Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

65. Phật Giáo Cống Hiến Gì Cho Nước Trung Quốc

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10519)
65. Phật Giáo Cống Hiến Gì Cho Nước Trung Quốc


65. PHẬT GIÁO CỐNG HIẾN GÌ CHO NƯỚC TRUNG QUỐC 

Một số học giả Nho giáo, có đầu óc thành kiến hẹp hòi, ngay hiện nay vẫn còn nhắm 2 mắt lại mà gào thét, khích bác Phật giáo. Kỳ thực, hiện nay, trong nền văn hóa Trung Quốc, ngoại trừ những sản phẩm văn hóa mới nhập khẩu gần đây, còn thì hầu như không có lĩnh vực nào là không mang nặng sắc thái Phật giáo.

Về mặt văn học, việc phiên dịch Kinh Phật đã kích thích và tạo thành cuộc cách mạng trong văn học Trung Quốc, từ trong ý tứ thơ văn cho tới sự diễn biến của thể văn, đều xuất hiện một khí tượng mới, ngay từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều. Đến thời Lục triều do phải dịch âm chữ Phạn, thí dụ dịch âm đầu đề Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) mà đặt ra cách thức dịch phép vần phiên thiết : 2 chữ Hán thông dụng, rồi lấy phụ âm đầu của chữ thứ nhất ghép với vần cuối của chữ thứ hai tạo thành âm đọc của chữ được chú âm : do ghép âm mà sinh ra bốn thanh (tứ thanh) dựa vào bốn thanh mà cải biến thơ 5 chữ và 7 chữ thành luật. Người Trung Quốc xưa nay làm văn, đều chủ trương đọc nhiều, xem nhiều "đọc nát vạn quyển, hạ bút như thần", "đọc thuộc 300 bài thơ Đường, không biết làm thơ cũng biết ngâm". Vì Trung Quốc là nước vốn dường như khônglý thuyết ngữ pháp, nhưng dưới đời nhà Đường, do phiên dịch nhiều Kinh Phật cho nên ngữ pháp Ấn Độ đã du nhập vào Trung Quốc. Thí dụ : "Tám chuyển thanh" tức danh từ, đại danh từ, động từ, trợ từ v.v… Hay là như thuyết "lục ly hợp thích" của sách Phật cũng là một loại ngữ pháp của chữ Phạn. Phần đông người bây giờ coi Mã Văn Thông là ông Tổ của ngữ pháp học Trung Quốc, thực ra vào đời nhà Đường, Trung Quốc đã từng có ngữ pháp học, nhưng chưa được phổ cập sử dụng trong dân gian mà thôi. Lại như cuốn "Văn tâm điêu long" là một cuốn sách bàn về phép làm văn và thể văn trong văn học sử Trung Quốc, là một trước tác bất hủ về phê bình văn học. Tác giả của nó là Lưu Hiệp (Pháp danh Tuệ Đại là một người sống trong chùa từ nhỏ, và cuối đời đã xuất gia). Tác phẩm của ông chịu ảnh hưởng của văn học Phật giáo (chú 15).

Thể văn sau đời Đường, phần lớn thiên về tả thực và lời văn lưu loát, cũng là do ảnh hưởng của văn học Phật giáo. Trải qua 2 đời Tùy, Đường, đến đời Tống, các thể loại như "đàn từ tiểu thuyết" [kể chuyện đệm nhạc] và bình thoại (kể truyện) xuất hiện đều là do ảnh hưởng của thể "biến văn Phật giáo". Các bài thơ đời Đường, đời Tống giống như văn nói, thí dụ các bài thơ của Bạch Lạc Thiên (tức Bạch Cư Dị) và của Tô Đông Pha, đều là loại thơ mới mang dấu ấn của Thiền Tông… Lương Khải Siêu tiên sinh viết : "Tập thơ dài đầu tiên trong các bài thơ cổ của Trung Quốc", "tập Khổng tước đông nam phi" chịu ảnh hưởng của tập "Phật sở hành tán" do đại sư Mã Minh sáng tác. Các thiền sư lớn đời Đường, dùng thể văn "ngữ lục" bạch thoại để nói lên yếu lý của đạo Phật. Do đó mà có sự xuất hiện các tập ngữ lục của các nhà lý học đời Tống và đời Minh, hoàn toàn viết theo bút pháp "Thiền tông". Các tiểu thuyết đời Minh và đời Thanh, viết theo thể văn bình thoại hay là "phỏng bình thoại", trong tiểu thuyết lại xen có thơ, sau một đoạn tản văn lại có những câu kết bằng thơ hoặc một bài hát nói đệm nhạc có xen thể ca văn xướng ngôn và bình thoại, rõ ràng đều chịu ảnh hưởng của văn "trường hành" và "kệ tụng" trong kinh Phật. Nhờ phiên dịch sách Phật, mà Trung Quốc có thêm 3 vạn 5000 từ mới.

Về mặt nghệ thuật : nền kiến trúc Phật giáo đời Ngụy Tấn vốn ảnh hưởng đến toàn bộ hình thái kiến trúc của Trung Quốc. Kiến trúc Phật giáo không có tính thực dụng của kiến trúc phương Tây cận đại, nhưng do ảnh hưởng của cảnh giới cõi Trời hay cõi Phật được mô tả trong Kinh Phật, cho nên mang đặc sắc của Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ : cảnh quan được bố trí có nghệ thuật, trang nghiêm, hùng vĩ. Kiến trúc tháp Phật của Phật giáo du nhập vào Trung Quốc cũng đánh dấu một bước tiến bộ mới trong lịch sử phát triển của ngành kiến trúc ở Trung Quốc. Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đã đem theo nghệ thuật đắp, nặn tượng. Trước đó ở Trung Quốc chưa có kỹ thuật đắp, nặn tượng. Tượng Phật giáo đời Đường, cực kỳ đẹp đẽ. Khoảng mấy chục năm trước đây, có người Nhật Bản phát hiện ra tại một chùa ở Tô châu có một bức tường gắn tượng nặn, do người đời Đường xây dựng. Bức tường này được ông Thái Nguyên Bồi yêu cầu chính phủ bảo tồn, gìn giữ. Động Long MônLạc Dương, động Vân CươngĐại Đồng là những công trình tượng Phật vĩ đại, có trình độ nghệ thuật tinh xảo hình ảnh sống động nó không những là kho tàng quý báu của nghệ thuật Trung Quốc và của cả thế giới. Về nghệ thuật hội họa, phải nói tới các bức tranh tượng ở Đôn Hoàng, nổi tiếng thế giới. Đúng như "Mạc Đại Nguyên" tiên sinh nói : "Động Vân Cương và động Đôn Hoàng, động Long Môn không khác gì ba viện bảo tàng nghệ thuật vĩ đại của miền Bắc Trung Quốc". Lại nói : "Từ đời Hậu Hán trở đi, Phật giáo được truyền vào, nền mỹ thuật Trung Quốc vốn là mỹ thuật quý tộc, đã biến thành mỹ thuật tôn giáo; trong lĩnh vực kiến trúc thì từ lầu đài cung điện chuyển sang bảo tháp, chùa chiền; trong lĩnh vực tranh tượng thì tranh tượng vua quan nhường chỗ cho tranh tượng Phật Bồ tát; trong lĩnh vực công nghệ thì các dụng cụ và đồ trang sức chuyển thành đồ thờ cúngpháp khí Phật giáo; nhưng hình thức mỹ thuật đó, từ Hậu Hán trở về sau, liên tục chiếm vị trí cực kỳ trọng yếu trong lịch sử văn hóa Trung Quốc" [Xem "Mỹ thuật Phật giáo Trung Quốc"] nhờ có nhiều bia ký Phật giáo được bảo tồn, mà chúng ta giữ gìn được bút tích của nhiều danh nhân nổi tiếng, là những tài sản vô giá, nhờ có Phật giáo mà được phổ cập trong dân gian. "Ngư sơn phạn bối".

Là một loại âm nhạc Trung Quốc theo Phạn âm Phật giáo. Sự phát hiện ở động Đôn Hoàng cho biết là trước khi kỹ thuật in sách của Phùng Đạo xuất hiện thì ở thời đại Tùy và Đường, đã có các kinh sách Phật in bằng gỗ khắc.

Về phương diện khoa học, trước khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, đã từng có môn học gọi là "danh học" [tương tự như luận lý học] của Đặng Tích, Huệ Thi Mặc TửTuân Tử. Thế nhưng, phải chờ đến khi môn "Nhân Minh học" Phật giáo truyền vào thì Trung Quốc mới bắt đầu có được một nền luận lý học hoàn chỉnh. Từ triều nhà Đường đến triều nhà Minh, Trung Quốc đều dùng lịch pháp của các thiền sư lập ra, căn cứ vào thiên văn học của Ấn Độ.

Về mặt tôn giáo, triết học, khi Phật giáo mới du nhập vào Trung Quốc thì đạo giáo bài xích Phật giáo rất kịch liệt. Nhưng đến thời đại Ngụy và Tấn, thì khi giảng Phật học người ta hay dẫn chứng Lão Trang và khi giảng Lão Trang người ta lại hay dẫn chứng kinh Phật. Từ đó về sau, kinh sách đạo giáo ngày càng được hoàn bị thêm và trên nhiều mặt đã dùng tài liệu của Phật giáo; thí dụ : đạo giáo đã tiếp thu và vận dụng khái niệm về Diêm Lađịa ngục của Phật giáo. Trước khi Phật giáo đến Trung Quốc thì ở Trung Quốc không có khái niệm gì về Diêm La cả. Đến đời nhà Tống, có Toàn Chân giáo xuất hiện. Về căn bản, đó là đạo giáo được Phật giáo hóa, nhờ tác dụng khích lệ và mở đường của thiền tôngnho gia các đời Tống, Nguyên, Minh đã xây dựng môn Lý học.

Căn bản đó là nho giáo được Thiền hóa. Tuy rằng các nhà lý học, vì thiên chấp, bản vị và nhãn quan hạn hẹp mà trở lại công kích Phật giáo, nhưng họ không khác gì "Ngồi trên giường thiền mà mắng Thiền", mà Thiền tông chỉ là một nhánh của Phật giáo. Các nhà lý học đời Tống và Minh đối với pháp môn Thiền tông thì cũng chỉ mới hiểu một cách hời hợt, nên không dám đi sâu, vì sợ nếu đi sâu sẽ bỏ mất lập trường của mình. Châu Hy là người xem sách Phật tương đối nhiều và chính Châu Hy đã thể nghiệm được điều đó. Các nhà tư tưởng Trung Quốc ở thời cận đại, như Khang Hữu Vi, Đàm Tự Đồng, Chương Bỉnh Lân, Lương Khải Siêu, Hồ Thích, Lương Thấu Minh v.v… tuy rằng vị tất đã tin Phật giáo, nhưng họ được tư tưởng Phật giáo mở cho con đường sáng tạo. Gần đây nhất (từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1964 tại hội nghị các triết gia Đông và Tây lần thứ 4 họp tại Hạ Uy Di, ông Phương Đông Mỹ, đại biểu của Trung Quốc cũng nhấn mạnh tinh thần Phật giáo Đại thừa, và khả năng của Phật giáo xây dựng một thế giới tôn giáo. Nhà sử học Tiền Mục tỏ ra hết sức kínhh trọng Phật giáo. Triết gia Đường Quân Nghị tự nhận là chịu ảnh hưởng khích lệ nhiều từ kinh Viên Giác; có thể thấy Phật giáo đối với Trung Quốc có sự cống hiến lớn, trong quá khứ, hiện tại và tất nhiên cả trong tương lai nữa. Không những đối với Trung Quốc Phật giáocống hiến như vậy, mà đối với cả nhân loại cũng là như vậy.

Về mặt phong tục dân gian, Trung Quốc vốn có tín ngưỡng đối với Nho gia. Tín ngưỡng đó chú trọng xây dựng cuộc sống nhân sinh hiện thực, không có thời giờ tìm hiểu vấn đề trước khi sinh và sau khi chết. Vì vậyKhổng Tử nói : "Sống còn chưa biết, sao có thể biết chết" ? Nho gia gạt ra một bên, không bàn đến các vấn đề trước khi sinh và sau khi chết, cũng như vấn đề bản thể vũ trụ siêu hình cho nên ông đã nói : "Tế thần như thần tại". Nếu có nói tới vấn đề thưởng phạt đối với thiện, ác thì cũng chỉ mong cho con cháu sau này được nhờ Kinh Thư nói : "Nhà tích thiện thì niềm vui có dư, tích ác thì tai họa có thừa". Chính là quan niệm đó. Thực ra, nhìn vào hiện thực trong lịch sử làm điều thiện để hy vọng con cháu được nhờ là chuyện khó đảm bảo. Thế nhưng từ khi Phật giáo được truyền vào, thì thuyết Nhân quả "trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu", đã đem lại trong dân gian Trung Quốc một niềm hy vọng mới, mạnh mẽ. Phật giáo vạch rõ cho chúng ta thấy vấn đề luân hồi sinh tử, vấn đề thiện ác báo ứng ! Phật giáo cho chúng ta biết, mọi người phải có thái độ trách nhiệm đối với tất cả mọi hành vi của mình, gặp lành hay gặp dữ đều do ở nơi mình cả. Đời này không thấy quả báo thì đời sau sẽ thấy. Thuyết này cổ vũ mọi người hãy tích cực bỏ ác làm lành. Thuyết này hàng nghìn năm nay đã có một ảnh hưởng sâu sắc và lớn lao đến sự ổn định xã hộinhân tâm Trung Quốc, quả thực không thể nào đánh giá hết được.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11833)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10541)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12477)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14811)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52145)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13970)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14432)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57979)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14506)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20145)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13793)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15407)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17497)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14673)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12545)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11865)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12703)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant