Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ-Tát Thừa

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11950)
Bồ-Tát Thừa

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

BỒ-TÁT THỪA

Bồ-tát thừa là đường tu hành của các vị Bồ-tát, nhằm tự giác, giác tha, đến giác hạnh viên mãnthành Phật Đạo.

Trong Thanh Văn thừaDuyên Giác thừa, đường lối tu hành của Phật dạy, đều dựa vào quy luật nhân quả sẵn có, trong diễn biến của sự sự vật vật, đường lối này chủ yếu nhận rõ nguyên nhân của luân hồi, tu tập diệt trừ những nguyên nhân ấy, để ra khỏi luân hồiđược giải thoát. Còn Bô-tát thừa, thì nhằm mục đích tự giácgiác tha, đi đến hạnh giác viên mãn.

Tự giácgiác ngộ bản lai tự tính của mình. Muốn giác ngộ được bản lai tự tính, thì điều cốt yếu là phải nhận rõ, thế nào là bản lai tự tánh.

Tất cả sự sự vật vật có danh, có tướng, có thể nhận biết được, thì đều gọi là pháp, và đều thuộc về một giới, gọi là pháp giới. Bản tánh của pháp giới, là các pháp duyên khởi ra nhau, một pháp duyên khởi ra tất cả các pháp, tất cả các pháp duyên khởi ra một pháp, cùng ba đời, khắp 10 phương, không thể tách rời một pháp nào với một pháp nào cả. Ví dụ, như hạt bụi là một vật có hình tướng, vật có hình tướng này, không thể riêng có một mình, và chỉ có được nhờ đối với những cái không có hình tướng. Những cái không có hình tướng đó, cũng phải nhờ đối với những cái có hình tướng khác mà thành, và những cái có hình tướng khác đó, lại cũng phải nhờ đối với những cái không có hình tướng khác mà thành, các pháp ảnh hưởng dây chuyền với nhau như thế, nên cái có của hạt bụi, là do tất cả các sự vật trong ba đời, mười phương duyên khởi ra các sự vật trong ba đời, mười phương. Nếu cái có hình tướng của hạt bụi không thành lập thì cái không có hình tướng cũng không thể thành lập và như thế, tất cả sự vật đều hóa thành không có tính cách gì. Cái tính của tất cả các pháp duyên khởi dây chuyền lẫn nhau, thì gọi gì tánh trùng trùng duyên khởi, tánh ấy là tánh của pháp giới, nên cũng được gọi là pháp giới tánh. Dựa vào pháp giới tánh này, tất cả các pháp tác động, ảnh hưởng, chi phối… nương tựa kết hợp, đối đãi lẫn nhau mà chuyển biến không ngừng, theo quy luật nhân quả, nên gọi pháp giới tánh là cơ sở, là then chốt của nhân quả,chỉ có thể diễn biến trong pháp giới tính mà thôi.

Tâm của chúng sanh là một pháp, trong vô lượng, vô số pháp. Đã là một pháp thì bản tánh của tâm chỉ có thể là pháp giới tánh. Vậy giác ngộ bản lai tự tánh, tức là giác ngộ pháp giới tánh của tự tâm.

Pháp giới tánh của tự tâm, cũng tức là pháp giới tánh của tất cả sự vật, của tất cả các pháp, không có gì sai khác. Do pháp giới tánh không có gì sai khác, nên gọi là như, do pháp giới tánh rõ thật là bản tính của các pháp, nên gọi là chân, vì thế nên pháp giới tánh, cũng gọi là tính chân như. Giác ngộ được tính chân như của tâm mình, thì gọi là tự giác.

Pháp giới tánhchân như, nhưng pháp giới tánh lại có khả năng duyên khởi ra mọi sự, mọi vật, duyên khởi ra thế giớichúng sinh trong mười phương, ba đời, có nhiều tướngsai khác, mặc dầu bản tánh vẫn là chân như, không có sai khác. Nếu chỉ nhận được cái tánh chung của các pháp là tánh chân như, thì còn chưa có nhận thức sâu sắc về pháp giới tánh, vì thế, các vị giác ngộ được bản lai tự tánh cần phải vận dụng pháp giới tánh trong nhiều trường hợp khác nhau, để thấy rõ cái dụng to lớn của pháp giới tánh, để thấy rõ pháp giới tánh duyên khởi ra các sự vật mà không hề thay đổi, pháp giới tánh tuy không hề thay đổi, mà có khả năng duyên khởi ra các sự vật. Vì thế, đi đôi với các công hạnh tự giác, các vị Bồ-tát còn tu tập những công hạnh giác tha, nghĩa là hiện ra nhiền thân trong các loài, để hóa độ chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

Cả trong lúc mới phát tâm tu học Bồ-tát thừa, các vị Bồ-tát cũng đã phát những đại nguyện phổ độ chúng sanh, vì chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn, thì công hạnh tự giác mới thật viên mãn, nghĩa là chứng được toàn thể toàn dụng của pháp giới tánh. Nếu khôngcông hạnh giác tha, thì chân như chỉ là cái chân như tương đối, cái chân như đối với cái không chân như, như chân như vô dụng, không thể là bản tánh chân như của pháp giới tánh.

Lại, cũng chỉ nhờ công hạnh giác tha, mới rõ được, thật tướng của pháp giới, thật tướng ấy, về phương diện tuyệt đốibất khả tư nghị, nghĩa là không thể nghĩ được, không thể nói được, mà về phương diện tương đối, thì lại có thể nghĩ được, có thể nói được. Thật tướng tương đối này rất phức tạp, vì một vật dù nhỏ đến đâu, cũng đối đãi hiện ra cái vũ trụ của mình và cái tướng của vật đó, cũng chuyển biến thao sự đối đãi của các vật khác. Chính vì thế, mà chúng sanh có cái thân nào, thì đồng thời có cái cảnh giới đối hiện với cái thân ấy, vì thế mà một sự vật nào cũng có những tướng đối hiện trong cảnh giới của tất cả sự vật khác. Về sự vật đối hiện lẫn nhau như thế, thì gọi là diện hữu. Do có đối đãi mà thành ra có, do đối với cái này thì hóa ra thế này, đối với cái khác thì hóa ra cái thế khác, như huyễn, như hóa, không có tự tánh, nên gọi là diện hữu. Chỉ khi nào thật hành trong diện hữu, mà hóa độ quần sanh, thì mới nhận rõ thật tướng của pháp giới, đi đến chẳng những nhận rõ cái không sai khác về thể tánh, mà còn nhận rõ cái không sai khác về sự tướng, đi đến nhập một với pháp giới tánhthành Phật đạo.

Những phương pháp tu hành để nhập một với pháp giới tánh rất nhiều, nay chỉ xin giới thiệu hai phương pháp là: Nhất tâm tam quánlục Ba-la-mật.

A. Nhất tâm tam quán

Tâm là tâm hay biết hiện tiền của chúng ta, tâm ấy là một pháp, nên bản tánh của tâm ấy, tức là pháp giới tánh. Pháp giới tánh chỉ là một, nên gọi là nhất tâm. Nhất tâm là một tuyệt đối chỉ có tâm tính, ngoài tâm tính ra, không còn có gì nữa, nói một cách khác là tất cả sự vật, dầu tâm, dầu cảnh, dầu sắc, dầu không, dầu mê, dầu ngộ, dầu Phật, dầu chúng sanh, đều chỉ là tâm tính. Trong tâm tính tuyệt đối ấy, thật tế không có cái gì không phải là tâm tính, nên cũng không còn đối với cái gì, mà gọi là tâm tính được nữa. Người tu hành nương theo đạo lý nhất tâm này, mà tu ba phép quán, nên gọi là Nhất tâm tam quán. Ba phép quán là Không quán, Giả quánTrung quán.

1. Không quán: Không quán là quán tất cả sự vật nghĩ bàn được, đều do sự chi phối của tâm phân biệt, ngoài tâm phân biệt ra thì cũng không thể có những sự vật nghĩ bàn được, như thế tất cả các sự vật nghĩ bàn được, nghĩa là tất cả các pháp, đều do tâm phân biệt biểu hiện như huyễn, không có tự tính. Lại cái tên phân biệt đó, ngoài các pháp bị phân biệt ra cũng không còn gì, do đó, chẳng những các pháp bị phân biệt và cả cái tâm phân biệt, đều không có tự tính. Không quán diệt trừ được tất cả các phân biệt và đem về vô phân biệt.

2. Giả quán: Giả quán là quán tất cả sự vật, tuy không có tự tính nhưng lại có thể đối đãi hiện ra nhiều tính sai khác, song tất cả những cái sai khác đó, chỉ là cái sai khác, trong bản tính không sai khác. Giả quánvô phân biệt, hiện raphân biệt, đồng thời quy nạp tất cả những cái có phân biệt, trở về bản tính vô phân biệt. Do giả quán này, người tu hành có thể theo sự phân biệt của chúng sanhlàm Phật sự, mà làm các công đức, nhưng vẫn không rời tánh vô phân biệt.

3. Trung quán: Trung quán là tất cả sự vật, phân biệt thì có, không phân biệt thì không, thật tế vẫn không thể nghĩ bàn được và vẫn ra ngoài cái có và cái không, cho đến ra ngoài tất cả các quan niệm đối đãi khác, lần lần đi đến bản tánh chân như, theo duyên mà không thay đổi, không thay đổi mà theo duyên, phát ra bình đẳng tánh trí, nhận tất cả mọi vật đều bình đẳng, cho đến Trung đạo và không Trung đạo cũng bình đẳng, bình đẳng và bất bình đẳng cũng bình đẳng, từ đó phát huy hiệu dụng của chân như, đi đến nhập một với pháp giới tánh, trên cùng với chư Phật đồng một từ lực, dưới cùng với chúng sanh đồng một bi ngưỡng, mà thật tế không thấy có sự sai khác giữa mình với người, giữa tâm với cảnh, giữa có và không, giữa mê và ngộ, giữa Phật và chúng sanh. Đó là chân pháp giới của chư Phật và của các vị pháp thân Bồ-tát.

 

B. Lục Ba-la-mật

Lục Ba-la-mật là sáu pháp đến bờ bên kia. Bờ bên này là vô minh, bờ bên kiatrí tuệ tự giác. Sáu phép Ba-la-mật là những phép tu hành, thuận theo trí tuệ tự giác, đi đến trí tuệ tự giác, ở trong trí tuệ tự giác, nên gọi là đến bến bờ kia. Sáu phép ấy là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền đinh và bát nhã Ba-la-mật.

1. Bố thí Ba-la-mật:

Bố thí là đem những cái mình có, mà giúp cho người. Khi đem tiền của mà giúp cho người, thì gọi là tài thí, khi đem chánh pháp mà dạy cho người, thì gọi là pháp thí, khi đem sức mình cứu giúp che chở cho người, thì gọi là vô úy thí, nghĩa là bố thí cái không sợ, khi người khác đang sợ hãi. Các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh không có xan tham mà tu hạnh bố thí. Trong lúc bố thí, các vị không rời bản tánh chân như, nên không thấy thật có mình bố thí, thật có người chịu bố thí, thật có sự bố thí, không thấy thật có quả báo bố thí và không mong cầu quả báo ấy, nên gọi là bố thí Ba-la-mật, khác với lối bố thí thông thường, còn phân biệt có mình, có người, có sự, có vật. Do các vị Bồ-tát thuận theo tâm tánh vô biênbố thí, nên phúc đức cũng vô lượng, vô biên.

2. Trì giới Ba-la-mật

Các vị Bồ-tát nhận xét bản tánh không có thuận trước, nên thuận theo bản tánh, tu hành phép trì giới Ba-la-mật. Giới có ba nhóm: Nhóm thứ nhất, là nhiếp luật nghi giới, cùng tất cả những luật nghi, giữ gìn một cách nghiêm túc, khi đã lãnh thọ, để hộ trì thân tâm được thanh tịnh, xa rời các ác nghiệp. Bồ-tát chấp trì luật nghi nơi tâm, làm cho tâm không vọng động, đi đến cả thân, và tâm đều yên lặng thông suốt, không còn những niệm bất thiệnmê lầm.

Nhóm thứ hai, là nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là cái giới buộc phải làm tất cả những điều kiện hữu lậuvô lậu, nói một cách khác là phải học làm tất cả những điều có lợi cho người và cho các loài hữu tình, đồng thời, phải có học tập và tu hành tất cả các pháp môn nhuận theo bản tánh thanh tịnh.

Nhóm thứ ba, là nhiêu ích hữu tình giới là cái giới buộc phải tìm mọi cách làm lợi cho các loài hữu tình, đặc biệt là làm cho các loài hữu tình hiểu biết và tin ngưỡng Phật pháp, dắt dẫn các loài hữu tình tu hành theo đạo giải thoát. Các vị Bồ-tát chú ý đặc biệt việc hóa độ chúng sanh, vì biết rõ tất cả những phước báo thế gian chỉ là tạm thời, duy có dắt dìu chúng sanh vào con đường giải thoát, thì mới phục vụ lợi ích lâu dài cho chúng sanh mà thôi.

Trong lúc trì giới các vị Bồ-tát không thấy thật có mình trì giới, không thấy thật có giới phải trì, không thấy thật có thiện, thật có ác, thật có hóa độ, thật có chúng sanh, nói một cách khác, không lúc nào rời bản tính chân như, nên gọi là trì giới Ba-la-mật.

3. Nhẫn nhục Ba-la-mật:

Nhẫn nhục Ba-la-mật, nếu phải dịch cho đúng thì phải dịch là nhẫn Ba-la-mật, vì nhẫn có nhiền hành tướng sai khác, chứ không phải là nhẫn nhục. Nhẫn gồm ba thứ là: An thọ khổ nhẫn, nghĩa là an tâm chịu các cảnh khổ, Nạn oán hại nhẫn, nghĩa là chịu đựng những sự ám hại của kẻ thù, và Đế sát pháp nhẫn, nghĩa là bền chí, quyết tâm quán sát chín chắn chân tánh của các pháp. Các vị Bô-tát thuận theo bản tánh chân như vốn không có giận ghét, không có chấp nệ mà tu hành nhẫn Ba-la-mật. Chẳng những đối với những nghịch cảnh, có hại cho mình, Bồ-tát không sanh lòng giận ghét, mà đối với những thuận cảnh, có lợi cho mình, Bồ-tát cũng ko sanh lòng ham trước, Bồ-tát còn đi ngược lại những thói quen mê lầm nhiều đời nhiều kiếp, kiên quyết không nhận thật có ngã, thật có pháp, mặc dầu sự thúc dục của những thói quen đó. Do tâm cương quyết ấy, Bồ-tát luôn luôn huân tập tự tâm bằng những chánh niệm vô ngã, vô pháp, đi đến thật chứng vô sinh nhẫnvô pháp nhẫn. Trong lúc tu hành nhẫn Ba-la-mật, các vị Bồ-tát không thấy thật có mình tu hành, thật có nhẫn phải tu, thật có đạo quả phải chứng, không hề rời bản tánh chân như, nên gọi là nhẫn Ba-la-mật.

4. Tinh tấn Ba-la-mật

Các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh không có lười biếng, mà tu hành tinh tấn Ba-la-mật. Do các vị Bồ-tát thật biết sẵn có tâm tính thanh tịnh sáng suốt như Phật không khác, nên phát tâm cương quyết tu tập phát hiện tánh ấy, luôn luôn tiến mãi trên con đường Bồ-đề, nên gọi là tinh tấn. Như thế, tinh tấn không phải là cái siêng năng tu tiến trên con đường tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn. Tinh tấn bao gồm tất cả các Ba-la-mật, nó có tác dụng thúc đẩy tu tiến thêm mãi, không tự mãn với những pháp đã thực hiện được. Trong lúc tinh tấn, các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh chân như, không thấy thật có pháp phải tu, không thấy thật có việc phải làm, không thấy thật có đạo quả phải chứng, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật.

5. Thiền định Ba-la-mật

Thiền định dịch là tịnh lự, có cả tịnh và lự, nghĩa là có cả sự yên lặng và sự suy nghĩ, mới gọi là thiền định. Trong các kinh, thường cắt nghĩa thiền định là “tâm nhất cảnh tính”. Tâm nhất cảnh tính có rất nhiều nghĩa: hàng sơ tâm tu tập thiền định, chuyên tâm về một cảnh, thì chỉ được tâm nhất cảnh, chứ chưa được tâm nhất cảnh tính. Các vị tu tập thiền định, quán tất cả các cảnh đều đồng một tính, như tính chân không, tính như huyễn v.v. thì bắt đầu được gọi là tâm nhất cảnh tính, vì tâm chỉ duyên với một tính của cảnh mà thôi. Nhưng tâm năng quán và cảnh sở quán không thể tách rời nhau, năng với sở là một, tâm với cảnh không hai, nên chỉ khi nào, đi đến tri và lý hợp nhất, năng và sở đồng một thể tính, thì mới thật được tâm nhất cảnh tính. Các vị Bồ-tát tu thiền định, nhưng vẫn thuận theo bản tánh chân như, không thấy thật có thiền định phải tu, không thấy thật có đạo quả phải chứng, nên gọi là thiền định Ba-la-mật.

6. Bát nhã Ba-la-mật

Bát nhã, thường dịch là trí tuệ, do trí tuệ ấy, phát hiện ra bản tánh chân như, không được một cái gì, nên cũng gọi là không tuệ. Bồ-tát thuận theo bản tánh không có si mêtu hành trí tuệ Ba-la-mật. Trí tuệ là cái tâm sở biết lựa chọn giữa chân và vọng, giữa thật và giả, phân tích ra thì có văn tuệ, tư tuệ, và tu tuệ.

Văn tuệ: Là khi nghe Phật pháp, hiểu rõ ý nghĩa, bắt đầu quan niệm được bản tánh thanh tịnh sáng suốt của mình, do đó phát lòng tin chắc chắn đối với Phật pháp.

Tư tuệ: Là nương theo Chánh pháp đã nghe được, tự mình suy xét nơi cảnh hiện tiền, đi đến giác ngộ được bản lai tự tánh của mình không có sai lầm.

Tu tuệ: Là nương theo cái trí tuệ, bắt đầu trực nhận bản tánhchân như mà tu tập gột rửa những thói quen mê lầm từ nhiều kiếp để lại, đi đến duy có một tâm chân như, phát ra cái diệu dụng của chân như, đầu đủ vô lượng, vô biên công đức và nhập một mới pháp giới tánh.

Trí tuệ bát-nhã của các vị Bồ-tát phá tan tất cả những chấp kiến mê lầm, chấp có thật ngã, thật pháp, thuần một Trung đạo, không còn một sự đối đãi gì, tuyệt nhiên không có sự phân biệt về người, về mình, về tâm, về cảnh, về thời gian, về thường, về đoạn, về có, về không, về trung gian hay không phải trung gian, về lý, về sự, nên gọi là bát nhã Ba-la-mật.

Các vị Bồ-tát vận dụng bát nhã Ba-la-mật mà hóa độ chúng sanh, mà đầy đủ bốn đức từ, bi, hỷ, xả. Từ là yêu mến chúng sanh, cho chúng sanhcác điều vui, Bi là thương xót chúng sanh, cứu chúng sanh khỏi điều khổ, Hỉ là vui mừng khi được gặp gỡ thân cận chúng sanh, vì đó là dịp kết duyênhóa độ, Xả là nhận rõ mọi sự mọi vật đều là những tướng sai khác của bản tánh không sai khác, nên tuy làm nhiều Phật sự, rất nhiều công đức, nhưng vẫn không thấy có ai làm, có làm cái gì và có làm cho ai, vẫn không có một cái gì cả. Vì bản tánhchân như, ra ngoài các sự đối đãi.

Trong sáu phép Ba-la-mật, bố thí, trì giớinhẫn nhục thuộc về phần giới, thiền định thuộc về phần định, và bát nhã thuộc phần tuệ, tinh tấn thì bao gồm tất cả. Giới, định, tuệ là ba phép vô lậu học, mà tất cả các đệ tử Phật đều phải tu trì. Có trì giới được nghiêm túc, thì tâm mới yên lặng và dễ tu thiền định, có tu thiền định thì mới phát ra trí tuệđược giải thoát. Bồ-tát tu sáu phép Ba-la-mật, thì tăng thêm tư lương ấy mà chứng được những đạo quả trên đường Bồ-đề.

Muốn tu theo Bồ-tát thừa, trước hết cần phải phát Bồ-đề tâm, thì cần phải học hỏi Phật pháp, suy xét nghĩa lý để mường tượng bản lai tự tánh là như thế nào. Nếu không nhận được bản tánh chân nhưduy nhất, mình và chúng sanhđồng thể, tâm Phậtchúng sanhbình đẳng, không có sai khác, thì không thể phát Bồ-đề tâm được. Vì thế, việc học hỏi Phật pháp là rất cần thiết cho những người tu theo đạo Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12460)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10107)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11135)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11887)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12565)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12572)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12177)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10810)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13412)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12667)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14396)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9767)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11057)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12096)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12124)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19536)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24422)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10595)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant