Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ix

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 8308)
Ix


Kinh Phật Thuyết A Di Đà

Hán Văn: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Giảng Giải: Vạn Phật Thánh Thành, Tuyên Hóa Thượng Nhân


Có người nói: "Nam mô A Di Đà Phật, câu này thì có, sao lại có Nam mô A Di Đà Pháp được?" - Bởi vì đó là pháp của Phật A Di Đà nói ra. Lại cũng là chúng tăng của Phật A Di Đà giáo hóa mà có. Thế thì tại sao không nói: "Nam mô A Di Đà Tăng" được ư? Cho nên đừng có thắc mắc! Những điều tôi giảng là một nghệ thuật mới mẻ đấy! Cũng giống như tôi giảng cho quý vị nghe về Niết-bàn như thế này. Niết là không sanh, Bàn là không diệt; không sanh tâm dâm dục, không diệt trí huệ. Cho nên Phật đạt cảnh giới Niết-bàn thì không có tâm dâm dục nữa. Ngài thanh tịnh, không nhiễm trước, không có ý tưởng nam nữ, tự tánh thường sanh trí huệ cho nên không diệt.

Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu được công đứctrang nghiêm như thế đó.

Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà? Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di Đà. Lại này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn đều là bậc đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được; các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế.

Phật lại nói: "Này Xá-lợi-phất!" Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đặc biệt có lòng thương nghĩ đến ngài Xá-lợi-phất: "Đồ đệ này quả thật có được ít nhiều trí huệ, nhưng lại không biết hỏi, để ta nói cho ông ấy biết!" Ý ông nghĩ sao? Trong ý nghĩ của ông, ông cho là như thế nào? Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà? Đáng lẽ câu này là của ngài Xá-lợi-phất hỏi, mà ngài không biết hỏi, ngờ nghệch giống như đang nhập định vậy, cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi giúp và đáp thay cho ngài: Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng. A Di Đà dịch là vô lượng quang, cho nên nói Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, chiếu suốt mười phương cõi nước mà không có gì ngăn che ánh sáng ấy được. Cho nên có tên là A Di Đà, vì thế nên gọi Ngài là Phật A Di Đà. Lại này Xá-lợi-phất! Lại còn một nghĩa nữa: Mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài đều vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, mạng sống của Phật A Di Đànhân dân của Ngài có đến vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ là tiếng Phạn, dịch là vô lượng số. Cho nên có tên là A Di Đà, vì thế nên gọi Ngài là Vô Lượng Thọ Phật. Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp, từ khi Đức A Di Đà thành Phật đến nay đã kéo dài mười đại kiếp, mạng sống tương lai cũng vô lượng vô biên. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn, Đức Phật A Di Đàthế giới Cực Lạc có rất nhiều đồ đệ là hàng Thanh văn. Đều là bậc A-la-hán, những vị ấy đều đã chứng quả A-la-hán vô lậu, đều là những người không có tâm dâm dục. Không thể tính đếm mà biết được, chẳng phải là số lượng tính kể bằng con số mà tính đếm được. Các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế. Số chúng Thanh văn đã nhiều như thế thì số chúng Bồ-tát cũng nhiều như chúng Thanh văn, không thể dùng con số mà tính đếm được.

Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bậc A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được cùng ở một chỗ với các bậc thượng thiện nhơn. Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia đâu.

Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Cõi nước ấy đã thành tựu công đức quá nhiều như trên đã nói. Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bậc A-bệ-bạt-trí. A-bệ-bạt-trí là tiếng Phạn, dịch là Bất thối chuyển. Có ba thứ bất thối chuyển: Vị bất thối, Hạnh bất thối và Niệm bất thối.

Vị bất thối là không lui lại hàng Nhị thừa, cũng không từ Nhị thừa lui xuống hàng phàm phu.

Niệm bất thối là mỗi ngày càng tăng thêm ý niệm tu hành.

Hạnh bất thốitu hành mỗi ngày một tăng tiến thêm.

Tóm lại, chẳng cần biết tu hành được bao nhiêu ngày, hễ nghỉ một lần, nghỉ tức là thối lui. Bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là bất thối chuyển nơi Phật quả. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ, trong đó có rất nhiều chúng sanh chỉ một đời có thể bổ xứ ở ngôi vị Phật, có thể thành Phật. Một đời đến trong hoa sen, tức có thể thành Phật. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được. Số mục này có nói cũng không hết được số nhiều, chẳng phải là tính số thí dụ mà có thể biết được. Chỉ có số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói, chỉ có thể nói A-tăng-kỳ là có vô lượng vô biên vô lượng số mà thôi.

Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Này Xá-lợi-phất, tất cả chúng sanh nghe được đạo lýĐức Phật Thích Ca chúng ta đã nói, đều phải nên phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc. Tại sao thế? Vì được cùng ở một chỗ với các bậc thượng thiện nhơn. Đó là nguyên nhơn gì? Đạo lý gì? Tại vì có thể cùng với các chúng Thanh văn, Bồ-tát...đồng ở một chỗ với nhau. Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia. Này Xá-lợi-phất! Nói thì nói như thế, nhưng người không có căn lành, không có phước đức thì không cách nào sanh về thế giới Cực Lạc được. Phải là người có căn lành lớn, phước đức lớn, đời đời kiếp kiếp tu hành các Ba-la-mật, mới có thể sanh về thế giới Cực Lạc được. Không như thế thì không có cơ hội nào gặp được môn diệu pháp này, cho nên nói là "Không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia đâu."

Này Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sanh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước kia.

Này Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày... Xá-lợi-phất! Nếu có hàng thiện nam tín nữ tu Ngũ giới, Thập thiện, nghe được danh hiệu của Phật A Di Đà; chấp, như tay nắm chặt đồ vật không thả, ý nói niệm danh hiệu Phật A Di Đà không lơi lỏng biếng lười, hoặc một ngày, chữ hoặc, có thể đổi thành chữ khổ, là khó nhọc. Khó nhọc một ngày, khó nhọc hai ngày, khó nhọc ba ngày... rất là khổ cực, vì từ bảy giờ sáng đến chín giờ tối, khó nhọc đến bảy ngày, đạt đến mức độ nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung, người ấy chờ đến khi chết, Đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt, Đức Phật A Di Đà tưởng nhớ đến chúng sanh... "A, chúng sanhthế giới Ta-bà đang niệm danh hiệu ta, niệm đã được bảy ngày, cam chịu khó nhọc bảy ngày, ta nên đáp ứng và rước họ về cõi nước Cực Lạc, bây giờ đã đến giờ rồi, mau mau đi rước họ." Bấy giờ Đức Phật, Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh tịnh đại hải chúng Bồ-tát cùng đến và đều đưa tay rước người ấy về thế giới Cực Lạc, dù có muốn rút lui cũng không thể được. Người ấy khi lâm chung tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Bấy giờ tâm của người ấy dù có tư tưởng điên đảo, cũng không thể nói: "Tôi không muốn đi, nơi đó không có ý nghĩa gì." Người ấy không thể cự tuyệt lời mời gọi của Phật A Di Đà, tức khắc vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Này Xá-lợi-phất, ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Phật tiếp tục nói: "Này Xá-lợi-phất! Ta thấy những chỗ tốt đẹplợi ích như thế cho nên mới bảo ông." Nếu có chúng sanh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước kia. Giả sửchúng sanh nào ở thế giới Ta-bà nghe ta nói những lời như thế này, phải nên phát nguyện, thì nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc.

Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. — phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm" này.

Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, giống như tôi hiện đương khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, những việc lợi ích này chẳng phải chỉ một mình tôi khen, mà ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, tức là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, tức Bất Động Phật, cũng tức là Phật A Súc BệKim Cang bộ thuộc phương Đông, dịch là Pháp thân thường trú bất động. Pháp thân chẳng những bất động mà lại còn Thường trú nữa. Ý nói rằng trí Phật là bất động nhưng có thể động, giao cảm đến trí tánh sẵn có của chúng sanh.

Phật Tu Di Tướng, tướng Phật vi diệu như núi Tu Di. Tu Di dịch là Diệu Cao, là núi lớn ở giữa biển, do bốn báu hợp thành. Sáng rỡ thấu suốt gọi là Diệu, cao hơn các núi gọi là Cao.

Phật Đại Tu Di, ở trên nói tướng của Phật, đây nói về công đức của Phật. Diệu Cao là vua của các núi, dùng để so sánh với công đức bậc nhất của Phật.

Phật Tu Di Quang, ánh sáng là nói về trí của Phật, để nói lên trí của Phật cùng khắp.

Phật Diệu Âm, tứ biện, bát âm đều đầy đủ.

Giống như hằng hà sa số chư Phật, bên trên là nói các vị Phật tiêu biểu, nếu nói đầy đủ thì có đến hằng hà sa số các Đức Phật nhiều như vậy. Những Đức Phật ấy, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Lưỡi lớn như thế thì làm sao nói được? Trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới có nghĩa là Phật pháp lưu thông đến khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn này. Các Phật đều nói lời chân thật rằng chúng sanh các ngươi phải nên khen ngợi và tin nhận công đức không thể nghĩ bàn này, và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm, Kinh A Di Đà này cũng như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nếu có chúng sanh nào tụng trì kinh này thì tất cả chư Phật đều bảo: "Người ấy đến lúc mạng chung sẽ được chư Phật tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc."

Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này".

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong, chư Phật ở phương Đông khen ngợi Đức Phật A Di Đà rồi, bấy giờ lại nói đến chư Phật ở phương Nam. Phật nói: Này Xá-lợi-phất! — thế giới phương Nam cũng có rất nhiều Đức Phật dùng tướng lưỡi rộng dài mà thuyết pháp. Đó là những Đức Phật nào? „y là Phật Nhật Nguyệt Đăng, Nhất thiết trí là mặt nguyệt, Đạo chủng trí là mặt nhật, Nhất thiết chủng trí là đèn đăng, Phật Danh Văn Quang vì Danh xưng được nghe khắp cả pháp giới. Phật Đại Diệm Kiên, hai vai Đức Phật phát ra ánh sáng, Diệm biểu hiện cho đại huệ, Kiên (vai) gánh vác chúng sanh. Phật Tu Di Đăng tức Phật Diệu Cao Đăng; ánh sáng của thân vô lượng như núi Tu Di, và Phật Vô Lượng Tinh Tấn, Đức phật ngày đêm sáu thời thường tinh tấn; công phu không hổn tạp gọi là Tinh, không lui sụt gọi là Tấn, vì trong vô lượng kiếp công phu hành đạo, thành Phật, hóa độ vô lượng chúng sanh không ngừng nghỉ. Còn có vô lượng hằng hà sa số chư Phật như vậy ở các cõi nước phương Nam, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, nói Phật pháp trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói với tất cả chúng sanh những lời chân thật chí thành không hư dối như thế này: "Này chúng sanh các ngươi, ở thế giới này hoặc thế giới khác, ở cõi nước này hay cõi nước khác, trong vô lượng vô số cõi nước đều nên sanh ba thứ tâm: Tín tâm, Nguyện tâm và Hạnh tâm chân chánh để ca ngợi công đức không thể nghỉ bàn của Kinh này." Bộ Kinh A Di Đà này là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ai hỏi mà tự nói ra. Nếu quý vị tin nhận, ngợi khen và trì tụng Kinh này thì tất cả chư Phật sẽ đến hộ trì quý vị. Cho nên phải đặc biệt phát tâm ca tụng ngợi khen Đức Phật A Di ĐàKinh A Di Đà.

Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này".

Phật Thích Ca Mâu Ni nói về phương Đông xong, chư Phật ở phương Nam khen ngợi Phật A Di Đà rồi, lại nói ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, cũng tức là Phật A Di Đà. Nhưng các Đức Phật đồng tên rất nhiều, Phật Vô Lượng Thọ có thể là Phật A Di Đà. Vị đạo sư của thế giới Cực Lạc phương Tây cũng có thể là một vị Phật khác. Vì thế không nên chấp trước nhất định là phải, hoặc nhất định là không phải Phật A Di Đà. Phải cũng được mà không phải cũng được, không nên chấp trước. Trên sự thật không có một cái gì là phải, cũng không có một cái gì là không phải. Phật pháp vi diệu như thế đấy. Phải hay không đều là tâm phân biệt của mình thôi. Về phần chư Phật chỉ có một điều là không có tâm phân biệt. Không phân biệt, nhưng mỗi vị đều có pháp tướng trang nghiêm riêng, tuy mỗi Phật đều có pháp tướng trang nghiêm riêng nhưng không chướng ngại lẫn nhau. Không giống như chúng ta: "A, anh chơi xấu tôi à!" Phật không có như thế, Ngài là "anh chính là tôi, tôi cũng chính là anh", vì thế chứng được cảnh giới vô thượng thì phải trái đều như nhau. Như vậy có vi diệu hay không! Người ta nếu muốn thành Phật thì phải không có tâm phân biệt, cũng không có tâm vọng tưởng, không có mảy may nào tâm dục vọng, đó mới thiệt là vi diệu cực điểm. Vì thế mình không nên chấp trước. Như có thể biết đúng về Phật A Di Đà và Phật Vô Lượng Thọ, thì cũng không nên phân biệt, không nên để tâm thái quá về mặt này.

Phật Vô Lượng Tướng là vị Phật có vô lượng tướng. Phật có tám mươi bốn ngàn vi trần tướng hảo, tùy cơ hiển hiện. Phật Vô Lượng Tràng là Phật có vô lượng vô số tràng phan treo bên trên để che đỡ. Tràng là nghĩa cao hiển, nghĩa trừ tà hiển chánh, lại trong rỗng ngoài tròn, tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt rỗng lặng mà sáng suốt đầy đủ. Phật Đại Quang, ánh sáng Đức Phật này chiếu sáng khắp nơi. Phật Đại Minh, quang là thể, minh là dụng, có quang thì minh chiếu mười phương. Hai Phật (Đại QuangĐại Minh) đồng hiển lộ trí huệ to lớn. Công đức trí báu của Ngài, tướng sáng tròn đầy.

Phật Tịnh Quang, sự thanh tịnh quang minh của Ngài chiếu khắp chúng sanh. Nói cho cùng thì có hằng hà sa số quá nhiều Đức Phật. — phương Tây có rất nhiều Đức Phật, mỗi vị đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài. Lưỡi của chúng ta không cách gì che trùm một căn nhà, nhưng tướng lưỡi rộng lớn của Phật có thể che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Tại sao thế? Đối với Phật mà nói thì tam thiên đại thiên thế giới tức là một niệm, một niệm tức là tam thiên đại thiên thế giới. Dù là tam thiên đại thiên thế giới cũng không vượt ngoài một niệm; dù là một niệm cũng có thể trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới. Không nên chấp trước là Phật có lưỡi lớn như thế, lưỡi rộng dài là hiểu hiện pháp đến đâu thì tướng lưỡi Phật đến đó. Chúng ta cũng có thể hiện ra tướng lưỡi rộng dài được, như chúng ta đến chỗ nào giảng nói Phật pháp khiến cho Phật pháp lưu thông đến đó thì cũng là trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi nghe Phật pháp không nên chấp trước. Tuy lưỡi Phật có thể trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhưng ngay cả nhỏ như một hạt bụi cũng đều không có, kỳ thật căn bản không có cái gì cả. Như vậy hẳn là Phật nói láo ư? Nếu Phật không nói láo, thì làm sao chúng ta lại tin Ngài? Nói theo quan điểm chúng sanh thì hình như là hoang đường; nhưng đứng trên quan điểm của Phật thì là chân thật, chớ không phải vọng ngữ đâu. Chúng sanh xem đó là vọng ngữ mà Phật xem đó là lời chân thật. Cũng lời nói ấy mà Phật nói ra là chân thậtchúng sanh nói ra là vọng ngữ. Điều này chẳng dễ dàng giảng cho rõ được, nếu muốn hiểu rõ đạo lý này phải không sợ gian khổ, gắng sức khổ công đi! Đừng nghĩ rằng nghe được Phật pháp hai ngày rưỡi rồi cái gì cũng biết, Kinh cũng không tụng, Phật cũng không niệm. Không nên tự cho là đã tham thiền thì cái gì cũng không làm cả, lại còn nói: "Tôi rõ ý Phật, kỳ thật không có gì cả. Tôi đã học năm năm rồi, cũng chẳng qua là như thế. Vì vậy tôi không học nữa, bất cứ vấn đề gì tôi cũng không có gì nữa." Chúng ta nên biết rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu phước tu huệ đến ba A-tăng-kỳ kiếp; làm các việc bố thí để tu phước, và học tập Phật pháp để tu huệ. Ngài tu về tướng hảo, phải tu đến một trăm đại kiếp mới được ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp. Tại sao chúng ta ngay cả một tướng, một vẻ đẹp cũng không có? Tại sao người ta nhìn thấy bạn lại nói: "Nó xấu lắm, dang xa nó ra, nó không phải là người tốt, nhìn thấy nó là phát ghét rồi." Tại sao thế? Tại vì không tu hành cho nên không có đức hạnh, vì thế ai ai cũng đều không thích nhìn thấy bạn.

Lưỡi của Phật che khắp cả vũ trụ mà nói lời chân thật; Phật không dối gạt người, chẳng nên lấy tâm phàm mà đo lường trí thánh, lấy tâm của người phàm mà suy lường tâm của thánh nhân. Tôi đã từng một đôi lần nói với quý vị: "Hàng Bồ-tát Sơ địa không biết được cảnh giới của hàng Bồ-tát Nhị địa, Bồ-tát Thập địa không biết được cảnh giới của Bồt-tát Đẳng giác. Sơ quả A-la-hán không biết được Nhị quả A-la-hán; Nhị quả A-la-hán không biết được Tam quả A-la-hán. Sơ quả A-la-hán cho là việc mình làm là đúng, nhưng trên quan điểm của Nhị thừa A-la-hán thì thấy việc ấy là sai. Nhị quả A-la-hán cho việc mình làm là đúng, Tam quả A-la-hán nhìn thấy các vị ấy có ít nhiều sai trái. Tôi là Sư phụ quý vị, quý vị không rõ cảnh giới của tôi. Giả như quý vị biết rõ, thì chẳng cần đến Sư phụ nữa. Vì thế hãy suy nghĩ những điều tôi nói thử xem, chớ nên phàn nàn: "Ông ấy giảng quá nhiều!"

Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sao số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm này".

Chẳng những ở phương Đông, phương Nam, phương Tây chư Phật đều khen ngợi Đức Phật A Di Đà, mà ở phương Bắc cũng có rất nhiều Phật ngợi khen Đức Phật A Di Đà. Phương Bắc có Phật Diệm Kiên, vị Phật này phóng ra ánh sáng từ vai của Ngài. Phật Tối Thắng Âm, tiếng nói của vị Phật này rất thù thắng, có thể được nghe khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Bạn nói: "Tại sao tôi không nghe được gì cả?" Đó là vì bạn chưa ở trong tam thiên đại thiên thế giới của Ngài. Bạn đang ở trong thế giới này thì phải hòa đồng với thế giới này. Phật Nan Trở, Trở tức là phá hoại, giáo phápcông đức của Đức Phật này không ai có thể phá hoại được. Phật Nhật Sanh, nhật là chủ các tinh tú, nuôi dưỡng vạn vật, Phật là thầy của chúng sanh, khiến họ sanh trí huệ. Phật Võng Minh, lưới châu báu, ánh sáng của các hạt châu chiếu lẫn nhau, biểu thị ánh sáng trên thân Phật rực rỡ vô cùng. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói những lời thành thật này. Công đức vi diệu không thể nghĩ bàn này là vô lượng vô biên, cho nên chư Phật đều hộ niệm Kinh này. Do đó Kinh này được chư Phật hộ niệm, cho nên công đức của Kinh này không thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi-phất, thế giới phương dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này".

Đức Phật đã nói bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, các Đức Phật ở đó đều khen ngợi Phật A Di Đà rồi, lại bảo Xá-lợi-phất: — thế giới phương dưới có Phật Sư Tử, Đức Phật này thuyết pháp như Sư Tử rống. Phật Danh Văn, tên Phật trong ba đời đến đâu cũng được ca ngợi. Phật Danh Quang, Đức Phật này chẳng những tên Ngài vang lừng khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, mà ánh sáng của Ngài cũng chiếu suốt cả ba đời. Phật Đạt Ma, tức là Pháp Phật. Phật Pháp Tràng, Đức Phật lấy Pháp làm bảo tràng. Phật Trì Pháp, Đức Phật chuyên môn đem pháp phổ độ chúng sanh, cũng có thể nói bây giờ chúng ta chuyên môn niệm tụng, tu trì Kinh A Di Đà, tương lai có thể thành tựu Phật Trì Pháp. Cũng có thể nói, hiện giờ quý vị tụng Kinh này, tức là Phật Trì Pháp đấy. Mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm này."

Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này".

Phật lại bảo ngài Xá-lợi-phất: — thế giới phương trên có Phật Phạm Âm, thanh âm của Đức Phật này thanh tịnhrõ ràng. Phật Tú Vương, Đức Phật này vào thời quá khứ phát ra lời nguyện lớn và có lực mạnh. Phật Hương Thượng, Giới hương thanh tịnh đặng vô thượng diệu đế, một khi đốt hương thì Đức Phật này liền đến. Phật Hương Quang, Giới hương thanh tịnh, tức phát ánh sáng trí huệ, hướng về Đức Phật này dâng hương, Ngài bèn phóng quang. Phật Đại Diệm Kiên, thế giới phương Nam từng có Phật Đại Diệm Kiên, ở thế giới này lại có Phật Đại Diệm Kiên nữa, ánh sáng trên hai vai của vị Phật này là biểu thị cho hai trí Quyền và Thật. Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Đức Phật này dùng nhân hoa vạn hạnh để trang nghiêm quả đức vô thượng. Phật Ta La Thọ Vương, Ta La Thọ là cây Bồ-đề. Ta-la dịch là kiên cố; Vương có nghĩa là tự tại. Không có thứ nước nào thấm được vào cây này, để ví như Pháp thân của Phật không một vật nào phá hủy được. Phật Bảo Hoa Đức, Bảo Hoa, thanh tịnh mà sáng, biểu thị cho công đức của Phật viên mãn thanh tịnh. Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, năm nhãn thấy khắp, pháp nghĩa vô cùng. Phật Như Tu Di Sơn, núi rất cao lớn, Phật rất cùng khắp. Giống như như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: "Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này."

Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao gọi là "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm"? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi chư Phật ở các phương đông, tây, nam, bắc, trên, dưới rồi, lại bảo ngài Xá-lợi-phất: "Theo ý ông thì Kinh này sao gọi là Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm?" Xá-lợi-phất mở lớn mắt nhìn một hồi, đáp không được. Đức Phật chờ độ năm phút mới nói tiếp: "Ta nói cho ông biết, này Xá-lợi-phất, giả như có người thiện nam thiện nữ trì năm giới, tu thập thiện, có thể tu trì niệm tụng Kinh A Di Đà và không quên những danh hiệu của chư Phật đã nói ở trên, thì những thiện nam thiện nữ này cũng đều được chư Phật hộ trì. Người ấy liền được ba thứ bất thối là Trụ, Niệm, và Hạnh, lần lần đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận những lời ta nói, mọi người đều phải nên tin nhận lời ta nói và lời chư Phật nói. Chúng ta thấy Phật thật là từ bi quá mức! Chúng ta đều phải cảm động đến rơi lệ khi nghe Phật nói: "Chúng sanh các ngươi, bất luận là người lớn trẻ nhỏ đều phải nên tin tưởngtiếp nhận lời ta nói với các ngươi."

Quý vị cũng nên tin nhận lời tôi đang nói cho quý vị nghe đây mà không nên sanh lòng nghi ngờ, không nên nói: "Tôi không biết đạo lý mà vị pháp sư Trung Quốc này nói có đúng không?" Quý vị hãy nên tin những lời tôi nói. Quý vị chẳng những phải tin lời của Phật Thích Ca nói, cũng phải tin lời ngợi khen của chư Phật. Kinh này là khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn và được tất cả chư Phật hộ niệm. Cũng nên tin tôi hiện nói đạo lý của Kinh này là chân thật không giả dối, không phải lời gạt gẫm. Vì thế quý vị đều nên phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

Này Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. — nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Đức Phật Thích Ca lại kêu ngài Xá-lợi-phất: "Giả sử có người đã phát nguyện, đã phát nguyện trong quá khứ; đang phát nguyện, hiện tại đang phát nguyện; sẽ phát nguyện, chúng sanh vị lai phải nên phát nguyện. Người đã phát nguyệnquá khứ đã sanh về thế giới Cực Lạc; người đang phát nguyện, hiện tại cũng đang sanh về thế giới Cực Lạc; tương lai phát nguyện thì tương lai sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Nhưng khi phát nguyện trước phải có lòng tin. "Tín, Nguyện, Hạnh" là ba món tư lương của người tu theo pháp môn Tịnh độ. Thứ nhất là phải tin có thế giới Cực Lạc, thứ hai là phải tin có Đức Phật A Di Đà, thứ ba là phải tin ta và Đức Phật A Di Đà nhất địnhnhân duyên lớn, ta nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Có được ba niềm tin này rồi mới có thể phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, vì thế nói là "nguyện sanh về Tịnh độ ở phương Tây." Phát nguyện sanh về Tây phương Tịnh độ, chẳng phải có người ép buộc bảo ta đi, hay xô đẩy ta đi đâu! Tuy Đức Phật A Di Đà có thể tiếp dẫn ta, nhưng phải là ta tự đi mới được. Do đó phải phát nguyện thấy Phật A Di Đà, nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, thấy Phật nghe Pháp. Nếu có thể phát nguyện như thế, thì nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc.

Nguyện rồi thì mới có thể hành được, mà hành như thế nào? Chính là niệm Phật, niệm "Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật..." như cứu lửa cháy đầu, giống như có người muốn chặt đầu ta, trộm đầu ta vậy. Cũng giống như Đức Lục Tổ Đại sư biết có người muốn đến lấy trộm đầu mình sau khi ngài viên tịch, nên ngài dặn dò đồ đệ hãy bảo hộ đầu ngài. Đồ đệ ngài theo lời dặn, bèn dùng sắt bao đầu ngài lại, nên người đến trộm muốn chặt cũng chặt không đứt, vì đầu đã được bảo hộ rồi. Huống chi hạng phàm phu chúng ta khi còn sống lại không rấp rút "bảo hộ" cái đầu của mình sao? Vì thế nói tu hành chính là niệm Phật, niệm Phật chính là tu hành. "Tín, Hạnh, Nguyện" chính là lộ phí, tư lương vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Tư lương cũng chính là lộ phí, cũng như bây giờ gọi là traveller checks. Muốn làm một cuộc lữ hành đến thế giới Cực Lạc, trước hết phải có chi phiếu. Người muốn sanh về cõi nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được bất thối chuyển nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nếu người muốn vãng sanh về cõi nước Cực Lạc đều có thể được ba thứ bất thối, tức là Vị bất thối, Niệm bất thối và Hạnh bất thối; A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề cũng chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. — cõi nước kia, là ở thế giới Cực Lạc. Hoặc đã sanh, quá khứ đã phát nguyện, đã sanh về thế giới Cực Lạc; hoặc đang sanh, hiện tại phát nguyện, hiện tại đang sanh về thế giới Cực Lạc; hoặc sẽ sanh, tương lai phát nguyện, cũng nhất đinh sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Cho nên này Xá-lợi-phất, vì lý do ấy, nên này Xá-lợi-phất, các hàng thiện nam thiện nữ, cho nên tất cả thiện nam thiện nữ, nếu ai có lòng tin phải nên phát nguyện, giả như có những người tin theo lời nói của ta thì phải nên phát nguyện. Đây là lời quyết định, không nên chần chờ một chút nào. Nhứt định mình phải phát nguyện. Phát nguyện thì có thể sanh về cõi nước kia, sanh về thế giới Cực Lạc.

Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật kia cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế này: "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta-bà, trong đời ác năm trược: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này".

Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó. Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la... ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỷ tin nhận, lễ Phật mà lui ra.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo thêm ngài Xá-lợi-phất: "Ta lại cho ông biết một tin hay này; như ta hôm nay giống như ta bây giờ đang khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của bộ Kinh này, chư Phật ở sáu phương cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của bộ Kinh này; hơn nữa không phải chỉ riêng ta khen ngợi chư Phật, mà Chư Phật cũng lại khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta nữa. Các Ngài nói: "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm được những việc rất khó, ít có." Ngài thật là cao cả, Ngài thật là hiếm có, làm được những việc mà người ta không làm nổi, những việc khó khăn, ít có trên đời Ngài đều có thể làm được. Người đã nghe Kinh đều biết ý nghĩa của Thích Ca Mâu Ni; Thích CaNăng nhơn, Mâu NiTịch mặc. Năng nhơngiáo hóa tất cả chúng sanh. Tịch mặchồi quang phản chiếu tu một thứ định. Năng nhơn là động, Tịch mặc là tịnh, thường động thường tịnh, động tịnh không hai, đó gọi là tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, đã tùy duyên mà lại bất biến, đã bất biến mà lại tùy duyên. Ngài là "Vô vi mà vô bất vi, vô tácvô bất tác", vì thế Phật Thích Ca Mâu Ni là không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn ở chỗ nào? - Ngài hay ở cõi Ta-bà, Ta-bà là tiếng Phạn, dịch là Kham nhẫn. Kham năng nhẫn thọ được điều gì? Kham năng nhẫn thọ được những điều đau khổ. Bởi vì ở thế giới Ta-bà chỉ có khổ mà không có vui, nhưng chúng sanhthế giới này có tánh nhẫn nại rất to lớn, có thể nhẫn nại được các nỗi khổ ấy, ở cảnh giới khổ mà không biết là khổ, vì thế nên gọi thế giới Ta-bà là đời ác năm trược. Thế giới Ta-bà có năm thứ trược, ác thế thì rất xấu, mà Phật đã thành Phật được, tại sao chúng ta không thể thành Phật được ư? Nhân vì chúng ta bị đời ác ngũ trược này vây hãm. Ngũ trược này giống như bùn vậy, chúng ta rút chân này lên thì chân kia bị lún xuống, rốt cuộc không có cách nào rút chân ra khỏi đời ác ngũ trược được. Nhưng Đức Phật Thích Ca rất có bản lãnh, rất có thần thông, Ngài có thể bảo ta nhảy một cái là ra khỏi ngay. Do nhảy một cái mà được ra khỏi nên có câu: "Trong một sát-na lìa ngũ trược", trong một sát-na mà lìa được năm trược ác thế.

Sao gọi là ngũ trược?

1. Kiếp trược: Đó là thời gian ô trược. Sự ô trược thời gian do đâu mà có? Thời gian ấy, bốn trược kia càng ngày càng thêm, càng ngày càng dữ dội và lấy sự gia tăng của bốn trược kia làm bản thể của nó. Phải có sự giúp đỡ của bốn trược: Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược mới có thể biến thành Kiếp trược được. Cho nên Kiếp trược lấy sự gia tăng của bốn trược kia làm bản thể hừng hực mãi không ngừng làm tướng của nó, như lửa càng cháy càng bùng lên là tướng của nó.

2. Kiến trược: lấy năm lợi sử làm bản thể của nó. Năm lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủGiới cấm thủ. Kiến trược này lấy sự hiểu biết lầm lạc về sáu giác tri làm tướng, xưa nayđạo lý đúng thật nhưng nó lại tưởng là thiên lệch thành ra tà tri tà kiến, ấy gọi là biết lầm về sáu giác tri.

3. Phiền não trược: lấy năm độn sử làm bản thể của nó. Năm độn sử là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, lấy phiền não bức bách làm tướng.

4. Chúng sanh trược: Thứ trược này lấy ba duyên hòa hợp làm tự thể. Ba duyên là duyên cha, duyên mẹ và nghiệp duyên của chính mình. Lấy sự luân hồi không dứt làm tướng, có ba duyên hòa hợp rồi mới luân hồi không dứt, lặn đầu này trồi đầu kia, đời này họ Trương, đời sau họ Lý, hoặc đời này làm Tỳ-kheo-ni, đời sau làm Tỳ-kheo, rồi đời sau nữa làm Tỳ-kheo-ni nữa. Sau Tỳ-kheo-ni lại làm Tỳ-kheo nữa, thật là kỳ diệu biết bao! Như thế chuyển tới chuyển lui luân hồi không dứt.

5. Mạng trược: Mạng là sức nóng, hơi thở và thức. Lại có thuyết là tuổi thọ, sức nóng và thức làm thể, lấy sự rút mất tuổi thọ làm tướng. Từ nhỏ tới lớn, từ lớn tới già, từ già tới chết, đó là tướng của mạng.

Trên đây là Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trượcĐức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ở trong đời ác ngũ trược chứng được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nói cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính mình đã biết rõ, nói thứ pháp này là pháp rất ít người có thể tin được. Này Xá-lợi-phất, nên biết rằng; Này Xá-lợi-phất! Ông nên biết rằng: Ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó. Ta ở trong đời ác ngũ trược chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nói cho tất cả thế gian nghe thứ Phật pháp rất khó tin này. Thật là việc hết sức khó khăn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế, nhưng tôi (lời của Hòa Thượng) lại nói là rất dễ dàng. Tại sao thế? Chỉ cần niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật, cho nên rất là dễ dàng, đã không tốn tiền lại không tốn sức, tốn thời gian, vì thế tôi nói pháp môn này là một pháp môn dễ dàng quá sức.

Phật nói Kinh này rồi. Phật Thích Ca Mâu Ni nói bộ Kinh A Di Đà này rồi, ngài Đại trí Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, cùng tất cả người, trời, A-tu-la... A-tu-la này bao gồm các trời rồng tám bộ: Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la v.v... nghe Phật nói, nghe những lời Phật nói, đều hoan hỷ tin nhận, lễ Phật mà lui ra. Những người ấy đều vui sướng vô cùng, cúi đầu đảnh lễ tạ ơn Phật đã nói Kinh này để cứu độ chúng sanh. Quý vị xem! Các vị A-la-hán ấy đến cúi đầu đảnh lễ Phật để tạ ơn. Quý vị bây giờ nghe được giáo pháp này, đều là do ngày xưa có căn lành lớn, có nhơn duyên lớn với Phật A Di Đà nên mới có thể nghe được Kinh A Di Đàniệm Phật A Di Đà vậy.

Kinh Phật Thuyết A Di Đà 
Tác giả: HT Tuyên Hóa
Ấn tống: Bồ Đề Hải

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12501)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12380)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53062)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21399)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14383)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16848)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19570)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18655)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12318)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13842)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11944)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18424)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant