Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tông Chỉ Tạo Luận Khởi Tín

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6905)
2. Tông Chỉ Tạo Luận Khởi Tín

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 2: 
TÔNG CHỈ TẠO LUẬN KHỞI TÍN

 

I. KÍNH LỄ TAM BẢO 

Nguyên Văn
Con cúi đầu đảnh lễ
[Tam Bảo] khắp mười phương:[1] 
Phật là bậc tuệ giác[2] 
Thánh hạnh không ai hơn[3]
Sắc thân luôn vô ngại[4]
Bậc đại bi cứu đời.
Giáo pháp của Thế Tôn[5] 
Bao la như biển lớn
Diễn bày lý vô ngã[6]
Kho công đức vô lượng.
Tăng là đoàn thể[7] quý
Người hành trì đúng cách[8]
Giáo pháp của Như Lai.
Để đạt được chánh giác.[9]
Nay tôi viết luận này[10]
Vì muốn giúp mọi người[11]
Chặt đứt được lưới nghi,
Dẹp tan kiến chấp sai,
Tin đúng về Đại thừa,
Tiếp nối hạt giống Phật.[12]

II. TÔNG CHỈ SÁNG TÁC

Một cách tóm tắt, mục đích sáng tác Khởi Tín Luận bao gồm bốn phần: 

a) Cắt đứt lưới nghi hoặc: về Phật, Pháp, Tăng, nhân quảgiải thoát; hiển thị chánh nghĩa. Đối với hành giả Đại thừa, nghi có hai loại: (1) nghi pháp làm chướng ngại sự phát tâm,(2) nghi môn làm chướng ngại sự hành trì.

b) Phá trừ các kiến chấp sai lầm: các chủ nghĩa và học thuyết ngoại đạo. Tà chấp căn bản gồm: (1) thần ý luận, (2) định mệnh luận, (3) ngẫu nhiên luận. Hoạt dụng của phá kiến chấp là giúp hành giả lìa các vọng khổ.

c) Phát khởi niềm tin về Đại thừa: hướng hành giả sơ tâm trở về con đường giác ngộchuyển hoá lớn. Chức năng hiển chánh rất quan trọng, nhằm đính chính các quan niệm sai lầm về Phật như thần linh, giáo pháp như bùa chú, và mặt khác, xiển dương giáo lý cao siêu của Đại thừa.

d) Làm cho giống Phật không mất: giúp hành giả làm sống dậy tiềm năng Phật tính vốn có.

 III. NHẬN XÉT

2.1. Cả hai bản Lương và Đường đều dịch thể thơ năm chữ, gồm 12 câu. Cách phân bổ của bản Đường cân đối hơn: bốn câu đầu tán thán Phật, hai câu kế tán thán pháp, hai câu 6-7 tán thán Tăng. Bốn câu cuối giới thiệu động cơ và mục đích sáng tác. Bản dịch đời Lương có 3 câu nói về Pháp, nhưng chỉ có một câu nói về Tăng, nên hơi tối nghĩa. Bố cục của các phần còn lại giống với bản đời Đường.

2.2. Khởi Tín Luận bắt đầu bằng bài kệ tán dương Tam Bảo, nền tảng quy ngưỡngthực hành của tất cả hành giả. Đưa ba ngôi báu lên trên mục đích sáng tác Khởi Tín Luận, ngài Mã Minh cho thấy tất cả các luận sư nói riêng và con Phật nói chung cần phải biết trở về cội nguồn tâm linh của mình. Nhờ đó, việc làm của luận chủ không trở thành tán dương bản ngã. Nói cách khác, tất cả việc làm phải được thiết lập trên sự xiển dương Tam Bảo thì mới được gọi là Phật sự.

2.3. Hình ảnh đức Phật được ngài Mã Minh tán dương bao gồm ba phương diện: trí tuệ viên mãn, hạnh đức tròn đầy và sắc thân vô ngại. Với hạnh đức tròn đầy, Phật trở thành tấm gương hành trì tâm linh. Với trí tuệ viên mãn, Phật sẽ hoá độ nhiều người trở về con đường tỉnh thức. Với sắc thân vô ngại, Phật đến và đi tự tại, không hệ thuộc không gian địa lý và thời gian vật lý. Ba đức tính quan trọng này có thể đại diện cho các đức tính cao quý khác của đức Phật, thường được gọi bằng danh xưng là “Như Lai thập hiệu.” 

Mười hiệu cuả Phật là: “Phật (Buddha = bậc giác ngộ) là Như Lai (Tathāgata), bậc A-la-hán (Arhat), bậc Đại Giác Ngộ (Samyaksambuddha), bậc Tuệ Đức Đầy (Vidyācaranasampanna), bậc Khéo Vượt Qua (Sugata = thiện thệ), bậc Hiểu Thế Giới (Lokavid), bậc Điều Phục Đời (Purushadamyasârathi = điều ngự trượng phu), bậc Vĩ Đại Nhất (Anuttara = vô thượng sĩ), bậc Thầy Trời Người (Cāstādevāmanushyānām).” 

2.4. Dharma theo ngài Mã Minh bao gồm tất cả lời Phật dạy. Ngài đã dùng ảnh dụ “đại dương” bao la, không ngằn mé để mô tả bản chấtcông dụng của giáo pháp. Theo đó, thể tướng của giáo pháp vượt khỏi mọi tà thuyết, như biển sâu thẩm, bao hàm vạn vật; như biển bao la, không thiếu đức gì, như biển nhiều báu, không vật nào không hiện. Trọng tâm của giáo pháp nhằm khai thị và xiển dương đạo lý vô ngã. Nói cách khác, “vô ngã” được xem là dấu ấn của triết họctâm học Phật giáo. Bản Lương không nói về “lý vô ngã” (無我句). Bản Đường ghi rõ hơn “vô ngã cú nghĩa pháp” 無我句義法 có nghĩa đen là “pháp của Phật giải thích rõ về học thuyết vô ngã.” Vô ngã cú dịch sát từ chữ Sanskrit là “anātman-vada.” Cần lưu ý “vāda” trong ngữ cảnh này không có nghĩa là “cú” mà có nghĩa là học thuyết, chủ nghĩa. Vô ngã cú có nghĩa là học thuyết vô ngã hay nguyên lý vô ngã. HT. Trí Quang dịch “tức biển pháp tánh, chân như phi ngã” là phối hợp ý tưởng của hai bản dịch đời Lương và đời Đường, nhằm bổ túc những điểm có trong bản này nhưng không có trong bản khác. 

Các nhà sớ giải kinh tạng Đại thừa phân giáo pháp thành bốn loại: a) giáo (thiển = đơn giản, súc tích), b) lý (thâm = sâu sắc, có tác dụng lớn), c) hạnh (phần = chi mục và giai đoạn), d) quả (viên = trọn vẹn, đầy đủ). Chính vì thế mà giáo pháp được quan niệm như kho tàng vô giá hay kho công đức vô lượng của tất cả chúng sinh.

Trong Kinh tạng Pali, đặc biệt là Kinh Trung Bộ, có sáu giá trị quan trọng của lời Phật dạy, vượt lên trên giá trị nhất thời của các tôn giáo, chủ nghĩahọc thuyết

a) Diễn bày khéo léo = giáo pháp được đức Phật thuyết giảng rất tài tình (Pali: svākkhāto bhagavā dhammo), ứng hợp với căn tính của người nghe, giúp họ được lợi lạc

b) Thiết thực hiện tại (Pali: sandiṭṭhiko = realizable here and now). Giáo pháp này có giá trị tức thờihiệu nghiệm nhanh chóng, giúp cho người thực tập đạt được an vui và hạnh phúc, không cần phải đợi sau khi chết.

c) Siêu việt thời gian (Pali: akāliko), giá trị của lời Phật dạy không bị hạn cuộc ba chiều thời gian: quá khứ, hiện tạivị lai. Chủ nghĩa, học thuyết có thể bị thay thế nhưng lời Phật dạy không bao giờ bị sai lệch theo thời đại. Giáo pháp của Phật là chân lý muôn đời.

d) Đến để mà thấy = thấy trước tin sau (Pali: ehipassiko), khác với các tôn giáo là “đến để mà tin.” Phật dạy mọi người hãy tiếp cận với đạo Phật bằng sự quan sát và thực nghiệm. Điều này xác định rằng giáo pháp của Phật thoát khỏi các mặc định đức tin tôn giáo thông thường. Đến với đạo Phật bằng con đường nhận thức thì niềm tin Tam Bảo mới chân chánh và bền bĩ.

e) Có khả năng hướng thượng (Pali: opanayiko): hiệu năng của giáo pháp không nhằm tăng cường tri thức cho người tiếp nhận, mà nhằm cung ứng các năng lực phát triển tâm linh, để đương sự có thể tự mình thắp đuốc lên mà đi trong an vui và giải thoát.

f) Được người có trí chứng hiểu (Pali: paccataṁ veditabbo viññūhi). Đặc tính này xác định rằng đạo Phật không dành chỗ đứng cho các tập tục mê tín dị đoan phát triển. Triết lý thực tiễn của đạo Phật chắc chắn được các bậc thức giả chấp nhận và thấu hiểu. Đặc điểm này còn ngụ ý cho rằng giáo pháp Phật cần phải được tiếp nhận bằng con đường tuệ giác hành trì. Dùng kiến thức thông thường và tín ngưỡng tôn giáo không thể hiểu thấu được đạo lý cao siêu của Phật.

2.5. Tăng bảo được ngài Mã Minh tán thán bao gồm trước nhất là các vị thánh tăng với bốn đôi tám chúng, và kế đến là các vị Bồ-tát tăng. Rõ ràng không phải là hàng phàm tăng qua hình thức “viên đỉnh phương bào.” 

Tăng bảo được ngài Mã Minh tán ngưỡng qua hai phương diện

a) Hành trì một cách trung thành và chân chánh giáo pháp của đức Phật, dĩ nhiên giáo pháp ở đây là giáo pháp đại thừa 

b) Mục đích của sự hành trì đó chính là nhằm đạt được quả vị giác ngộgiải thoát, chứ không hướng về bất kỳ thế lợi nào. 

Trong Kinh tạng Pali, tăng bảo được mô tả qua bốn đức tính sau đây:

Diệu hạnh (Pali: supaṭipanno), tức đức hạnh trang nghiêm, làm tăng giá trị đời sống thanh bần lạc đạo của người xuất gia.

Trực hạnh (Pali: ujupaṭipanno): đức tính chân chất, chánh trực hay tính tình thẳng thắn của người tu, không quanh co, tráo trở, không đầu voi đuôi chuột trong tư cách và đối tác với người xung quanh.

Như lý hạnh (Pali: ñāyapaṭipanno) tức hành động mang chất liệu tuệ giác, khế hợp với chân lý hay hành động khôn ngoan với mục đích và nội dung chuyển hoá phàm tình thành thánh trí.

Chánh hạnh (Pali: sāmīcipaṭipanno): đức hạnh chân chánh hay sự thực hành chính nghĩa như một yêu cầu không thể thiếu để giúp hành giả đạt được thánh quả

 IV. CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

Biến tri: cái biết phổ quát và không bị hạn lượng. Trong Phật giáo, biến tri chính là tuệ giác hiểu rõ được bản chất vận hành của mọi sự vật hiện tượng, trên nền tảng của duyên khởitứ đế. Đây là trí tuệ thẩm thấu mọi vật (vô bất viên cực). Thể của tuệ giác vô không hai.

Cứu thế: tức thế gian của chúng sinh, đối tượng cứu độ của Phật.

Quy mạng: “quy” có nghĩa đen là “nương tựa” (y) hay “hướng về” (hướng thú), còn có nghĩa là “trở về nguồn” (hoàn nguyên). Mạng có nghĩa đen là mạng sống (sinh mệnh). Trong Phật giáo, “quy mệnh” là thuật ngữ diễn tả hành động cúi đầu đảnh lễ một cách chí thành, như chứng tỏ lòng quy kính của hành giả đối với Phật, Pháp, Tăng. Đối tượng quy mạng ở đây rất lớn và không hạn lượng, đó là, Phật Pháp Tăngmười phương thế giới. Trong Phật giáo Pali, đối tượng quy mạng chính yếuđức Phật Thích-ca lịch sử, không có niềm tin về chư Phật ở các hành tinh khác ngoài hành tinh con người đang sống.

sắc vô ngại: sắc thân của Phật không bị trở ngại bởi không gianthời gianHoa nghiêm: Phật thân vô khứ diệc vô lai/ Sở hữu quốc độ giai minh kiến (thânPhâtj không đến cũng không đi/ Bất kỳ cõi nào cũng thấy được => thân Phật được ví như mặt trời, nơi nào không bị mây mù che phủ đều thấy được)...Phật thân sung mãn ư pháp giới/ Phổ hiện nhất thiết chúng sinh tiền/ Tuỳ duyên phó cảm ma bất châu/ Nhi thường xử thử bồ-đề toà.

Tối thắng: không có gì hơn, không có ai hơn, siêu việt nhất. Đây là thuật ngữ diễn ca ngợi đức tính vô song của đức Phật. Có thể diễn đạt bằng văn xuôi như sau: Phật bảo dã, tối thắng giả, nghĩa là: “Phật là bậc siêu việt nhất” hay “Phật là bậc không có ai hơn.” Bản sớ giải ghi: “quá tiểu viết thắng, siêu nhân viết tối” có nghĩa là “thắng là vượt lên trên tiểu thừa, còn “tối” có nghĩa là siêu việt khỏi nhân.” Bản sớ giải khẳng định: “siêu nhân” chính là “quả Phật.”

Vô ngại: 1) đại tiểu vô ngại: mỗi căn đều cùng pháp giới nhưng không lẫn lộn với nhau. 2) hỗ dụng vô ngại: các căn tương tác hỗ trợ lẫn nhau. 3) sự lý vô ngại: 4) ứng cơ vô ngại.

[1] HT. Thiện Hoa đã dịch tóm tắt bảy câu tán dương Tam Bảo như sau: “Kính lạy Phật, Pháp và Tăng” (tr. 249)

[2] Gọi đủ là “bậc tuệ giác vô thượng.” Hán gọi là biến tri, viết tắt của biến tri giả (遍知者).

[3] Lương: tối thắng nghiệp (最勝業) tức hạnh đức của Phật siêu tuyệt, không ai trong đời có thể so sánh với ngài được. Hai câu ba và bốn này dịch từ câu “tối thắng nghiệp biến tri” (最勝業遍知). Có lẽ đây là dịch ngữ của từ “Vidyācaranasampanna” mà người Trung Hoa thường gọi là bậc “minh hạnh túc” tức bậc hạnh đức và trí tuệ tròn đầy.

[4] Dịch thoát ý từ câu: “sắc vô ngại tự tại” của bản đời Lương, vốn có nghĩa đen là “Sắc thân của Phật rất tự tạivô ngại.” Trong khi đó, bản đời Đường ghi là “trí vô ngại tự tại” (智無限自在) không đề cập đến sắc thân của Phật, mà nói công dụng của biến triloại trí tuệ tự tại và không bị hạn cuộc.

[5] Lương: “pháp là thể tướng của chính thân Phật.” (及彼身體相/ 法性真如海)
 Khái niệm “pháp thân” trong Đại thừa thường được hiểu với nghĩa đen là “giáo pháp chínhthân thể của Phật.” Khái niệm “chân như” ở đây không có nghĩa “thể tính chân như của mọi sự vật” mà có nghĩa đen “đích thực là.”

[6] Bản Lương không nói về “lý vô ngã” (無我句). Bản Đường ghi rõ hơn “vô ngã cú nghĩa pháp” 無我句義法nghĩa đen là “pháp của Phật giải thích rõ về học thuyết vô ngã.” Vô ngã cú dịch sát từ chữ Sanskrit là “anātman-vada.” Cần lưu ý “vāda” trong ngữ cảnh này không có nghĩa là “cú” mà có nghĩa là học thuyết, chủ nghĩa. Vô ngã cú có nghĩa là học thuyết vô ngã hay nguyên lý vô ngã. HT. Trí Quang dịch “tức biển pháp tánh, chân như phi ngã” là phối hợp ý tưởng của hai bản dịch đời Lương và đời Đường, nhằm bổ túc những điểm có trong bản này nhưng không có trong bản khác.

[7] Dịch thoát nghĩa của chữ đẳng () của Lương.

[8] Lương: như thật tu hành (如實修行).

[9] Dịch từ bản Đường: cần cầu chánh giác giả (勤求正覺者).

[10] Đường: cố ngã tạo thử luận 故我造此論, có nghĩa đen là “vì vậy tôi đã sáng tác ra bộ luận này.”

[11] Hai bản Lương và Đường ghi là “chúng sinh” (眾生). 

[12] Lương: Phật chủng bất đoạn 佛種不斷, có nghĩa đen là làm cho hạt giống Phật không bị mất đi. Đường: thiệu Phật chủng 紹佛種, có nghĩa đentiếp nối hạt giống Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33290)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30416)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30445)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7993)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12217)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11617)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12848)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34809)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52282)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10761)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10726)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16302)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21861)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9635)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7136)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12779)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16247)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16547)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13876)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16612)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13847)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14338)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11290)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16351)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14367)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16210)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11805)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14029)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15005)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11973)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20740)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13246)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10976)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20726)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14379)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31869)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12028)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant