Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ-Tát Thừa

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12059)
Bồ-Tát Thừa

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

BỒ-TÁT THỪA

Bồ-tát thừa là đường tu hành của các vị Bồ-tát, nhằm tự giác, giác tha, đến giác hạnh viên mãnthành Phật Đạo.

Trong Thanh Văn thừaDuyên Giác thừa, đường lối tu hành của Phật dạy, đều dựa vào quy luật nhân quả sẵn có, trong diễn biến của sự sự vật vật, đường lối này chủ yếu nhận rõ nguyên nhân của luân hồi, tu tập diệt trừ những nguyên nhân ấy, để ra khỏi luân hồiđược giải thoát. Còn Bô-tát thừa, thì nhằm mục đích tự giácgiác tha, đi đến hạnh giác viên mãn.

Tự giácgiác ngộ bản lai tự tính của mình. Muốn giác ngộ được bản lai tự tính, thì điều cốt yếu là phải nhận rõ, thế nào là bản lai tự tánh.

Tất cả sự sự vật vật có danh, có tướng, có thể nhận biết được, thì đều gọi là pháp, và đều thuộc về một giới, gọi là pháp giới. Bản tánh của pháp giới, là các pháp duyên khởi ra nhau, một pháp duyên khởi ra tất cả các pháp, tất cả các pháp duyên khởi ra một pháp, cùng ba đời, khắp 10 phương, không thể tách rời một pháp nào với một pháp nào cả. Ví dụ, như hạt bụi là một vật có hình tướng, vật có hình tướng này, không thể riêng có một mình, và chỉ có được nhờ đối với những cái không có hình tướng. Những cái không có hình tướng đó, cũng phải nhờ đối với những cái có hình tướng khác mà thành, và những cái có hình tướng khác đó, lại cũng phải nhờ đối với những cái không có hình tướng khác mà thành, các pháp ảnh hưởng dây chuyền với nhau như thế, nên cái có của hạt bụi, là do tất cả các sự vật trong ba đời, mười phương duyên khởi ra các sự vật trong ba đời, mười phương. Nếu cái có hình tướng của hạt bụi không thành lập thì cái không có hình tướng cũng không thể thành lập và như thế, tất cả sự vật đều hóa thành không có tính cách gì. Cái tính của tất cả các pháp duyên khởi dây chuyền lẫn nhau, thì gọi gì tánh trùng trùng duyên khởi, tánh ấy là tánh của pháp giới, nên cũng được gọi là pháp giới tánh. Dựa vào pháp giới tánh này, tất cả các pháp tác động, ảnh hưởng, chi phối… nương tựa kết hợp, đối đãi lẫn nhau mà chuyển biến không ngừng, theo quy luật nhân quả, nên gọi pháp giới tánh là cơ sở, là then chốt của nhân quả,chỉ có thể diễn biến trong pháp giới tính mà thôi.

Tâm của chúng sanh là một pháp, trong vô lượng, vô số pháp. Đã là một pháp thì bản tánh của tâm chỉ có thể là pháp giới tánh. Vậy giác ngộ bản lai tự tánh, tức là giác ngộ pháp giới tánh của tự tâm.

Pháp giới tánh của tự tâm, cũng tức là pháp giới tánh của tất cả sự vật, của tất cả các pháp, không có gì sai khác. Do pháp giới tánh không có gì sai khác, nên gọi là như, do pháp giới tánh rõ thật là bản tính của các pháp, nên gọi là chân, vì thế nên pháp giới tánh, cũng gọi là tính chân như. Giác ngộ được tính chân như của tâm mình, thì gọi là tự giác.

Pháp giới tánhchân như, nhưng pháp giới tánh lại có khả năng duyên khởi ra mọi sự, mọi vật, duyên khởi ra thế giớichúng sinh trong mười phương, ba đời, có nhiều tướngsai khác, mặc dầu bản tánh vẫn là chân như, không có sai khác. Nếu chỉ nhận được cái tánh chung của các pháp là tánh chân như, thì còn chưa có nhận thức sâu sắc về pháp giới tánh, vì thế, các vị giác ngộ được bản lai tự tánh cần phải vận dụng pháp giới tánh trong nhiều trường hợp khác nhau, để thấy rõ cái dụng to lớn của pháp giới tánh, để thấy rõ pháp giới tánh duyên khởi ra các sự vật mà không hề thay đổi, pháp giới tánh tuy không hề thay đổi, mà có khả năng duyên khởi ra các sự vật. Vì thế, đi đôi với các công hạnh tự giác, các vị Bồ-tát còn tu tập những công hạnh giác tha, nghĩa là hiện ra nhiền thân trong các loài, để hóa độ chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

Cả trong lúc mới phát tâm tu học Bồ-tát thừa, các vị Bồ-tát cũng đã phát những đại nguyện phổ độ chúng sanh, vì chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn, thì công hạnh tự giác mới thật viên mãn, nghĩa là chứng được toàn thể toàn dụng của pháp giới tánh. Nếu khôngcông hạnh giác tha, thì chân như chỉ là cái chân như tương đối, cái chân như đối với cái không chân như, như chân như vô dụng, không thể là bản tánh chân như của pháp giới tánh.

Lại, cũng chỉ nhờ công hạnh giác tha, mới rõ được, thật tướng của pháp giới, thật tướng ấy, về phương diện tuyệt đốibất khả tư nghị, nghĩa là không thể nghĩ được, không thể nói được, mà về phương diện tương đối, thì lại có thể nghĩ được, có thể nói được. Thật tướng tương đối này rất phức tạp, vì một vật dù nhỏ đến đâu, cũng đối đãi hiện ra cái vũ trụ của mình và cái tướng của vật đó, cũng chuyển biến thao sự đối đãi của các vật khác. Chính vì thế, mà chúng sanh có cái thân nào, thì đồng thời có cái cảnh giới đối hiện với cái thân ấy, vì thế mà một sự vật nào cũng có những tướng đối hiện trong cảnh giới của tất cả sự vật khác. Về sự vật đối hiện lẫn nhau như thế, thì gọi là diện hữu. Do có đối đãi mà thành ra có, do đối với cái này thì hóa ra thế này, đối với cái khác thì hóa ra cái thế khác, như huyễn, như hóa, không có tự tánh, nên gọi là diện hữu. Chỉ khi nào thật hành trong diện hữu, mà hóa độ quần sanh, thì mới nhận rõ thật tướng của pháp giới, đi đến chẳng những nhận rõ cái không sai khác về thể tánh, mà còn nhận rõ cái không sai khác về sự tướng, đi đến nhập một với pháp giới tánhthành Phật đạo.

Những phương pháp tu hành để nhập một với pháp giới tánh rất nhiều, nay chỉ xin giới thiệu hai phương pháp là: Nhất tâm tam quánlục Ba-la-mật.

A. Nhất tâm tam quán

Tâm là tâm hay biết hiện tiền của chúng ta, tâm ấy là một pháp, nên bản tánh của tâm ấy, tức là pháp giới tánh. Pháp giới tánh chỉ là một, nên gọi là nhất tâm. Nhất tâm là một tuyệt đối chỉ có tâm tính, ngoài tâm tính ra, không còn có gì nữa, nói một cách khác là tất cả sự vật, dầu tâm, dầu cảnh, dầu sắc, dầu không, dầu mê, dầu ngộ, dầu Phật, dầu chúng sanh, đều chỉ là tâm tính. Trong tâm tính tuyệt đối ấy, thật tế không có cái gì không phải là tâm tính, nên cũng không còn đối với cái gì, mà gọi là tâm tính được nữa. Người tu hành nương theo đạo lý nhất tâm này, mà tu ba phép quán, nên gọi là Nhất tâm tam quán. Ba phép quán là Không quán, Giả quánTrung quán.

1. Không quán: Không quán là quán tất cả sự vật nghĩ bàn được, đều do sự chi phối của tâm phân biệt, ngoài tâm phân biệt ra thì cũng không thể có những sự vật nghĩ bàn được, như thế tất cả các sự vật nghĩ bàn được, nghĩa là tất cả các pháp, đều do tâm phân biệt biểu hiện như huyễn, không có tự tính. Lại cái tên phân biệt đó, ngoài các pháp bị phân biệt ra cũng không còn gì, do đó, chẳng những các pháp bị phân biệt và cả cái tâm phân biệt, đều không có tự tính. Không quán diệt trừ được tất cả các phân biệt và đem về vô phân biệt.

2. Giả quán: Giả quán là quán tất cả sự vật, tuy không có tự tính nhưng lại có thể đối đãi hiện ra nhiều tính sai khác, song tất cả những cái sai khác đó, chỉ là cái sai khác, trong bản tính không sai khác. Giả quánvô phân biệt, hiện raphân biệt, đồng thời quy nạp tất cả những cái có phân biệt, trở về bản tính vô phân biệt. Do giả quán này, người tu hành có thể theo sự phân biệt của chúng sanhlàm Phật sự, mà làm các công đức, nhưng vẫn không rời tánh vô phân biệt.

3. Trung quán: Trung quán là tất cả sự vật, phân biệt thì có, không phân biệt thì không, thật tế vẫn không thể nghĩ bàn được và vẫn ra ngoài cái có và cái không, cho đến ra ngoài tất cả các quan niệm đối đãi khác, lần lần đi đến bản tánh chân như, theo duyên mà không thay đổi, không thay đổi mà theo duyên, phát ra bình đẳng tánh trí, nhận tất cả mọi vật đều bình đẳng, cho đến Trung đạo và không Trung đạo cũng bình đẳng, bình đẳng và bất bình đẳng cũng bình đẳng, từ đó phát huy hiệu dụng của chân như, đi đến nhập một với pháp giới tánh, trên cùng với chư Phật đồng một từ lực, dưới cùng với chúng sanh đồng một bi ngưỡng, mà thật tế không thấy có sự sai khác giữa mình với người, giữa tâm với cảnh, giữa có và không, giữa mê và ngộ, giữa Phật và chúng sanh. Đó là chân pháp giới của chư Phật và của các vị pháp thân Bồ-tát.

 

B. Lục Ba-la-mật

Lục Ba-la-mật là sáu pháp đến bờ bên kia. Bờ bên này là vô minh, bờ bên kiatrí tuệ tự giác. Sáu phép Ba-la-mật là những phép tu hành, thuận theo trí tuệ tự giác, đi đến trí tuệ tự giác, ở trong trí tuệ tự giác, nên gọi là đến bến bờ kia. Sáu phép ấy là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền đinh và bát nhã Ba-la-mật.

1. Bố thí Ba-la-mật:

Bố thí là đem những cái mình có, mà giúp cho người. Khi đem tiền của mà giúp cho người, thì gọi là tài thí, khi đem chánh pháp mà dạy cho người, thì gọi là pháp thí, khi đem sức mình cứu giúp che chở cho người, thì gọi là vô úy thí, nghĩa là bố thí cái không sợ, khi người khác đang sợ hãi. Các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh không có xan tham mà tu hạnh bố thí. Trong lúc bố thí, các vị không rời bản tánh chân như, nên không thấy thật có mình bố thí, thật có người chịu bố thí, thật có sự bố thí, không thấy thật có quả báo bố thí và không mong cầu quả báo ấy, nên gọi là bố thí Ba-la-mật, khác với lối bố thí thông thường, còn phân biệt có mình, có người, có sự, có vật. Do các vị Bồ-tát thuận theo tâm tánh vô biênbố thí, nên phúc đức cũng vô lượng, vô biên.

2. Trì giới Ba-la-mật

Các vị Bồ-tát nhận xét bản tánh không có thuận trước, nên thuận theo bản tánh, tu hành phép trì giới Ba-la-mật. Giới có ba nhóm: Nhóm thứ nhất, là nhiếp luật nghi giới, cùng tất cả những luật nghi, giữ gìn một cách nghiêm túc, khi đã lãnh thọ, để hộ trì thân tâm được thanh tịnh, xa rời các ác nghiệp. Bồ-tát chấp trì luật nghi nơi tâm, làm cho tâm không vọng động, đi đến cả thân, và tâm đều yên lặng thông suốt, không còn những niệm bất thiệnmê lầm.

Nhóm thứ hai, là nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là cái giới buộc phải làm tất cả những điều kiện hữu lậuvô lậu, nói một cách khác là phải học làm tất cả những điều có lợi cho người và cho các loài hữu tình, đồng thời, phải có học tập và tu hành tất cả các pháp môn nhuận theo bản tánh thanh tịnh.

Nhóm thứ ba, là nhiêu ích hữu tình giới là cái giới buộc phải tìm mọi cách làm lợi cho các loài hữu tình, đặc biệt là làm cho các loài hữu tình hiểu biết và tin ngưỡng Phật pháp, dắt dẫn các loài hữu tình tu hành theo đạo giải thoát. Các vị Bồ-tát chú ý đặc biệt việc hóa độ chúng sanh, vì biết rõ tất cả những phước báo thế gian chỉ là tạm thời, duy có dắt dìu chúng sanh vào con đường giải thoát, thì mới phục vụ lợi ích lâu dài cho chúng sanh mà thôi.

Trong lúc trì giới các vị Bồ-tát không thấy thật có mình trì giới, không thấy thật có giới phải trì, không thấy thật có thiện, thật có ác, thật có hóa độ, thật có chúng sanh, nói một cách khác, không lúc nào rời bản tính chân như, nên gọi là trì giới Ba-la-mật.

3. Nhẫn nhục Ba-la-mật:

Nhẫn nhục Ba-la-mật, nếu phải dịch cho đúng thì phải dịch là nhẫn Ba-la-mật, vì nhẫn có nhiền hành tướng sai khác, chứ không phải là nhẫn nhục. Nhẫn gồm ba thứ là: An thọ khổ nhẫn, nghĩa là an tâm chịu các cảnh khổ, Nạn oán hại nhẫn, nghĩa là chịu đựng những sự ám hại của kẻ thù, và Đế sát pháp nhẫn, nghĩa là bền chí, quyết tâm quán sát chín chắn chân tánh của các pháp. Các vị Bô-tát thuận theo bản tánh chân như vốn không có giận ghét, không có chấp nệ mà tu hành nhẫn Ba-la-mật. Chẳng những đối với những nghịch cảnh, có hại cho mình, Bồ-tát không sanh lòng giận ghét, mà đối với những thuận cảnh, có lợi cho mình, Bồ-tát cũng ko sanh lòng ham trước, Bồ-tát còn đi ngược lại những thói quen mê lầm nhiều đời nhiều kiếp, kiên quyết không nhận thật có ngã, thật có pháp, mặc dầu sự thúc dục của những thói quen đó. Do tâm cương quyết ấy, Bồ-tát luôn luôn huân tập tự tâm bằng những chánh niệm vô ngã, vô pháp, đi đến thật chứng vô sinh nhẫnvô pháp nhẫn. Trong lúc tu hành nhẫn Ba-la-mật, các vị Bồ-tát không thấy thật có mình tu hành, thật có nhẫn phải tu, thật có đạo quả phải chứng, không hề rời bản tánh chân như, nên gọi là nhẫn Ba-la-mật.

4. Tinh tấn Ba-la-mật

Các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh không có lười biếng, mà tu hành tinh tấn Ba-la-mật. Do các vị Bồ-tát thật biết sẵn có tâm tính thanh tịnh sáng suốt như Phật không khác, nên phát tâm cương quyết tu tập phát hiện tánh ấy, luôn luôn tiến mãi trên con đường Bồ-đề, nên gọi là tinh tấn. Như thế, tinh tấn không phải là cái siêng năng tu tiến trên con đường tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn. Tinh tấn bao gồm tất cả các Ba-la-mật, nó có tác dụng thúc đẩy tu tiến thêm mãi, không tự mãn với những pháp đã thực hiện được. Trong lúc tinh tấn, các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh chân như, không thấy thật có pháp phải tu, không thấy thật có việc phải làm, không thấy thật có đạo quả phải chứng, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật.

5. Thiền định Ba-la-mật

Thiền định dịch là tịnh lự, có cả tịnh và lự, nghĩa là có cả sự yên lặng và sự suy nghĩ, mới gọi là thiền định. Trong các kinh, thường cắt nghĩa thiền định là “tâm nhất cảnh tính”. Tâm nhất cảnh tính có rất nhiều nghĩa: hàng sơ tâm tu tập thiền định, chuyên tâm về một cảnh, thì chỉ được tâm nhất cảnh, chứ chưa được tâm nhất cảnh tính. Các vị tu tập thiền định, quán tất cả các cảnh đều đồng một tính, như tính chân không, tính như huyễn v.v. thì bắt đầu được gọi là tâm nhất cảnh tính, vì tâm chỉ duyên với một tính của cảnh mà thôi. Nhưng tâm năng quán và cảnh sở quán không thể tách rời nhau, năng với sở là một, tâm với cảnh không hai, nên chỉ khi nào, đi đến tri và lý hợp nhất, năng và sở đồng một thể tính, thì mới thật được tâm nhất cảnh tính. Các vị Bồ-tát tu thiền định, nhưng vẫn thuận theo bản tánh chân như, không thấy thật có thiền định phải tu, không thấy thật có đạo quả phải chứng, nên gọi là thiền định Ba-la-mật.

6. Bát nhã Ba-la-mật

Bát nhã, thường dịch là trí tuệ, do trí tuệ ấy, phát hiện ra bản tánh chân như, không được một cái gì, nên cũng gọi là không tuệ. Bồ-tát thuận theo bản tánh không có si mêtu hành trí tuệ Ba-la-mật. Trí tuệ là cái tâm sở biết lựa chọn giữa chân và vọng, giữa thật và giả, phân tích ra thì có văn tuệ, tư tuệ, và tu tuệ.

Văn tuệ: Là khi nghe Phật pháp, hiểu rõ ý nghĩa, bắt đầu quan niệm được bản tánh thanh tịnh sáng suốt của mình, do đó phát lòng tin chắc chắn đối với Phật pháp.

Tư tuệ: Là nương theo Chánh pháp đã nghe được, tự mình suy xét nơi cảnh hiện tiền, đi đến giác ngộ được bản lai tự tánh của mình không có sai lầm.

Tu tuệ: Là nương theo cái trí tuệ, bắt đầu trực nhận bản tánhchân như mà tu tập gột rửa những thói quen mê lầm từ nhiều kiếp để lại, đi đến duy có một tâm chân như, phát ra cái diệu dụng của chân như, đầu đủ vô lượng, vô biên công đức và nhập một mới pháp giới tánh.

Trí tuệ bát-nhã của các vị Bồ-tát phá tan tất cả những chấp kiến mê lầm, chấp có thật ngã, thật pháp, thuần một Trung đạo, không còn một sự đối đãi gì, tuyệt nhiên không có sự phân biệt về người, về mình, về tâm, về cảnh, về thời gian, về thường, về đoạn, về có, về không, về trung gian hay không phải trung gian, về lý, về sự, nên gọi là bát nhã Ba-la-mật.

Các vị Bồ-tát vận dụng bát nhã Ba-la-mật mà hóa độ chúng sanh, mà đầy đủ bốn đức từ, bi, hỷ, xả. Từ là yêu mến chúng sanh, cho chúng sanhcác điều vui, Bi là thương xót chúng sanh, cứu chúng sanh khỏi điều khổ, Hỉ là vui mừng khi được gặp gỡ thân cận chúng sanh, vì đó là dịp kết duyênhóa độ, Xả là nhận rõ mọi sự mọi vật đều là những tướng sai khác của bản tánh không sai khác, nên tuy làm nhiều Phật sự, rất nhiều công đức, nhưng vẫn không thấy có ai làm, có làm cái gì và có làm cho ai, vẫn không có một cái gì cả. Vì bản tánhchân như, ra ngoài các sự đối đãi.

Trong sáu phép Ba-la-mật, bố thí, trì giớinhẫn nhục thuộc về phần giới, thiền định thuộc về phần định, và bát nhã thuộc phần tuệ, tinh tấn thì bao gồm tất cả. Giới, định, tuệ là ba phép vô lậu học, mà tất cả các đệ tử Phật đều phải tu trì. Có trì giới được nghiêm túc, thì tâm mới yên lặng và dễ tu thiền định, có tu thiền định thì mới phát ra trí tuệđược giải thoát. Bồ-tát tu sáu phép Ba-la-mật, thì tăng thêm tư lương ấy mà chứng được những đạo quả trên đường Bồ-đề.

Muốn tu theo Bồ-tát thừa, trước hết cần phải phát Bồ-đề tâm, thì cần phải học hỏi Phật pháp, suy xét nghĩa lý để mường tượng bản lai tự tánh là như thế nào. Nếu không nhận được bản tánh chân nhưduy nhất, mình và chúng sanhđồng thể, tâm Phậtchúng sanhbình đẳng, không có sai khác, thì không thể phát Bồ-đề tâm được. Vì thế, việc học hỏi Phật pháp là rất cần thiết cho những người tu theo đạo Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10384)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11651)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28812)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12055)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13012)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11447)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17448)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35492)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12409)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16092)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17588)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13134)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12538)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11613)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11619)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20488)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12321)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13866)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15032)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15527)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17199)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14983)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20210)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14627)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13846)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11712)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14561)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11659)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16890)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11948)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11506)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15858)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12892)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18922)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18428)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant