Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Tựa- Daniel B. Stevenson Và Neal Donner

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 11474)
Lời Tựa- Daniel B. Stevenson Và Neal Donner

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN 
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN

(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Tựa

Qua nhiều thế kỷ, truyền thống Phật giáo được thành lập bởi Đức Thích Ca Mâu Ni khoảng thế kỷ thứ năm trước Tây lịch dần dần lan rộng từ chiếc nôi Ấn Độ đến những vùng đất Á Châu. Để đáp ứng với những nền văn hóa khác biệt, những khuynh hướng tư tưởng, đường lối thực hành, và trường phái ra đời, trong số nầy có nhiều khuôn mặt trở nên quan trọng và giữ vững truyền thống của riêng họ. Khi chúng ta nói đến Phật giáo ngày nay, chúng ta nhìn tổng quát qua ba truyền thống lớn, với văn tự, tín điều giáo lý. Đó là truyền thống Phật giáo Á Đông (Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, và Việt Nam), truyền thống Thervada (Tiểu Thừa) từ Đông Nam Á, và truyền thống Vajrayana (Mật Tông) còn gọi là Tantric (Kim Cang Thừa) dọc theo dãy núi Hy Mã Lạp Sơn.

Đây là việc làm phiên dịchnghiên cứu một phần chính trong tác phẩm MaHa Chỉ Quán do một tỳ khiêu người Trung Hoa là Trí Khải (538-597) viết ra. Chính Trí Khải được tán tụng như một vị Tổ sư sáng lập Thiên Thai Tông, là một trong những truyền thống Phật giáo gây ảnh hưởng lớn và dài lâu vùng Đông Á (1). Như tựa đề quyển luận đưa ra, Chỉ và Quánphương pháp thiền hoặc tu tập thuộc tôn giáo. Được gọi là Đại (MaHa) vì là pháp viên đốn hội nhập Phật giới, là một tư tưởng nổi bật của Phật đạo Đông Á mà Trí Khảithời đại của Đại Sư nhìn như một biểu tượng của Phật pháp (2). Sự kiện nầy, cùng với nội dung văn mạch cực kỳ thâm thúy, không những làm cho MaHa Chỉ Quán trở nên một luận đề tuyệt đỉnh của Thiên Thai Tông, nhưng còn được tất cả những tông phái Phật giáo Đông Á tán tụng. Một biểu tượng lịch sử với lối nhìn cuốn hút sâu thẳm như vậy đã tự giữ một chỗ đứng song song với tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của Buddaghosa và Tsong-kha-pa Lam-rim chen-mo như một trong những tinh túy của Phật giáo đại cổ.

Tác phẩm nguyên thủy MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, phân ra làm mưòi đề mục- tương đương với khoảng bốn hoặc năm chương dưới dạng Anh ngữ. Quyển sách trong tay bạn là một bản dịch chương thứ nhất của MaHa Chỉ Quán, cùng với lời giới thiệu hùng tráng được một môn đồ của Trí KhảiQuán Đảnh (561-632) viết và đính kèm theo tác phẩm của Thầy mình, cũng là người có trách nhiệm ghi chép và xem xét tác phẩm. Chương mở đầu nầy được gọi là phần đại ý (Synopsis), vì một sự kiện đơn giản là chương nầy tóm tắt và lập lại bố cục, nội dung chủ đề của MaHa Chỉ Quán như một toàn phẩm, với những thay đổi uyển chuyển. Vì đặc tính tự đầy đủ của chương nầy, các nhà nghiên cứu về Phật học Thiên Thai Tông đã xem chương nầy như chính là một tác phẩm. Vì lý do đó, chúng tôi không phải là đã không tìm hiểu chu đáo khi chọn đưa ra chương đại ý nầy như một bản dịch riêng rẽ.

Phần theo sau dựa vào luận án tiến sĩ của Neal Donner viết năm 1976 tại Đại Học Britist Columbia. Vào năm 1989, Peter N. Gregory tu chỉnh khi được Dan Stevenson đưa vào Kuroda Institute’s Classics trong phần Phật học Đông Á, và đồng thời được nhà xuất bản Đại Học Hawaii ấn hành.

Bản dịch của chúng tôi căn cứ vào lần tái bản MaHa Chỉ Quán của Taisho shinshu daizokyo (3), và bốn luận đề- một dưới dạng Hoa ngữ, ba là Nhật ngữ- dưới tựa đề Makasshikan, vol. 5, Bukkyo takei series nos. 22-26 (4). Bốn luận đề gồm có : (1) Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết (Chih kuan fu-hsing ch’uan-hung chueh) từ vị Tổ thứ chín của Thiên Thai TôngTrạm Nhiên (Chan-jan, 711-782) (5), (2) shikan bugyo shiki, từ nhà nghiên cứu nổi tiếng về Tông Thiên Thai vào thế kỷ 20 là Shoshin, (3) Makashikan bugyo kogi, từ sau thời Tokugawa Thiên Thai tỳ khiêu Chiku (1780-1862), và (4) Makashikan bugyo kojutsu, bởi giáo sĩ Thiên Thai Tông thế kỷ thứ 19 là Shudatsu (1804-1884) (6).

Nhiều tham khảo về MaHa Chỉ Quán đương thời dưới dạng Nhật ngữ cũng rất hữu ích. Donner trước tiên ấn hành hai chương Makashikan của Sekiguchi shindai trong những tập Iwanami bunko phổ thông (1966) (7). Từ đó, nhiều bản dịch khác xuất hiện, gồm có bản của Muranaka Yujo (8) và của Nitta Masa’aki (9). Có hai bản tham khảo khác vừa được xuất bản gần đây góp phần vào việc học MaHa Chỉ Quán cũng cần nên để ý. Một bản là Makashikan ichiji sakuin (10) dày cộm liên quan đến từng chữ một của tác phẩm MaHa Chỉ Quán; bản kia liệt kê chu đáo những đoạn kinh được trích dẩn trong MaHa Chỉ Quán (11).

Với sự khuyến khích và cộng tác của Peter N. Gregory, năm 1989, Donner xem lại suốt luận án của mình, đính chính và khai triển nhiều chỗ. Một năm sau đó, Stevenson đối chiếu bản dịch với bản chánh qua từng dòng một, đồng thời tham khảo những luận đề của Thiên Thai Tông với những bản dịch mới ra đời dưới dạng Nhật ngữ. Những điều chỉnh nho nhỏ về chữ dùng và lối hành văn được thực hiện toàn thể bản dịch, nhưng những sửa đổi quan trọng chỉ giới hạnđề mục đã chọn.- xét đoán sự bền bỉ đối với nguyên bản của Donner. Những sửa đổi quan trọng trong chương nói về tứ thiền định liên quan đến phương thức hành trì được Stevenson giới thiệu như phần đặc biệt.
Stevenson cũng sửa đổi phần ghi chú, chú trọng về nội dung của MaHa Chỉ Quán hơn là trong dàn bài nghiên cứu. Vì vậy, những chỗ Donner đã phân đoạngiải thích trước kia, Stevenson đều giới thiệu thêm những phần trích dẩn từ các luận đề của Trạm Nhiên (Chan-jan), và từ những tư liệu khác của Thiên Thai Tông (12).

Những danh từ chuyên biệt vẫn giữ nguyên nghĩa. Một số khác biệt thiết yếu được giữ lại, nơi mà Anh ngữ có thể thông đạt ý nghĩa một cách hữu hiệu. Tuy vậy, một độc giả cẩn thận vẫn không bị sai lạc. Mặt khác, lối dịch từng chữ một giữa Hoa ngữ và Anh ngữ về những danh từ đặc biệt không thể thực hiện đối với những danh từ như fa (dharma, giáo lý, yếu tố tâm vật lý, hoặc chỉ như một vật), nơi mà một tràng ý nghĩa, hoặc là những điệp tự càng tạo sự khó khăn để dừng lại ở một nghĩa tương đương. Thí dụ như khi kiến thức về một danh từ Trung Hoa cổ điển có lợi thì cho vào dấu ngoặc. Phần từ ngữ khó (với những chữ tương đương) cũng được ghi lại theo sau bản dịch nầy.

MaHa Chỉ Quán là một tài liệu một cô đọng khó hiểu và không cân bằng- vì được bắt đầu bằng một số ghi chú của môn đồ Trí KhảiQuán Đảnh từ những bài giảng của Thầy mình. Quanh sự kiện nầy, nhiều sự rời rạc trong văn mạch đã khiến nẩy sinh ra những hệ thống khảo sát và tranh luận giữa các độc giả Thiên Thai Tông trong nhiều thế kỷ. Đối với chúng tôi là những người phiên dịch tác phẩm nếu phiên dịch vội vã bên ngoài hoặc lướt qua những khó khăn nầy mà không chú ý đến lối chú nghĩa theo truyền thống thì sẽ làm mờ nhạt những đường nét từng đóng góp vào việc làm cho tác phẩm trở nên sống động. Vì vậy, những sự rời rạc và phức tạp trong văn mạch (đã được chứng minh là gây trở ngại cho truyền thống Thiên Thai sau nầy) được cẩn trọng giữ lại trong bản dịch và tô đậm trong phần ghi chú. Những chỉ dẩn chính được đánh dấu bằng những dấu ngoặc lớn.

Sự phiên dịch về những danh từ hoặc những lối diễn tả chuyên biệt trừu tượng của Thiên Thai Tông, nếu có thể được, đều dựa vào những định nghĩa trong văn mạch của Trí Khải, hoặc từ những bản kinh và luận đề mà Đại Sư và những người cùng thời biết đến và dùng. Ngoài ra, Trạm Nhiên (Chan-jan) được xem là người đáng tin cậy. Có hai lý do để có thể tin tưởng vào những tác phẩm cũng như những ghi chú của Chan-jan. Thứ nhất là sẽ lỏng lẻo nếu đi vào những tái lập của MaHa Chỉ Quán mà không theo những luận đề của Chan-jan, vì xưa kia thiếu tư liệu, cũng như vô số xung đột mà những luận đề của Chan-jan gặp phải khi tái tạo hình dáng cho tác phẩm hiện nay (13). Thứ hai, sự diễn dịch của Chan-jan về tác phẩm trở thành một diễn dịch theo cùng tiêu chuẩn cho tất cả các vùng Đông Á, tiếp nhận cái hiểu của Chan-jan ít nhất đưa chúng ta bước vào được dòng suối của những khảo cứu về Thiên Thai Tông sau nầy. Chương phụ đề trong bản dịch theo Chan-jan, vì đảm nhiệm hầu hết (nhưng không phải là tất cả) những yếu tố làm nổi bật văn mạch của tác phẩm.

Phần chính của tác phẩm trước hết là lời nói đầu, và ba chương giới thiệu. Reverend Yamada Etai hiện nay là tổng chủ khảo của Thiên Thai TôngNhật Bản đã viết lời nói đầu nầy. Stevenson và Donner viết chương giới thiệu thứ nhất, đưa ra những nền tảng khái niệm của Thiên Thai Tông cũng như phát họa chương Đại Ý trong tương quan với tác phẩm MaHa Chỉ Quán như một khối. Chương thứ hai và chương thứ ba, do Stevenson viết, đưa ra một cái nhìn tổng quát về mặt văn hóatính cách lịch sử của MaHa Chỉ Quán, và đưa vào đề tài liên quan đến vai trò của tác phẩm như một thánh thư của truyền thống Thiên Thai.

Trong việc hoàn thành tập sách nầy, chúng tôi cũng nhận được sự nâng đỡ từ nhiều nơi, bạn hữu, và những người đồng sự. Niềm cảm tạ đặc biệt gởi đến Yamada Etai, vị thống lãnh trường phái Thiên Thai hiện nay ở đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), đối với sự giúp đỡ vô cầu của Người dưới hình thức giúp chi phí ấn hành tập sách nầy (cũng như tử tế cung cấp kiểu chữ đẹp dành cho tựa đề sách và dùng vẽ bìa sách); và gởi đến Maezumi Roshi, khoa trưởng Trung tâm Kuroda, đối với lòng luôn ân cần và sự nâng đỡ tinh thần.

Peter N. Gregory, Giám đốc Trung tâm Kuroda, và cũng là Giáo sư phân khoa Tôn giáo, University of Illinois tại Champaign Urbana, đã dành thì giờ xem bản in, các mẫu hình, và giúp in những ấn bản sau cùng. Không có lòng tử tế và khuyến khích của ông, (chưa kể lòng kiên nhẩn), tập sách nầy sẽ khó có thể đầy đủ. Chúng tôi cũng gởi lời cảm tạ đến bà Barbara E. Cohen trong việc giúp sang sửa bản in và phần ghi chú.
Hầu hết thì giờ của Stevenson dành cho tập sách nầy trải qua ở phòng trọ Đại Học Michigan, dưới sự nâng đỡ của University of Michigan Institute for the Study of Buddhist Literature và Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies, Taipei. Sự quan tâm của các Giáo sư Luis O. Gonnez, Donald S. Lopez, Jr., và T. Griffith Foulk từ University of Michigan Buddhist Studies Program, đã giúp đỡ nhiều cách.

Tôi, Dan Stevenson, xin được cảm tạ hai người đối với vai trò đặc biệt của các vị trong công việc nầy. Vị thứ nhất là Venerable Sheng-yen, Giám đốc Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies, là người đã khuyến khích sự tìm hiểu của tôi trong nhiều năm, không có người, tôi khó thể vào được tận đáy sâu sống động của truyền thống Phật giáo Trung Hoa. Người thứ hai là Miwa, người bạn đời của tôi. Từ bà, sự nâng đỡtình nguyện chia xẻ cùng tôi những lo âu mà một đồ án như trên mang đến, được thành công. Tất cả những gì tôi đã làm được xin dâng tặng cho các bạn.

Và tôi, Neal Donner, xin gởi lời cảm tạ gia đình đã giúp đỡ tôi, người cha quá cố là Otto Donner, là người đã quá thương yêu tôi đến đổi chống đối sự chọn lựa nghề nghiệp phiền hà của tôi; và người hôn phối thứ hai của ông là Maria Donner, là người đã mang niềm vui đến cho ông trong những năm sau cuối; gởi đến Carol Linnell, người vợ trước của tôi, là người chưa từng quên vai trò của một người mẹ; Erich Donner và Rebecca Donner, là người đã dạy tôi nhiều pháp Phật; em trai tôi là Michael Donner, không ngừng thương yêu tôi bất kể những khác biệt; và sau cùng là mẹ tôi, Jane Donner Sweeney và người hôn phối thứ hai của bà là Vince Sweeney, là người đã hòa hợp sự tìm kiếm giác ngộ trong sự gắn bó của gia đình, hơn tất cả những người nào mà tôi đã được gặp. 

Daniel B. Stevenson
Neal Donner

Tham khảo
(Phần phiên âm Hoa ngữ theo hệ thống Wale-Giles) 

1 Truyền thống có tên theo Thiên Thai Sơn tại vùng Đông Nam Trung Hoa, là đỉnh núi trên đó Trí Khải đã thành lập trung tâm đạo tràng đầu tiên của tông phái. Tên gọi qua Hoa ngữ, người Đại-Hàn đọc là Chontae, và người Nhật đọc là Tendai.
2 Lần tái bản sớm nhất của MaHa Chỉ Quán được môn đồ Trí KhảiQuán Đảnh chủ biên, tên thực là ‘Viên Đốn Chỉ Quán’(Yuan-tun Chih-kuan). Sau lần tái bản thứ ba và lần tái bản sau cùng, Quán Đảnh định lại tựa đề như hiện nay.
3 T no.1911. Bản Taisho dựa vào bản in đời nhà Minh, với những bản văn khác đối chiếu với bản đời Tống và thời kỳ Tokugawa.
4 Bukkyo taikei kansekai (Iwada Kyoen, chief ed.) Makashikan, 5 vols., Bukkyo taikei series no. 22-26 (Tokyo: Bukkyo taikei kanseikai, 1912, 1919, 1932, 1933; được Nakayama shobo busshorin in lại năm 1978). Cùng bốn luận đề, với nguyên bản, cũng được Tada Koryu, ed., Tendai daishi zenshu: Makashikan, 5 vols. (Tokyo: Nippon bussho kankokai, d.u.) tái bản.
5 Cũng được thấy trong T no.1912.
6 Chiku và shudatsu cả hai đều là những khuôn mặt tạo nhiều ảnh hưởng liên hệ đến Anraku-ha, một hậu Tonkugawa trên đỉnh Tỉ Duệ (Hiei) tìm lại dấu vết tư tưởng huyền bí của hongaku và phục hồi truyền thống ‘cổ truyền’ của đạo tràng Thiên Thai.
7 Sekiguchi shindai, Makashikan, 2 vols. Iwanami bunko series, 33-309-2 (Tokyo: Iwanami shoten, 1966).
8 Muranaka Yujo, Makashikan, Daijo butten no.6 (Tokyo: Chuo koronsha, 1988).
9 Nitta Masa’aki, Makashikan, Butten koza, no.25 (Tokyo: Daizo shuppansha, 1989).
10 Yamada Kazuo, ed., Makashikan ichiji sakuin (Tokyo: Daisan bunmeisha, 1985).
11 Chugoku bukkyo kenkyukai, ed., Makashikan inyo tenkyo soran (Tokyo: Nakayana shobo busshorin, 1987), trước kia đã ấn hành dưới hình thức tập san Tendai 2-6 (1981-1983). Bảng liệt kê những thamcứu nầy hầu hết từ bốn luận đề có trong Iwada, ed., Makashikan, Bukkyo taikei series nos. 22-26. Những nguồn gốc khác thì vẫn chưa dứt khoát.
12 Những đoạn trích dẩn từ Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết (Chih-kuan fu-hsing ch’uan hung chueh) đươc giới thiệu bằng những chữ như Chan-jan ‘nói’ (hoặc ‘cho rằng’ v.v...), theo sau là phần tham khảo đặc biệt của Taisho. Những nguồn gốc khác gồm có những trước tác của tôn giả Hui-ssu (Tuệ Tư) (515-577), Chih-I (Trí Khải) (538-597), Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632), và Chan-jan (Trạm Nhiên) (711-782), cũng như những khuôn mặt đời Tống như Tri Lễ (Chih-li, 960-1029), và Tuân Thức (Tsun-shih, 963-1032).
13 Đọc Sato Tetsuei về sự sự phát huy MaHa Chỉ Quán được tóm lược trong tác phẩm Tendai daishi no kenkyu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10979)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53452)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12875)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16392)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15263)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19055)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19816)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15424)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15243)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15060)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20185)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23732)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12950)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19853)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13175)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28929)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11604)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18185)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16525)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12693)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13125)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12882)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12900)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13440)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11591)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17648)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22277)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13345)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14198)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105565)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14502)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19633)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38301)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15421)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34547)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15948)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11266)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15568)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13906)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19292)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13055)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13372)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21486)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17860)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21757)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15969)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15984)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18971)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24599)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant