Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vii

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 8641)
Vii


Kinh Phật Thuyết A Di Đà

Hán Văn: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Giảng Giải: Vạn Phật Thánh Thành, Tuyên Hóa Thượng Nhân

Cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát, chẳng những có rất nhiều Bồ-tát mà còn có nhiều vị đại Bồ-tát trong số các vị Bồ-tát ấy nữa. Thế nào gọi là Bồ-tát? -Hai chữ Bồ-tát là tiếng Phạn nói tắt, nói cho đủ phải là "Bồ-đề-tát-đỏa", dịch là Giác hữu tình, tức là làm cho tất cả chúng sanh hữu tình đều được giác ngộ. Còn có một cách nói khác, tức là một vị giác ngộ trong hàng chúng sanh. Giác là không mê. Mê là không giác. Nếu giác ngộ thì là Phật. Nếu mê thì là chúng sanh. Cho nên một niệm giác chính là một niệm Phật, một niệm mê chính là một niệm chúng sanh. Niệm niệm giác chính là niệm niệm Phật, niệm niệm mê chính là niệm niệm chúng sanh. Vì thế, Bồ-tát chính là Hữu tình giác ở trong chúng sanh, có thể tự mình giác ngộ, mỗi ngày giác ngộ thêm một ít, chớ không phải mỗi ngày mê thêm một ít, cho nên gọi là Bồ-tát. Các vị ấy đều là những vị đại Bồ-tát đã giác ngộ sắp đến bậc viên mãn.

Văn-thù Sư-lợi Pháp vương tử...Văn-thù-sư-lợi còn gọi là Mạn-thù-sư-lợi. Đó là do đọc âm trại mà có sự sai khác. Mạn-thù-sư-lợi là tiếng Phạn, dịch là Diệu Cát hay Diệu Đức. Vị Bồ-tát này là người có trí huệ hơn hết trong hàng Bồ-tát. Bồ-tát dịch là Giác hữu tình, là một người giác ngộ trong chúng sanh; chúng sanh là mê hữu tình, chúng ta đây là một loài mê muội trong loài hữu tình. Giác ngộ chính là giác ngộ tất cả cảnh giới trước mặt nên có câu nói thế này: "Thấy việc, biết việc, thoát thế gian." Thấy việc gì có thể giác ngộ được tất cả cảnh giới thì có thể ra khỏi thế gian. Còn thấy việc gì lại mê muội trong cảnh giới ấy thì sẽ đọa vào trầm luân. Ra khỏi thế gian chính là Bồ-tát, đọa lạc trầm luân chính là chúng sanh. Chỗ khác nhau giữa chúng sanh và Bồ-tát chính là mê và giác mà thôi. Cho nên Phật là người giác ngộ, tức là người giác ngộ trong chúng sanh. Chúng ta cũng có thể nói Bồ-tát là người giác ngộ, vì người giác ngộ là Bồ-tát, kẻ mê muộichúng sanh. Vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này khi sanh ra có mười việc cát tường, chứng tỏ rằng công đức của vị Bồ-tát này đầy đủ bậc nhất trên thế giới. Mười thứ cát tường ấy là:

1. Ánh sáng đầy nhà: Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi được sanh ra thì ở trong nhà có một thứ ánh sáng, ánh sáng này không phải là ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh sao, hoặc ánh đèn. ánh sáng này là biểu thị ánh sáng trí huệ Bát-nhã của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cũng chính là để nói rằng: vị Bồ-tát này có đại trí đại huệ, có thể diệt trừ tất cả màn tối vô minh.

2. Cam lộ đầy sân: Cam lộ là loại nước thuốc bất tử, chỉ trên trời mới có. Cam lộ có thể làm cho người ta no ấm, không ăn cơm cũng không đói. Người ta không ăn cơm sẽ đói. Tại sao lại đói? Vì không có cam lộ để nuôi dưỡng nên cảm thấy đói, không có tinh thần làm việc. Cam lộ có thể khiến người được no ấm, được trong sạch mát mẻ. Cho nên ngạ quỷ một khi được Cam lộ rưới lên đầu, tức khắc được tiêu trừ tội nghiệp. Cam lộ đầy sân biểu thị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng pháp cam lộ để cứu độ chúng sanh. Vì cứu độ tất cả chúng sanh nên cửa cam lộ mở ra thì ngạ quỷ tiến vào sẽ được no ấm.

3. Đất trồi lên bảy báu: Từ đất sanh ra bảy thứ châu báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Bảy thứ này sao gọi là báu? Trên thế giới này, những vật gì ít có mới được coi là quý báu, còn nhiều thì sẽ không còn quý báu nữa. Ví như đất cũng là một thứ bảo bối, người ta nếu không có đất thì sẽ không sống được, nhưng ai cũng thấy nó dẫy đầy nên không coi là quý báu nữa. Nếu đem một cục đất tặng cho ai, người ta nhất định sẽ không nhận mà vứt xuống đất. Tại sao thế? Vì đất chỗ nào cũng có. Nước cũng là một thứ bảo bối, người ta không có nước thì không sống được, cho đến mọi sinh vật, nếu thiếu nước thì cũng không thể sống được. Cho nên Lão Tử nói: "Bậc thượng thiện giống như nước. Nước thiện lợi đối với vạn vật mà không tranh." Ví như đối với hoa, nước không thể nói: "Đóa hoa này nhờ tôi tưới mỗi ngày hoa mới lớn và đẹp như thế; nếu không có tôi thì hoa làm sao có được như ngày nay ư?" — chỗ mọi người ghét bỏ, ở chỗ thấp trũng, chỗ mà ai cũng không muốn ở thì nước sẽ ở nơi đó; "Cho nên gần với đạo", vì thế đạt được đạo vậy.

Xưa nay, kim mộc thủy hỏa thổ đối với nhân loại đều có chỗ lợi ích, nhưng tại sao người ta không quý trọng? Tại vì chúng quá nhiều, như cây gỗ đi đâu cũng thấy nó. Còn vàng, tại sao lại được trân quý? Vì ít có. Như ở thế giới Cực Lạc vàng ròng làm đất, nắm đất kia sẽ có giá trị vì ở cõi ấy không có đất. Nếu đem cho người ở thế giới Cực Lạc một cục đất cũng chẳng khác nào như mang một cục đất từ mặt trăng trở về. Dù là một cục đá, nhưng đem về từ mặt trăng, vì ít có nên được coi là quý.

Tại sao gọi là thất bảo? Tại vì hiếm có, không phải ai ai cũng có được, cho nên gọi là bảy báu vật. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có vô lượng kho báu, cho nên lúc ngài sanh ra, bảy thứ báu cũng ngay lúc ấy từ đất trồi lên. Trồi lên nhiều ít? Lấy hoài không hết, dùng hoài không cạn, lấy xong lại có nữa. Bảy báu ở đâu? — chỗ mà Bồ-tát Văn-thù sanh ra. Có người nói: "Vậy thì tôi đến đó lấy nhé!" Chớ sanh lòng tham, e rằng tổn phí còn lớn hơn số bảy báu lấy được cho nên đừng có vọng tưởng.

4. Thần mở kho tàng ẩn giấu: Chuyển Luân Thánh vươngbảy báu, trong đó có một thứ là Tạng thần bảo, chính là vị thần cai quản kho báu. Bảy báu từ dưới đất lộ ra là bảy báu từ dưới đất trồi lên, kho báu này là của người trước chôn giấu, bây giờ vị thần giữ cửa kho khui mở ra, nên từ dưới đất lộ ra. Báu vật này cũng đều có thể dùng được.

5. Gà sanh trứng phụng: Gà vốn sanh ra gà, nhưng hiện tại, gà lại sanh ra phụng hoàng. Phụng hoàng là một thứ chim cát tường, người thấy được phụng hoàng nhất định sẽ gặp chuyện tốt lành. Đức Khổng Tử từng nói: "Chim Phụng không đến, hà đồ không hiện ra, ta không còn muốn truyền đạo nữa." Ý ngài nói: "Chim Phụng hoàng cũng không đến, cũng không có Hà đồ lạc thư xuất hiện, ta muốn dừng lại không còn tuyên dương đạo đức nữa.

6. Heo sanh con vảy rồng: Gà sanh ra phụng còn chưa lạ lùng bằng heo sanh ra con có vảy rồng. Xưa nay, rồng sanh ra rồng, nhưng bây giờ heo sanh ra rồng, vì heo con trên mình có vảy, cho nên gọi là rồng.

7. Ngựa sanh kỳ lân: Xưa nay ngựa sanh ra ngựa, bây giờ ngựa lại sanh ra kỳ lân. Kỳ lân là một loại thú báo hiệu điềm tốt, ở Trung Quốc vào thời Đường Nghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy được. Về sau, nhơn vì chúng sanh nghiệp báo nặng, tạo ra tội nghiệp rất nhiều, nên những loài chim thú cát tường ấy không xuất hiện nũa. Trong bài Khổng Tử Hoài Lân có nói: "Thời Đường Ngu hề, lân phụng nhởn nhơ. Nay không phải thời ấy mầy đến tìm gì? Lân hề lân hề, lòng ta ưu tư." Vào thời đường Nghiêu, Ngu Thuấn, những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế giới này, ai cũng đều thấy được. Còn bây giờ không phải là thời đại Đường ghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy được. Về sau, nhơn vì chúng sanh nghiệp báo nặng, tạo ra tội nghiệp rất nhiều, nên những loài chim thú cát tường ấy không xuất hiện nũa. Trong bài Khổng Tử Hoài Lân có nói: "Thời Đường Ngu hề, lân phụng nhởn nhơ. Nay không phải thời ấ những loại kỳ lân, những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế giới này, ai cũng đều thấy được. Còn bây giờ không phải là thời đại Đường ghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy Trâu sanh bạch trạch: Trâu sanh ra một loại thú màu trắng. Bạch trạch là một loại thú ít có, đã không giống trâu, ngựa, lại không giống lừa, ấy gọi là Tứ bất tượng, là con thú hình dáng ngựa mà lại có móng trâu, sừng trâu, đó cũng là một loại thú hiện điềm lành.

9. Lúa biến thành vàng: Lúa, xưa nay có thể làm gạo, bây giờ biến thành vàng thì làm sao ăn được? Có người nói: "Có thể đem nó bán đi rồi mua rất nhiều gạo về." Đó thật là một người thông minh. Người ấy lại hỏi: "Ai có tâm tham?" Tôi nói: "Tôi cũng có tâm tham, tham muốn mọi người mau thành Phật."

10. Voi đủ sáu ngà: Xưa nay voi chỉ có hai ngà, nhưng khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi sanh ra thì voi của nhà ngài mọc đủ sáu ngà.

Trên đây là mười việc cát tường như ý xuất hiện khi Bồ-tát Văn-thù sanh ra, đại biểu cho mười độ Ba-la-mật của hàng Thập địa Bồ-tát Đại trí Văn-thù-sư-lợi, không giống với các vị Bô-tát khác. Nếu mình muốn quen biết với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, muốn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thì trước tiên phải nhớ mười việc cát tường này. Tuy Bồ-tát không có tâm phân biệt, nhưng nếu mình biết được nhiều điểm của ngài thì mới gần được ngài thêm. Tại sao chúng ta phải biết càng nhiều càng tốt về cảnh giới của mỗi vị Bồ-tát? Vì có như thế mỗi vị Bồ-tát đều có thể làm thiện tri thức hoặc anh em bè bạn của chúng ta được. Trong tương lai, mỗi người chúng ta đều có thể là thiện tri thức của Bồ-tát, cho nên không nên tự mình coi thường mình.

A-dật-đa Bồ-tát, chính là Bồ-tát Di Lặc. A-dật-đa là tiếng Phạn, dịch là Vô Năng Thắng, cũng tức là Từ Thị. Vị Bồ-tát này chuyên tu Từ Tâm Tam-muội, đối với bất cứ ai ngài đều dùng tâm Từ bi. Ai mắng ngài, ngài cũng dùng lòng từ bi đáp lại; ai đánh ngài, ngài cũng đáp lại bằng lòng từ bi. Bất luận là người nào đối xử không tốt với ngài, hoặc là ức hiếp ngài, làm nhục ngài, giận dữ la hét ngài, sanh ra vô minh, ngài đều dùng lòng từ bi đối xử với họ. Tất cả mọi việc, ngài đều dùng lòng từ bi đối đãi hết. Chẳng những ngài dùng từ bi đối xử với người, mà ngài còn thương xót cứu giúp tất cả chúng sanh nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh giống như là con cái của chính mình, thậm chí còn thân thiết hơn con cái nữa. Ngài thương mến giúp đỡ tất cả chúng sanh đủ cả mọi mặt với tâm từ bi vô lượng vô biên. Tu Từ Tâm Tam-muội cần phải tu cả hạnh Nhẫn nhục, cho nên ngài có một bài kệ như thế này:

Lão hèn mặc áo vá
Cơm hẩm đủ no lòng
áo vá qua cơn lạnh
Vạn sự chỉ tùy duyên
Có người mắng lão hèn
Lão hèn cho là hay
Có người đánh lão hèn
Lão hèn ngủ quên mất
Phun nước miếng lên mặt
Cứ để nó khô thôi
Ta cũng bớt sức lực
Anh cũng khỏi giận hờn
Kiểu Ba-la-mật ấy
Chính là báu thêm mầu
Nếu biết được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.
Lão hèn mặc áo vá: Lão hèn chính là một người tuổi già rất ngu si, áo vá chính là áo rách phải dùng kim chỉ để vá lại. Cơm hẩm đủ no lòng: Cơm hẩm chính là thức ăn không thêm các gia vị dầu, muối, tương, xì dầu, dấm..., rất nhạt nhẽo, không có mùi vị gì, chỉ có thể lót đầy bụng trống thôi. áo vá qua cơn lạnh: áo rách được vá lành thì có thể dùng để ngăn cái lạnh lẽo từ bên ngoài. Vạn sự chỉ tùy duyên: Bất cứ sự tình gì cũng tùy tiện mà giải quyết ổn thỏa. Việc đến thời ảnh hiện, việc đi kể như không, cũng chính là "Đáo xứ tùy duyên qua ngày tháng, Thủ thường an phận mặc thời gian." Bất cứ sự tình gì hễ đến, đi thì kể như không, đó gọi là tùy duyên. Tùy duyên cũng chính là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến tùy duyên"; cũng chính là trong động có tĩnh, trong tĩnh có động; vừa tĩnh vừa động, vừa động vừa tĩnh.

Có người mắng lão hèn: Có người mắng ta là lão già ngu si. Lão hèn cho là hay: Ta tự nói là hay quá, hay quá! Có người đánh lão hèn: Có người đánh ta, cho ta là kẻ ngu si vô dụng, đoán xem điều gì sẽ xảy ra? Lão hèn ngủ quên mất: Có người đánh ta một cái, ta nằm xuống ngủ quên ngay. Mình nói ngài là ngu si, tại sao lại làm thế? Thông thường người ta bị đánh thì trừng mắt nhướng mày nói: "Tại sao anh đánh tôi?" Nhưng ngài chẳng những không trợn mắt, mà lại nằm lăn trên đất ngủ khì nữa. Như vậy có quá hay hay không? Nếu ai có thể dùng được phương pháp này thì thật là không đến nỗi tệ, thật là có hạnh tu đấy. Phun nước miếng lên mặt, có người phun nước miếng lên mặt mình thì lửa vô minh bốc lên hằng ba ngàn trượng: "Tại sao anh làm nhục tôi?!" Nhưng Bồ-tát Di Lặc thì: Cứ để nó khô thôi, để cho nó tự khô đi, tôi cũng không cần lấy tay lau sạch. Ta cũng bớt sức lực, lau sạch nước miếng dù không hao phí sức lực bao nhiêu, nhưng cũng là phải dùng sức, bây giờ không lau thì sức lực đó cũng bớt phải xử dụng. Anh cũng khỏi giận hờn, một khi mình thấy một người bị mình phun nước miếng lên mặt mà người ấy hình như coi như không, thì nghĩ rằng: "Cái người này! Mình không quen biết họ", thế thì giận hờn của mình không còn nữa. Kiểu Ba-la-mật ấy, sao gọi là Ba-la-mật? Đó là có người đánh, mình có thể ngủ thì được; có người phun nước miếng lên mặt, mình cứ để nó tự khô đi; đó chính là Ba-la-mật, cũng gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giả như ngay đến Nhẫn nhục Ba-la-mật mà cũng không biết, thì mình học Phật pháp để làm chi? Chẳng cần phải suốt ngày từ sáng tới tối học đi học lại mãi mới gọi là học được nhiều Phật pháp, mà có khi cảnh giới đến lại không biết áp dụng một tí nào. Chính là báu thêm mầu, đó là mầu nhiệm trong mầu nhiệm, quý báu trong quý báu. Nếu biết được như thế, lo gì đạo chẳng thành? Nếu biết được những điều như trên thì lo gì không thành đạo được? Nếu tu học Nhẫn nhục Ba-la-mật như thế, thì đạo nghiệp của mình nhất định sẽ thành tựu; chư Phật, Bồ-tát không bao giờ dối gạt người đâu. Nếu mình học được như Bồ-tát Di Lặc thì nhứt định sẽ thành tựu đạo quả.

Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát. Càn-đà-ha-đề là tiếng Phạn, dịch là Bất Hưu Tức. Bất Hưu Tức chính là Thường Tinh Tấn, Thường Tinh Tấn cũng chính là Bất Hưu Tức. Càn-đà-ha-đề cùng với Thường Tinh Tấn, hai vị Bồ-tát này cùng đi đôi với nhau, tinh tấn bước tới, cũng chính là không ngừng nghỉ. Một người là bất hưu tức (không ngừng nghỉ), tức là có thường tinh tấn; một người thường tinh tấn, tức là bất hưu tức; hai vị này nhìn ngắm lẫn nhau, anh bất hưu tức thì tôi sẽ thường tinh tấn; anh thường tinh tấn, tôi đây sẽ bất hưu tức. Hai vị này ngày đêm sáu thời hành đạo, người này làm Hộ pháp cho vị kia; vị kia cũng làm Hộ pháp cho người này; cũng giống như là cùng chạy đua vậy, anh nếu chạy tới một bước thì tôi cũng chạy thêm một bước, ai cũng không tuột hậu cả. Cho nên Thường Tinh Tấn cũng chính là Bất Hưu Tức, Bất Hưu Tức cũng chính là Thường Tinh Tấn. Hai vị Bồ-tát này từ vô lượng kiếp đến nay cùng đồng tham tu như nhau. Thế nào gọi là đồng tham tu? Nghĩa là hai người cùng đồng tu hành. Anh dụng công ư? Tôi sẽ dụng công hơn anh. Anh dụng công bằng tôi, tôi lại càng dụng công nhiều hơn nữa. Họ cùng tranh đua lẫn nhau, cho nên một người tên là Thường Tinh Tấn, một người tên là Bất Hưu Tức. Hai vị Bồ-tát này thật là những vị tu hành chơn chánh, tất cả đều là Thường Tinh Tấn, tất cả đều là Bất Hưu Tức.

Cùng các vị Bồ-tát lớn v.v... như thế, "v.v... như thế" là trừ những vị Bồ-tát đã nói ở trên còn có rất nhiều vị Bồ-tát lớn hơn nữa.

Và những hàng Thích Đề Hoàn Nhơn v.v..., vô lượng chư thiên, đại chúng đồng câu hội. Thích Đề Hoàn Nhơn chính là Đế Thích, Đế Thích chính là chúa của từng trời Tam thập tam, cũng chính là vị Nhơn-đà-la-da trong chú Lăng Nghiêm, cho nên người hiểu Phật pháp mới biết trong chú Lăng Nghiêm có chư Thiên, có tất cả vua quỷ thần, có các vị Bồ-tát lớn. Người không hiểu Phật pháp thì nói trong Phật giáo không có chư thiên, không có Nhị thập bát tú, không có v.v..., vì họ không biết. Trong chú Lăng Nghiêm cũng có Nhị thập bát tú, cũng có chư Thiên quỷ thần. Vô lượng chính là không có số lượng. Trời, nói chung có ba mươi ba, nếu phân tích kỹ thì trong mỗi cõi trời lại có vô lượng cõi trời, cũng giống như thế giới của chúng ta đây, có thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới; cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước; từng Trời cũng giống như thế, cũng có vô lượng chư Thiên. Đại chúng đồng câu hội nghĩa là rất nhiều rất nhiều người cùng tụ hội lại một chỗ.

Bấy giờ Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất: Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phậtmột thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệuA Di Đà hiện đang thuyết pháp ở đó.

Bấy giờ, chính là ngay lúc ấy, lúc mà vô lượng chư Thiên, Bồ-tát, Thanh văn, La-hán, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng nhóm họp ở một chỗ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo vị Trưởng lão trí huệ bậc nhất tên là Xá-lợi-phất. Từ đây -Từ đây là chỗ nào? Đó chính là Kỳ Hoàn tịnh xá ở Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc của nước Xá Vệ. Từ đây bắt đầu tính về hướng Tây, qua mười vạn ức cõi Phật, ở đó có một thế giới tên là thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc này là thế giới hết sức vui vẻ, vui vẻ đến cực điểm, không còn gì vui bằng, lại cũng không có thế giới nào vui hơn đây nữa. Thế giới này có một vị Phật tên là A Di Đà. A Di Đà là tiếng Phạn, có nghĩa là Vô lượng quang, cũng có nghĩa là Vô lượng thọ. Vô lượng quang là ánh sáng của ngài chiếu soi mười phương thế giới không bị chướng ngại. Vô lượng thọ là sanh mạng của ngài trải qua trăm ngàn vạn ức đại kiếp cũng không cùng tận. Đức Phật này sau khi thành Phật cũng là bất hưu tức (không ngừng nghỉ) cho nên mới nói như thế. Hiện đang thuyết pháp, nghĩa là hiện đang nói pháp cho mọi người nghe. Ngài là vị Phật đang làm việc, chứ không phải là vị Phật không làm việc. Công việc của Phật chính là thuyết pháp. Ai có thể thuyết pháp, chính là làm việc của Phật. Ai không thể thuyết pháp, chính là làm việc của ma. Nếu không thể thuyết pháp độ chúng sanh thì đời này tới lui vô ích, giống như đi hoài mà không tới được, chỉ phí công mà thôi!

Này Xá-lợi-phất! Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? - Đây là Phật tự đặt vấn đề để hỏi ngài Xá-lợi-phất; dù là bậc đại trí, nhưng ngài cũng không biết phải hỏi thế nào mới đúng. Điều này cũng giống như có lần tôi hỏi quý vị: "Trời mưa tốt hay không?" Quý vị cũng không biết phải trả lời như thế nào. Nhưng tôi có thể đưa ra một ví dụ: Làm thổ phỉ không thích trời mưa, vì đi lại rất khó khăn, lấy cắp đồ vật của người ta cũng không phải dễ. Còn người đi trên đường cũng không thích trời mưa, vì mưa xuống đường đi trơn trợt lại tối mù, khó nhìn rõ mọi vật chung quanh. Chỉ có người làm ruộng thì rất thích thú; hoa quả, gạo thóc được nước mưa thấm nhuần thì nhất định thu hoạch cao. Vì thế quý vị nói: Trời mưa tốt hay không? Cũng có quý vị nói: Giảng kinh thuyết pháp tốt hay không? Nếu người thích nghe Phật pháp thì nói: Tốt! Còn người không thích nghe Phật pháp thì nói: Không tốt! Hiện tại Phật nói Kinh A Di Đà, thật ra đáng lẽ do ngài Xá-lợi-phất hỏi, nhưng ngài Xá-lợi-phất chẳng biết hỏi như thế nào, cho nên Đức Phật tự đặt ra vấn đề rồi giải đáp luôn. Chúng ta có thể giả thiết tình huống lúc đó như thế này - Trước hết Đức Phật hỏi: "Này Xá-lợi-phất! Vì sao cõi nước kia tên là Cực Lạc?" Rồi đợi Xá-lợi-phất trả lời. Lúc ấy, đợi chừng năm phút mà ngài Xá-lợi-phất cũng chưa có thưa hỏi, dù ngài có trí huệ bén nhạy đến như thế nào cũng không biết phải nói sao cho đúng, đối trước Phật không thể nói ra lời nào được. Nhưng thời gian này thật là quý giá, cho nên Phật cũng không đợi được, bèn bảo ngài:

Chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực Lạc.

Tại sao cõi nước ấy tên là Cực Lạc? - Tại vì chúng sanh của nước ấy đều hóa sanh từ hoa sen, cũng chính là từ trong chỗ thanh tịnh mà sanh ra, chẳng phải từ nơi dục ái mà sanh ra, cho nên họ không có các khổ não. Tại sao chúng ta lại khổ? Bởi vì thân thể của chúng ta sanh ra từ các thứ ô trược của tinh cha huyết mẹ, từ sáng đến tối, nam thì nghĩ đến nữ, nữ thì nghĩ đến nam, suốt ngày ăn no rồi không làm chi, cho nên trước nhất là nghĩ đến việc ấy. Vì thế trai gái vừa mới lớn đương nhiên nghĩ đến việc kết hôn, không kết hôn thì hình như là chưa làm xong một việc quan trọng. Đó đều là do chủng tử bất tịnh, nhơn chủng tử bất tịnhtâm niệm cũng bất tịnh; tâm niệm đã bất tịnh nên sanh ra các thứ khổ não. Bây giờ giảng kinh thuyết pháp, không luận nói nhiều hay ít, đều là nói đến chỗ ấy. Những kinh điển của Phật nói ra cũng đều là dạy ta không có tâm dâm dục. Không có tâm dâm dục chính là đại hải chúng Bồ-tát thanh tịnh; có tâm dâm dục thì là quỷ. Chúng sanh ở đời ác ngũ trược, cho nên tu hay không tu chính là ở điểm này. Thanh tịnh được tâm mình thì công đức vô lượng; không thanh tịnh được tâm mình thì tội lỗi vô biên. Tội lỗi là do tâm không thanh tịnh, do cái nhân ở tự tánh, mà thành quảhình tướng tạo ra các tội lỗi. Tự tánh mình thanh tịnh thì bên ngoài không có quả báo ác nghiệp. Cho nên chúng ta học Phật pháp, nếu khôngđạo lý chơn chánh thì học đến vạn vạn đại kiếp đi nữa cũng không thể thành Phật được. Nếu hiểu đúng yếu điểm của Phật pháp, nói gì thì nói, chính là bảo người ta phải tự thanh tịnh ý chí của mình. Khi mình được khai ngộ thì không còn có tư tưởng không thanh tịnh nữa. Tại sao chúng ta có khổ não? - Chỉ vì ý nghĩ của chúng ta không thanh tịnh. Tại sao thế giới Cực Lạc không có khổ? - Không khổ vì ý nghĩ của họ thanh tịnh, cho nên không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui. Không có tất cả nỗi khổ mà hưởng tất cả điều vui, vì thế mới gọi là thế giới Cực Lạc.

Chúng ta niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đó là chúng ta bắt đầu trang nghiêmthành tựu thế giới Cực Lạc của chính mình. Thế giới Cực Lạc dù nói là xa cách đến mười vạn ức cõi Phật, nhưng cũng chẳng phải nhứt định là xa cách đến mười vạn ức cõi Phật đâu, vì nó vẫn không ra ngoài một tâm niệm của chúng ta, cũng chính là nói thế giới Cực Lạc tức là ở trong tâm chúng ta vậy. Thế giới Cực Lạc tức là chơn tâm sẵn có của chính mình. Khi mình đến được chơn tâm sẵn có của mình thì sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu khôngchơn tâm sẵn có của mình thì không thể nào đến cõi nước kia được. Thế giới Cực Lạc tức là ở trong tâm chúng ta chứ không phải ở ngoài tâm. Thế giới Cực Lạc thanh tịnh không ô nhiễm thì chúng ta một niệm Chơn tâm hiện tiền cũng thanh tịnh không ô nhiễm. Nếu từ bỏ được mọi chấp trước thì tức khắc là thế giới Cực Lạc, tức khắc thấy được Phật A Di Đà. Phật A Di Đàchúng sanh không có phân biệt, cho nên nói thế giới Cực Lạc không phải là xa như thế đâu.

Một niệm hồi quang biết rằng mình vốn là Phật; vốn là Phật chính là thế giới Cực Lạc. Dứt trừ tâm ô nhiễm đi, cũng chính là dứt trừ tạp niệm tư dục không còn tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, tâm tự lợi và tâm ích kỷ nữa. Lúc đó mình giống như Bồ-tát làm lợi ích cho người, giác ngộ tất cả chúng sanh. Không còn tạp niệm, vọng tưởng nữa, thế thì không phải là thế giới Cực Lạc sao? Cho nên không cần phải đi tìm ở đâu bên ngoài.

Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẫn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực Lạc.

Sau khi đã nói tại sao cõi nước kia tên là Cực Lạc rồi, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chờ ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi vô lượng vô biên đạo lý trong đó, nhưng ngài Xá-lợi-phất tuy rất thông minh lại vẫn không hiểu rõ. Bởi vì pháp môn Tịnh độ rất vi diệu, là pháp môn không thể nghĩ bàn, cho nên ngài không biết thưa hỏi ra sao. Lúc đó Đức Phật không còn chờ được nữa, lại nói tiếp: "Này Xá-lợi-phất! Ta lại nói cho ông biết thêm nữa: Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẫn...." Lan là những cây ngang, thuẫn là những rào dọc; còn có bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, ba thứ báu này đều là số bảy. Bảy lớp lan thuẫn đại biểu cho Giới, bảy lớp lưới giăng đại biểu cho Định, bảy lớp hàng cây đại biểu cho Huệ. Ba thứ này tức là Giới Định Huệ, ba thứ đều mang số bảy, cũng là biểu thị cho bảy khoa. Bảy khoa là gì? - Tức là ba mươi bảy đạo phẩm: Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-Đề Phần, Tám Chánh Đạo Phần, cộng thành ba mươi bảy đạo phẩm. Vì sao đem "lan thuẫn" đại biểu cho Giới? - Giới là ngăn ác, ngừa quấy; tức là các điều ác không làm, các điều lành thường làm. Ngăn ngừa các điều ác, thường làm các điều lành, tức là Giới. Khi chưa thọ giới có thể khởi các thứ vọng tưởng, nhưng thọ giới rồi thì không nên khởi bất cứ vọng tưởng nào, mà phải nghĩ tưởng thanh tịnh. Vạn nhất có khởi ra vọng tưởng, phải tự rờ đầu mình và nói: "Mình đã xuất gia, không phải là người tại gia nữa, nhất định phải ba nghiệp thanh tịnh." Cũng giống như dùng lan can để rào lại, cho nên dùng lan thuẫn làm biểu tượng cho Giới. Nếu như nhảy qua hàng rào tức là phạm pháp, vì thế gọi bảy lớp lan thuẫn là Giới. Tại sao bảy lớp lưới giăng làm biểu tượng cho Định? - Định có nghĩa là không ra không vào. Có câu nói như thế này: "Na-già thường ở định, không lúc nào không định." Nếu thiệt có định lực thì không cần phải ngồi nữa. Bất cứ cảnh giới nào hiện ra cũng không làm lay động được. Vì bất cứ lúc nào tâm mình cũng không bị ngoại cảnh lay chuyển, cho nên gọi là "thường ở định." Ví như có một món ăn ngon, ăn rồi lại muốn ăn nữa, ấy là vì không có định lực, thậm chí lấy trộm để ăn, thì không những là không có định lực mà lại còn phạm giới nữa. Tuyệt đối đừng cho đó là việc nhỏ, không đáng gì. Người làm việc quấy tức là bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt, cho nên việc quấy nhỏ đến đâu cũng không nên làm. Những lỗi lặt vặt không dễ gì sửa đổi, nhưng sửa được những lỗi vặt tức là có thể có định lực. Không có lúc nào mà không định, bất cứ cảnh giới nào khi đã hiện ra thì "Mắt thấy hình sắc trông không có, tai nghe việc trần tâm chẳng hay."

Định lực là không bị cảnh giới lay chuyển. Ví như một cô gái thấy trước mặt mình một chàng trai rất anh tuấn mà không sanh tâm dâm dục, tức là có định lực. Một người trai thấy một cô gái rất mỹ miều mà không sanh tâm dâm dục cũng là có định lực. Thấy như không thấy, nghe như không nghe. "Mắt thấy hình sắc trông không có, tai nghe việc trần tâm chẳng hay" tức là có Định lực đấy, vì thế mới nói bảy lớp lưới giăng biểu tượng cho Định. Bây giờ chúng ta mới rõ biết ý nghĩa Kinh A Di Đà thêm nhiều rồi đấy!

Bảy lớp hàng cây. Cây đều rất cao lớn, biểu tượng cho trí huệ cao cả. Có trí huệ, tức là cao. Không có trí huệ tức là thấp. Chẳng phải thân cao mà là trí huệ cao. Có trí huệ tức là bảy lớp hàng cây, không có trí huệ chỉ như bảy lớp hàng cỏ. Cỏ có thể làm ngăn bít tâm mình, biến thành ngu si, giảng đi giảng lại vẫn không hiểu được.

Đều là bốn thứ báu. Bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Cõi nước Cực Lạc chỉ có bốn thứ báu này sao? - Bảo bối của cõi nước Cực Lạc thì vô lượng vô biên, những thứ mà ở cõi nước chúng ta chưa được thấy, ở nước ấy cũng có. Tại sao chỉ đơn cử bốn thứ bảo bối ấy? Bốn thứ bảo bối này làm ví dụ cho bốn đức, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

1. Thường: Sống lâu. A Di ĐàVô lượng thọ. Chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc cũng sẽ được vô lượng thọ. Ai muốn sống lâu thì nên cầu sanh về thế giới Cực Lạc. — nơi đó mọi người đều được vô lượng thọ, nên gọi là Thường đức.

2. Lạc: Chúng sanhthế giới Cực Lạc không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui.

3. Ngã: Cõi nước kia có tám thứ đại tự tại ngã, còn gọi là Ngã đức. Tại sao gọi là tám thứ đại tự tại ngã? - Tức là tám thứ đại tự do, tám thứ tác dụng, tám thứ lực lượng, tám thứ thần thông, tám thứ diệu dụng:

i) Từ một thân hiện vô lượng thân. Giả sử có trăm ngàn người thỉnh bạn đến để cúng dường, bạn đều có thể đồng thời phân thân đến mỗi nhà để ứng cúng. Một thân có thể thọ vô lượng cúng.

ii) Từ một thân như vi trần hiện khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Một vi trần hiện một cõi nước, một cõi nước hiện một vi trần, có nghĩa là từ một cõi nước biến thành ra một hạt vi trần nhỏ tí ti, một hạt vi trần nhỏ tí ti biến thành một cõi nước thật to lớn.

iii) Thân to lớn có thể nhẹ nhàng đi thật xa. Nghĩa là thân to lớn bay đi đến chỗ thật xa.

iv) Có thể hiện ra vô lượng chủng loại chúng sanh cùng ở một chỗ. Chúng ta thấy núi là núi, kỳ thật trong núi có cung điện của chư Phật, Bồ-tát. Có một đồ đệ nói: "— nơi chỗ kia có rất nhiều người đang tu hành." Vị đồ đệ ấy có thể nhìn thấy mà quý vị lại không thấy. Kỳ thật, trong núi hay trên biển đều có chư Phật, Bồ-tát đang thuyết pháp, nhưng quý vị không biết đó thôi.

v) Các căn hỗ dụng: Con mắt có thể nói chuyện, lỗ tai có thể nhìn thấy, lỗi mũi có thể ăn uống, hoặc con mắt cũng có thể ăn uống được. Vì sao thế! Vì sáu căn có thể hỗ dụng, mỗi căn đều đủ tất cả tác dụng của sáu căn. Giống như vị Thánh nhơn chứng quả, có thể dùng lỗ tai để nói chuyện với các Bồ-tát, nhưng quý vị không thể thấy được. Nếu quý vị tin thì cũng có thể có một ít lực dụng ấy; nhưng vì quý vị không tin nên không thể có lực dụng ấy được. Quý vị đều không tin chuyện này thì làm sao có thể có được công năng ấy?

vi) Được tất cả pháp mà không có tưởng là pháp. Không có tưởng đắc về pháp. Cũng như trong Tâm Kinh nói: "Không trí cũng không đắc", có nghĩa là không có trí huệ cũng không có sở đắc.

vii) Một bài kệ, thậm chí một chữ, có thể nói đến vô lượng kiếp cũng chưa hết, vì được biện tài tự tại vô ngại. Nói ngang cũng là pháp, nói dọc cũng là pháp; nói xuôi cũng là pháp, nói ngược cũng là pháp; nói thế nào cũng là pháp cả. Vì được tám thứ đại tự tại, muốn nói thế nào cũng đều được hoan nghinh. Giả sử mắng người, người ta cũng thích nghe. Vì người ấy tự tại, người khác nghe nói cũng được tự tại.

viii) Thân khắp cõi nước nhiều như vi trần. Thân khắp cả cõi nước nhiều như vi trần, cũng như hư không dù không có thân thể nhưng lại khắp cả cõi nước. Do vì tự tại mà có được như vậy. Phía sau kinh này cũng có nói: "Thường đến buổi sáng, mỗi người lấy túi vải đựng các thứ hoa vi diệu cúng dường mười vạn ức Đức Phật ở phương khác, rồi đến giờ ăn trở về nước của mình...." Tại sao vào buổi sáng có thể đến cúng dường mười vạn ức Đức Phật ở phương khác? Chính nhơn vì được tám thứ đại tự tại, cho nên thế giới Cực Lạc trang nghiêm bằng bốn thứ báu, tức biểu thị cho bốn đức Niết-bàn (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh).

4. Tịnh: Đây là một đức sau cùng trong bốn đức Niết-bàn. Bốn báu vây quanh giáp vòng là bốn đức Niết-bàn đầy đủ, viên dung vô ngại, cho nên gọi là Cực Lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15911)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14346)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13441)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13153)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14917)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16320)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11776)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17470)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13583)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12788)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14776)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16245)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12788)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12692)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14031)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14021)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12292)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10933)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13799)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13066)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13409)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13817)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16164)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11873)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10981)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12521)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant