Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Phẩm Iii: Hiển Đại Quả

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 10307)
Tiểu Phẩm Iii: Hiển Đại Quả

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN 
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN
(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI
Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Tiểu Phẩm Ba 
Hiển Đại Quả

[20a24] Trong phẩm ba chúng ta giải thích làm cách nào Chỉ và Quán được thuyết nhằm mục đích chiếu soi sự thanh tịnhquả báo (kuo-pao) (1) [mục tiêu chân chính] của Bồ Tát. Nếu sự thực hành xa lìa trung đạo (2), [Bồ Tát] sẽ chứng nghiệm quả hoặc báo từ hai cực đoan [luân hồiNiết Bàn]; nếu sự thực hành thuận theo trung đạo, chư vị sẽ chứng đắc được kết quả vi diệu. Dù họ không sinh ra trong lục đạo [luân hồi] (3), hoa quả báo [mà họ có được trong đời nầy](4) sẽ trổ ở cõi bảy phương tiện [trên đất Phật](5). Cõi thực báo (6) lại càng vi diệu hơn. Cõi nước Nhất Thiết Hương, với bảy tầng lớp và những chiếc cầu bắc ngang như tranh vẽ, là hình ảnh của cõi Phật nầy (7). Phần nầy sẽ được nói chi tiết trong đại phẩm VIII (8). 
Vấn: {‘Thứ Đệ Thiền Môn’ cũng giải thích về ‘tu chứng’(hsiu-cheng) (9), tương hợp như thế nào với những điều được nói đến ở đây?}.
Đáp: {Trong ‘Thứ Đệ Thiền Môn, ‘tu’ chỉ cho những giới luật hằng ngày, và ‘Chứng’ có nghĩa là chứng nghiệm [kết quả] dưới hình thức hiển lộ. Lại nữa, ‘tu’ ở điểm nầy là ‘tập nhân’ (hsi-yin), và ‘chứng’ là ‘tập quả’ (hsi-kuo) (10). Cả hai đều có thể chứng được trong đời nầy. Tuy nhiên, kết quả nói đến [trong phẩm nầy] ứng vào kiếp vị lai. Về mặt ‘chứng’ có khác trong ‘Thứ Đệ Thiền Môn’. Nhị Thừa chỉ có ‘tập quả’ trong kiếp hiện tại, mà không có quả báo trong kiếp vị lai; nhưng Đại Thừa thì có cả hai}. 

Tham Khảo

1 Hai chữ ‘kuo-pao’ dịch là ‘quả’ hoặc ‘báo’ có thể chỉ cho kết quả hổ tương hoặc nghiệp quả (tức báo) cũng như sự kết trái từ đường lối thực hành (tức quả). Trong phẩm nầy, hai chữ trên mang nghĩa thứ hai, tức quả vị Bồ Đề. Như Chan-jan (T46.214c20-21) nói: {Quả hoặc báo có nghĩa rằng quả đến dưới hình thức báo. [Thí dụ], nếu có người diệt vô minh, người ấy chứng đắc vô-sinh-pháp-nhẫn (anutpatika-dharma-ksanti)}.
2 Chan-jan (T46.214c7-8) nói: {‘Xa lìa trung đạo’ chỉ có nghĩa rằng [Bồ Tát] chưa diệt được hết vô minh và chưa chứng đắc trung đạo đế. Trụ trong pháp thân từ sơ trụ đến thập trụ tức ‘thuận’ [theo trung đạo]. Chỗ nầy có nghĩa rằng Bồ Tát chưa vào được quả vị chính của thập trụ hoặc phần-chứng-tức trên đường đi của Viên giáo}.
3 ‘Phần đoạn sinh tử’ (fen-tuan-sheng-ssu) mô tả vòng tái sinh trong sáu cõi (tức tam giới) của phàm phu. Các cõi nầy trái với các cõi siêu luân hồi, hóa sinh vào cõi tịnh (tức A na hàm hoặc A la hán) hoặc đi vào luân hồi như một Bồ Tát đã giác ngộ muốn cứu độ chúng sinh.
4 Kinh Niết Bàn (T12.717a) phân biệt giữa quả báo trong kiếp nầy (như hoa) và quả báo kiếp sắp đến (như quả). Đại Trí Độ Luận (T25.140c), mặt khác, gọi quả báo an lạc trong kiếp nầykiếp sau là ‘bóng cây’, quả vị Thanh VănDuyên Giác là ‘hoa’, và quả Phật là ‘quả’. Ở đây bản văn theo kinh Niết Bàn.
5 Cõi nước Phật và cõi ‘Bảy Phương Tiện’ là cõi thấp nhất thứ hai trong bốn cõi được Trí Khải phân biệt. (Đọc Maha Chỉ Quán, phẩm I, ghi chú 108). Bốn cõi gồm có: Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ, Thực Báo Vô Ngại Độ, và Thường Tịch Quang Độ. Tất cả bốn cõi đều gọi là Phật độ vì Phật vào tất cả những cõi nầy để thuyết pháp cho chúng sinh và hướng chúng sinh về chỗ giác ngộ.
Đối với cõi ‘Bảy Phương Tiện’, hai chữ ‘phương tiện’ chỉ cho bảy loại chúng sinh đến được cõi nầy, không qua phương pháp hoặc cách thức của thế gian. Theo Chan-jan (T46.215a 12-13) con số bảy chỉ cho Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác của Nhị Thừa, Bồ Tát Thông giáo, Biệt giáo, và Viên giáo là những vị chưa hoàn toàn chứng ngộ trung đạo. Cõi Thực Báo Vô Ngại Độ thứ ba- chỉ có Bồ Tát bắt đầu diệt được vô minh và chứng được nghĩa trung đạo (tức Thập Địa của Biệt giáo hoặc Thập Trụ Phần-Chứng-Tức của chân Viên giáo). Cõi thứ tư là mật tạng của tất cả chư Phật. Chan-jan (T46.214c3 và 214c17) nói rằng cõi Phật được các hành giả Viên Đốn Chỉ và Quán nầy chứng đắc là cõi thứ ba, Thực Báo Vô Ngại Độ.
6 Theo kinh Niết Bàn, cõi nầy có nghĩa là quả báo kiếp vị lai. Chan-jan (T46.214c21-23) và Kogi (2.82) đồng ý rằng quả báo nầy ở quốc độ thứ ba.
7 Từ câu chuyện nổi tiếng của Bồ Tát Dharmodgata và học trò là Sadapralapa (Thường Khóc) trong Pancavimsati. (Đọc Đại Trí Độ Luận, T25.734a-b). Bồ Tát Dharmodgata ở trong thành Nhất Thiết Hương (Sarvagandha). Ngài Sadapralapa khó nhọc tìm đến nơi để được nghe pháp. Cõi nước trong kinh mô tả có bảy lớp ‘đẹp như tranh vẽ’ và mặt đất bằng phẳng, sạch sẽ.
8 Như chúng tôi đã nói trong phần giới thiệu, đại phẩm VIII (Quả hoặc Báo), phẩm IX (Giáo hóa chúng sinh), và phẩm X ( Chỉ Quy) đã không được hoàn thành vì những bài giảng của Trí Khải trong Maha Chỉ Quán dừng lại sau phẩm VII (Chánh Quán). Tiểu phẩm 3 về quả hoặc báo nầy là đại ý của đại phẩm VIII.
9 Phẩm 7 (tức năm phẩm sau cùng) của Thứ Đệ Thiền Môn (T46. 508a-548c) luận về tu chứng đối với pháp thiền thuộc thứ đệ tiệm tiến chỉ và quán. Như Maha Chỉ Quán, Thứ Đệ Thiền Môn cũng có thêm ba phẩm- (8) Quả Báo, (9) Giáo Hóa, và (10) Chỉ Quy- cũng không bao giờ được hoàn thành. Trong sự liên hệ với Thứ Đệ Thiền Môn, có người muốn biết tại sao đại sư thuyết về ‘tu chứng’ (phẩm 7) hơn là về ‘quả báo’ (phẩm 8).
10 Sabhaga-hetu và Nisyanda-phala hoặc ‘tập nhân’ và ‘tập quả’ mô tả những trường hợp các niệm thiện, ác, và vô ký; nối tiếp cái trước mà phát khởi cái sau. Pháp thiền quán trong Thứ Đệ Thiền Môn trình bày cùng phương thức đưa ra quả báo đặc thù. Như vậy trong [tiền] tu có thể thấy được [hậu] chứng, như ‘tập nhân’ và ‘tập quả’.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11196)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12005)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13156)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13643)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33674)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13062)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17901)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11449)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11864)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11512)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18980)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12555)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11346)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15781)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11824)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11700)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13972)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13000)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13301)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12776)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11754)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12329)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19827)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11964)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11992)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12675)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16123)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12884)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13154)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16510)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11823)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11164)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10972)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10038)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant