácbản giác).

f) Bản chất đồng và dị của bất giácgiác ngộ cũng như của tất cả mọi sự vật hiện tượng.

g) Phân biệt tâm (tức a-lại-da = ālayavijñāna) với ý (tức năm ý: nghiệp thức, chuyển thức, hiện thức, trí thứctương tục thức) và thức (tức ý thức hay phân biệt sự thức).

h) Các huân tập nhiễm pháp (vô minh, vọng cảnh và vọng tâm) và huân tập tịnh pháp (huân tập chân như).

k) Học thuyết tam thân: pháp thân (tức chân như tự thể tướng hay như lai tạng Thatāgatagarbha), báo thân (tức nghiệp thức tâm sở hệ thức) và ứng thân (tức phân biệt sự thức sở kiến).

l) Phát khởi tâm bồ-đề qua ba phương diện: ngôn thành tựu phát tâm, giải hành phát tâmchứng phát tâm.

Khởi Tín Luận còn dạy hành giả về cách thiết lập tín tâm tu hành. Tín tâm ở đây là lòng tự tín về khả năng phá trừ chấp phápchấp ngãđức tin bất động đối với Tam Bảo. Tu hành ở đây bao gồm năm hạnh đầu trong lục độ (tỉnh lược độ thứ sáu là trí tuệ).

Các giáo nghĩa liên hệ đến niềm tin về đại thừa nêu trên sẽ được giải thích trong các phần liên hệ ở những bài học sau.

[1] Về sau viết tắt là Khởi Tín Luận.

[2] Oxford Dictionary of Buddhism, ed. By Damien Keown (Oxford University Press, 2003), p.168b: “No Indian original has ever been discovered, and it is now certain that the text is an apocryphal work of Chinese origin.”

[3] Tuyển tập các Kinh được gán cho Phật nói cũng như các tác phẩm không rõ tác giả và nội dung của nó có nhiều điểm còn nghi ngờ.

[4] Thao khảo thêm PQĐTĐ III: 2202.

[5] Đại 49: 99.

[6] Đại 32: 575.

[7] Còn được gọi là Kulanātha, được người Trung Hoa phiên âm là Ba-la-mạt-đà (波羅末陀) hay Câu-na-la-đà (拘那羅陀), và dịch nghĩa đen là Thân Y (親依) là người nước Ưu-thiền-ni (優禪尼; S. Ujjayana hoặc Ujjayini, nay là Oujein), thuộc Tây Ấn-độ. Ngài Chân Đế đến Trung Quốc vào năm 546 và mất năm 569, thọ 71 tuổi. Theo Suzuki (1900: 39), ngài dịch tác phẩm này vào ngày 10-9-554.

[8] Tham khảo PQĐTĐ III: 2203-6 để biết thêm chi tiết về tên các bản sớ giải và tác giả của chúng.

[9] Được người Trung Quốc dịch là Hỷ Học (喜學). Ngài là người thuộc nước Kusutana (Khoten), tịch vào năm 710, hưởng dương 59. Theo Suzuki (1900: 39), ngài dịch tác phẩm này vào ngày 08-10-700.

[10] Khởi Tín Luận Liệt Cương Sớ (起信論列綱疏).

[11] Asvaghosha’s Discourse On the Awakening of Faith in the Mahayana, tr. By Suzuki, (Asian Humanities Press: 1900), pp. xi-xii.

[12] Chữ Hán được sử dụng với hai tự loại. Nếu đọc là “thừa” sẽ trở thành động từ “cởi;” trong khi nếu đọc là “thặng” thì trở thành danh từ là “cổ xe.” Trong thuật ngữ大乘” chữ phải được đọc là “thặng” với nghĩa là “cổ xe lớn.”

[13] Thích Thiện Hoa., PHPT. (1992, quyển 3: 245).

[14] Cao Hữu Đính, LĐTKT. (1996: 9).

[15] Thích Trí Quang., KTL. (1995: 29). Các phần in nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh.

[16] Nguyên văn bài kệ như sau: “Vị dục linh chúng sinh/ Trừ nghi, xả tà chấp/ Khởi Đại thừa chánh tín/ Phật chủng bất đoạn cố.” Tạm dịch là: “Vì giúp cho mọi loài/Dứt nghi, buông chấp quấy/Gieo niềm tin Đại thừa/Làm giống Phật không mất.”

[17] Cao Hữu Đính, LĐTKT. (1996: 18).

[18] Thích Trí Quang., KTL. (1995: 31).

[19] Tác giả của KTLSKHD: 33, cho rằng các Kinh Luật nêu trên được xem là kinh điển nền tảng về đại thừa đã được ngài Mã Minh tóm tắt một cách cô đọng và súc tích trong Khởi Tín Luận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33068)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6486)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11194)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30340)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30397)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12134)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11553)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12742)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34671)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52214)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10708)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10475)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10412)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13029)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16192)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21764)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9572)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7071)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12681)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16185)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16477)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13808)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16515)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12063)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14274)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9161)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11714)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11228)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16260)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14309)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16166)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12035)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15627)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11468)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13994)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11982)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12593)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14947)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14487)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20642)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20644)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14291)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20276)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17576)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13959)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31816)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11958)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant