Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Phẩm Ðệ tử

12 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9420)
03. Phẩm Ðệ tử


DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán
Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
Từ Ân Thiền Ðường Santa Ana, Hoa Kỳ Xuất Bản 1991

 

Phẩm Ðệ Tử Thứ Ba

Lúc bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật nghĩ thầm rằng: Nay mình nằm bệnh ở trên giường, Thế Tôn đại từ, lẽ nào chẳng đoái lòng thương xót!

Phật biết ý Ngài, liền bảo Xá Lợi Phất đến thăm bệnh. Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, từng đến ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây trong rừng, khi ấy Ngài đến bảo con rằng: Này Xá Lợi Phất! Không hẳn ngồi đó mới là tĩnh tọa. Nói Tĩnh Tọa là chẳng hiện thân ý nơi tam giớitĩnh tọa, đại định chẳng khởi diệt mà hiện các oai nghitĩnh tọa, thị hiện việc phàm phu mà chẳng bỏ đạo pháp là tĩnh tọa, tâm chẳng trụ trong cũng chẳng ở ngoài là tĩnh tọa, tu hành ba mươi bảy phẩm trợ đạochư kiến chẳng động là tĩnh tọa, chẳng dứt phiền nãonhập Niết Bàntĩnh tọa. Nếu tọa như thế mới được Phật ấn khả. Bạch Thế Tôn! Lúc ấy con nghe lời này, im lặng chẳng thể trả lời, vì thế nên con không đáng đến thăm bệnh Ngài.

Phật bảo Mục Kiền Liên đến thăm bệnh. Mục Kiền Liên bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, vào thành Tỳ Da Ly, ở trong xóm làng vì các cư sĩ thuyết pháp. Lúc ấy Ngài đến bảo con rằng: Này Mục Kiền Liên! Thuyết pháp cho bạch y cư sĩ chẳng nên thuyết như thế. Nói Thuyết Pháp nên thuyết đúng như pháp. Pháp chẳng chúng sanh vì lìa chúng sanh cấu, pháp chẳng có ngã vì lìa ngã cấu, pháp chẳng thọ mạng vì lìa sanh tử, pháp chẳng có người vì chẳng việc trước sau, pháp thường tịch lặng vì các tướng vốn diệt, pháp lìa nơi tướng vì chẳng có sở duyên, pháp chẳng danh tựngôn ngữ đoạn dứt, pháp chẳng có sở thuyết vì lìa giác quan, pháp chẳng hình tướng vì như hư không, pháp chẳng hí luậntất cánh không, pháp chẳng ngã sở vì lìa ngã sở, pháp chẳng phân biệt vì lìa ý thức, pháp chẳng thể so sánh vì chẳng có đối đãi, pháp chẳng thuộc nhân vì chẳng nhờ duyên, pháp đồng pháp tánh vì nhập các pháp, pháp tùy nơi Như (như thật tế) vì vô sở tùy, pháp trụ thật tế vì vốn vô biên, pháp chẳng lay động vì chẳng nương lục trần, pháp chẳng khứ lai vì vốn vô trụ, pháp tùy thuận tánh không, vô tướng nên vô tác, pháp lìa tốt xấu, pháp chẳng thêm bớt, pháp chẳng sanh diệt, pháp chẳng chỗ về, pháp siêu lục căn, pháp chẳng cao thấp, pháp thường trụ chẳng động, pháp lìa tất cả quán hạnh. Vậy Mục Kiền Liên! Pháp tướng như thế, há có thể thuyết ư! Nay nói thuyết phápvô thuyết vô thị, người nghe pháp vô văn vô đắc, ví như nhà huyễn thuật thuyết pháp cho người huyễn. Nên theo ý này mà thuyết. Phải biết chúng sanh căn cơ có lợi độn, nên chẳng chấp tri kiến, vô sở quái ngại, dùng tâm đại bi tán thán Ðại Thừa, nhớ đền ơn Phật, chẳng lìa Tam Bảo, rồi sau mới thuyết pháp. Khi Duy Ma Cật thuyết pháp này, tám trăm cư sĩ phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Con chẳng biện tài, nên không dám đến thăm bệnh.

Phật bảo Ðại Ca Diếp đến thăm bệnh. Ca Diếp bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con chẳng xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, khất thực nơi xóm dân nghèo. Lúc ấy Ngài đến bảo con rằng: Này Ca Diếp! Có lòng từ bi mà tâm chẳng bình đẳng, bỏ giàu theo nghèo. Ca Diếp! Trụ pháp bình đẳng nên khất thực theo thứ tự, vì không ăn nên đi khất thực, vì hoại tướng hòa hợp nên bốc cơm ăn, vì chẳng lãnh thọ nên lãnh thọ đồ ăn, vì quán tưởng như hư không tụ hợp nên vào nơi làng xóm dân tụ, thấy sắc đồng như mù, nghe tiếng đồng như điếc, ngửi mùi đồng như gió, nếm vị chẳng phân biệt, thân xúc như tâm trí chứng biết (vì trí chứng vô chứng, nên xúc đồng như không xúc), rõ các pháp như tướng huyễn hóa, chẳng tự tánh, chẳng tha tánh, xưa vốn vô sanh, nay cũng vô diệt. Ca Diếp! Nếu được chẳng bỏ tám tà mà nhập tám giải thoát, dùng tướng tà mà nhập chánh pháp, dùng một thức ăn để thí đủ cho tất cả, cho đến cúng dường chư Phật và chư hiền thánh, rồi sau mới có thể ăn. Người ăn như thế, chẳng có phiền não, chẳng lìa phiền não, chẳng nhập định, chẳng xuất định, chẳng trụ thế gian, chẳng trụ Niết Bàn, kẻ bố thí chẳng phước lớn phước nhỏ, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng nương Thanh Văn, ấy mới chính là nhập Phật đạo. Ca Diếp! Ăn như thế mới là không uổng thức ăn của người bố thí vậy! Bạch Thế Tôn! Lúc con nghe lời này được pháp chưa từng có, nơi thâm tâm liền khởi cung kính tất cả Bồ Tát, lại nghĩ rằng người gán tên tại gia mà lại có biện tài trí huệ như thế, ai nghe mà chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó con chẳng dùng hạnh Thanh Văn Duyên Giác để dạy người. Cho nên con không đáng đến thăm bệnh.

Phật bảo Tu Bồ Ðề đến thăm bệnh. Tu Bồ Ðề bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con chẳng xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, vào nhà Ngài khất thực. Ngài lấy bát con đựng đầy cơm, bảo rằng: Này Tu Bồ Ðề! Ðối với sự ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì sự ăn cũng bình đẳng, khất thực như thế mới được lấy ăn. Vậy nếu Tu Bồ Ðề chẳng đoạn dứt tham sân si, cũng chẳng cùng với tham sân si, chẳng hoại nơi thân mà tùy nhất tướng (Nhất tướng vô tướng), chẳng diệt si áiđược giải thoát, dùng tướng ngũ nghịchđược giải thoát, chẳng trói cũng chẳng mở, chẳng thấy Tứ Ðế, phi chẳng thấy Tứ Ðế, phi đắc quả, phi bất đắc quả, phi phàm phu, phi lìa phàm phu, phi bậc thánh, phi chẳng bậc thánh, dù thành tựu tất cả pháp mà lìa các pháp tướng, mới được lấy ăn.Nếu Tu Bồ Ðề chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, bọn lục sư (sáu phái) ngoại đạo là thầy của ông, vì họ xuất gia bị đọa, ông cũng đọa theo, mới được lấy ăn.

LƯỢC GIẢI

Bọn lục sư ngoại đạo là thầy của ông, vì họ xuất gia bị đọa, ông cũng đọa theo:

1. Thầy có nhiều loại. Thầy Bổn Sư, thầy dạy đạo, thầy y chỉ nuôi cho ăn học, thầy dạy chữ nghĩa thế gian, v.v... Chẳng phải chỉ có thầy Bổn Sư mới được gọi là thầy.

2.Theo Trí Giả Ðại Sư có ba loại ngoại đạo.

-Thứ nhất là ngoại đạo chánh thức, tu hành thành tựu, được sanh cõi Trời chẳng bị đọa.

-Thứ hai là ở nơi Phật pháp xuất gia mà hành theo pháp ngoại đạo thì phải bị đọa.

-Thứ ba là học Phật pháp thành ngoại đạo, vì hiểu lầm ý Phật, cho ý mình hiểu là đúng chánh pháp mà dùng để dạy người, củng bị đọa như ngoại đạo thứ hai vậy.

Theo sự thật, trong Phật pháp có một số người bổn sư bị đọa mà đệ tử được kiến tánh. Chẳng phải bổn sư bị đọa thì đệ tử phải đọa theo. Nguyên nhân bị đọa là bởi vì hành tà pháp mà cho là chánh pháp, làm cho chúng sanh hiểu lầm nên mới phải bị đọa. Ðây là lược giải theo có nghĩa lýế. Nhưng đoạn này Ngài Duy Ma Cật cố ý nói ra những lời vô nghĩa lý, ấy chỉ là phương tiện dùng để phá những kẻ chấp thật văn tự lời nói của chư Phật chư Tổ mà thôi.(Lược giải hết)

Nếu Tu Bồ Ðề tâm nhập tà kiến, chẳng đến bờ bên kia, trụ nơi tám nạn, chẳng ra khỏi nạn, lìa pháp thanh tịnh mà đắc vô tranh tam muội, tất cả chúng sanh cũng đắc tam muội ấy, kẻ bố thí ông chẳng gọi là phước điền, kè cúng dường ông phải đọa tam ác đạo. Ông cùng ma chúng bắt tay nhau làm bè bạn, ông cùng ma chúng với những trần lao đồng nhau chẳng khác, nơi tất cả chúng sinh có tâm oán ghét, báng Phật hủy pháp, chẳng nhập tăng chúng, cuối cùng chẳng thể diệt độ, ông nếu như thế mới được lấy ăn.ế Bạch Thế Tôn! Khi nghe lời dạy này, con cảm thấy ngơ ngác, chẳng hiểu Ngài nói gì, chẳng biết trả lời thế nào, liền để bát lại muốn ra khỏi nhà. Lúc ấy Ngài Duy Ma Cật bảo: Này Tu Bồ Ðề! Cứ lấy bát đi đừng sợ. Ý ông thế nào? Nếu đem việc này hỏi người huyễn hóa của Như Lai làm ra, người ấy có sợ chăng?" Con đáp: Không ạ! Ngài Duy Ma Cật nói: Tất cả các pháp, tướng như huyễn hóa, nay ông cũng chẳng nên sợ. Tại sao? Tất cả ngôn thuyết đều chẳng lìa tướng huyễn hóa. Cho nên người trí chẳng dính mắc văn tự, nên chẳng có sợ. Tại sao? vì tánh của văn tự tự lìa văn tự, chẳng chấp văn tự ấy mới là giải thoát. Tướng giải thoát đó tức là các pháp vậy. Khi Duy Ma Cật thuyết pháp này, hai trăm thiên tử đắc pháp nhãn tịnh, vì thế nên con không đáng đến thăm bệnh.

LƯỢC GIẢI

Kinh Kim Cang nói: Nếu có ai nói Như Laithuyết phápphỉ báng Phật, vì pháp lìa văn tự. Nhưng chúng sanh học Phật đều đuổi theo văn tự để tìm hiểu chân lý. Phật rất sợ chúng sanh nhận lầm như thế, kẹt vào lý chướng nên vừa thuyết xong liền phá. Ðoạn Tu Bồ Ðề thăm bệnh này là chuyên dùng những lời vô nghĩa để phá những người chấp thật vào văn tự lời nói trong kinh điển. Tu Bồ Ðề chẳng phải không biết mà sợ, vì hợp tác với Duy Ma Cật nên thị hiện sợ, để cho Duy Ma Cật giảng rõ văn tựlời nói là tướng huyễn hóa. Chẳng chấp văn tự ấy là giải thoát, tướng giải thoát đó tức là các pháp vậy. (Lược giải hết)

Phật bảo Phú Lâu Na đến thăm bệnh. Phú Lâu Na bạch Phật rằng:

Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, con ở dưới gốc cây trong rừng thuyết pháp cho các Tỳ kheo sơ học. Lúc ấy Ngài đến bảo con rằng: Này Phú Lâu Na! Trước nên nhập định để quán xét tâm địa của những người này rồi mới thuyết pháp, chớ đem thức ăn dơ để trong bửu bát, nên biết rõ tâm niệm của những Tỳ kheo này, chớ xem lưu ly cho là thủy tinh. Ông chẳng biết cội nguồn của chúng sanh, chớ nên dùng pháp Tiểu Thừa dạy người. Họ vốn chẳng tì vết, chớ làm cho bị thương; họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ; chớ nên đem biển lớn để trong vũng chân trâu; chớ cho ánh sáng mặt trời bằng lửa đom đóm. Phú Lâu Na! Những Tỳ kheo này đã phát tâm Ðại Thừa từ lâu, nay chỉ tạm quên, sao lại dùng pháp Tiểu Thừa dạy họ? Tôi xem trí huệ Tiểu Thừa cạn cợt như người mù, chẳng thể phân biệt căn tánh lợi độn của chúng sanh. Lúc bấy giờ, Ngài liền nhập chánh định, khiến những vị Tỳ kheo này tự biết túc mạng, những kiếp trước đã từng gieo trờng nhiều phước đức nơi năm trăm Ðức Phật, hồi hướng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tức thì hoát nhiên đắc lại bổn tâm. Các Tỳ kheo đảnh lễ chân Ngài và Ngài nhân đó thuyết pháp, khiến tất cả chẳng còn thối lui nơi đạo Vô Thượng Bồ Ðề. Con nghĩ hàng Thanh Văn chẳng quán được căn người thì không nên thuyết pháp, nên con không đáng đến thăm bệnh.

Phật bảo Ma Ha Ca Chiên Diên đến thăm bệnh. Ca Chiên Diên bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, Phật vì các Tỳ kheo lược thuyết pháp yếu, con liền theo nghĩa đó diễn rộng ra, nói rõ các nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt. Lúc bấy giờ Ngài đến bảo con rằng: "Này Ca Chiên Diên! Chớ nên dùng tâm hạnh sinh diệtthuyết pháp thật tướng. Ca Chiên Diên! Các pháp vốn chẳng sanh chẳng diệt là nghĩa Vô Thường; thấu đạt ngũ ấm tánh không, chẳng có chổ khởi là nghĩa Khổ; các pháp cứu cánh chẳng thể có là nghĩa Không; ngã với vô ngã bất nhị là nghĩa Vô Ngã; pháp xưa vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt là nghĩa Tịch Diệt. Khi Ngài thuyết pháp này, các Tỳ kheo tâm được giải thoát, vì thế nên con không đáng đến thăm bệnh.

Phật bảo A Na Luật đến thăm bệnh. A Na Luật bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Nhớ lại khi xưa, con đi kinh hành một chỗ nọ, khi ấy có vị Phạm Vương tên là Nghiêm Tịnh, cùng mười ngàn Phạm Thiên phóng ra ánh sáng trong sạch, đến chỗ con đảnh lễ hỏi con rằng: Thiên nhãn của ông thấy được bao xa? Con nói: Ta thấy tam thiên đại thiên thế giới của Phật Thích Ca như xem trái Am Ma La trong bàn tay. Lúc đó Duy Ma Cật đến bảo con rằng: Này A Na Luật! Thiên nhãn của ông thấy đó là có lập tướng thấy hay chẳng lập tướng thấy? Giả sử có lập tướng thấy thì đồng như ngũ thông của ngoại đạo, nếu chẳng lập tướng thấy tức là pháp vô vi, thì chẳng nên có sự thấy. Bạch Thế Tôn! Khi ấy con im lặng chẳng thể trả lời, các vị Phạm Thiên nghe Ngài nói lời này, được pháp chưa từng có, liền đảnh lễ hỏi rằng: Thưa Ngài, trên đời có ai được chơn thiên nhãn chăng? Ngài nói: Có Phật Thế Tôn được chơn thiên nhãn, thường ở chánh định, thấy suốt các cõi Phật chẳng có hai tướng. Do đó Nghiêm Tịnh Phạm Vươngquyến thuộc đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đảnh lễ chân Ngài rồi bỗng nhiên biến mất. Vì thế nên con không đáng đến thăm bệnh.

Phật bảo Ưu Ba Ly đến thăm bệnh. Ưu Ba Ly bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, có hai vị Tỳ kheo phạm giới, lấy làm hổ thẹn không giám đến hỏi Phật mà đến hỏi con rằng: Dạ thưa ông Ưu Ba Ly! Chúng tôi phạm giới thật là hổ thẹn, chẳng dám hỏi Phật. Xin ông giải tỏa chỗ nghi hối cho chúng tôi được khỏi tội ấy. Con liền vì họ giải thuyết đúng như giới luật. Bấy giờ Duy Ma Cật đến bảo con rằng: Này Ưu Ba Ly! chớ kết thêm tội cho hai vị Tỳ kheo này, nên diệt trừ ngay tội ấy, chớ nhiễu loạn tâm họ. Tại sao? Vì tội tánh kia chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa. Theo lời Phật nói: Tâm cấu nên chúng sanh cấu, tâm tịnh nên chúng sanh tịnh, tâm cũng chẳng ở trong, ngoài và khoảng giữa. Nếu tâm như thế thì tội cũng như thế. Các pháp cũng vậy, chẳng ngoài nơi Như (như thật). Nếu khi tâm tướng của ông được giải thoát, thì còn tội cấu chăng? Con đáp: Không ạ! Ngài nói: Tâm tướng của tất cả chúng sanh vô cấu cũng như thế. Này Ưu Ba Ly! Vọng tưởng là cấu, chẳng vọng tưởng là tịnh; điên đảo là cấu, chẳng điên đảo là tịnh; chấp ngã là cấu, chẳng chấp ngã là tịnh. Ưu Ba Ly! Tất cả pháp sanh diệt chẳng trụ, như huyễn hóa, như điện chớp, các pháp chẳng đối đãi, cho đến chẳng trụ một niệm nào. Các pháp như chiêm bao, như dương diệm, như trăng dưới nước, như tượng trong gương, do vọng tưởng sanh, đều là vọng kiến. Kẻ biết nghĩa này gọi là giữ giới, kẻ biết nghĩa này gọi là thấu hiểu giới luật. Lúc ấy hai vị Tỳ kheo khen rằng: Ngài thật là bậc thượng trí! Ưu Ba Ly trì giới bậc nhất mà chẳng thể giải thuyết nên chẳng thể sánh bằng. Con đáp rằng: Trí huệ của Ngài sáng tỏ thông đạt như thế, ngoài Như Lai ra, chưa có bậc Thanh VănBồ Tát nào sánh bằng biện tài của Ngài. Khi ấy, hai vị Tỳ kheo dứt hết nghi hối, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giácphát nguyện rằng: Mong tất cả chúng sanh đều được biện tài như Duy Ma Cật. Vì thế con không đáng đến thăm bệnh.

Phật bảo La Hầu La đến thăm bệnh. La Hầu La bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, các trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly đến chỗ con đảnh lễ hỏi rằng: Thưa ông La Hầu La! Ông là con của Phật, vì đạo bỏ ngôi vua mà xuất gia, việc xuất gia đó có những lợi ích gì? Con liền nói đến sự lợi ích của việc xuất gia đúng như pháp. Lúc đó Duy Ma Cật đến bảo con rằng: Này La Hầu La! Ông chẳng nên nói lợi ích của công đức xuất gia. Tại sao? Vô lợi ích, vô công đức mới là xuất gia. Về pháp hữu vi, mới nói có lợi ích, có công đức. Việc xuất giapháp vô vi, trong pháp vô vi chẳng có lợi íchcông đức. La Hầu La! Việc xuất gia chẳng có bỉ thử đối đãi, cũng chẳng ở khoảng giữa, lìa sáu mươi hai kiến chấp, ở nơi Niết Bàn, là thọ dụng của người trí, là chỗ hành của bậc thánh, hay hàng phục ma chúng, độ ngũ đạo, tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, lập ngũ căn, chẳng làm phiền não người khác, lìa đủ thứ ác, dẹp các ngoại đạo, siêu việt giả danh, ra khỏi bùn lầy thế gian, chẳng bị dính mắc, vô ngãngã sở, vô sở lãnh thọ, tâm chẳng nhiễu loạn, ham hộ niệm chúng sanh, tùy thuận Thiền định, lìa những tội lỗi. Nếu được như thế mới là chơn xuất gia. Khi ấy, Duy Ma Cật bảo các trưởng giả rằng: Các ngươi nay ở trong chánh pháp, nên cùng nhau xuất gia. Tại sao? Vì đời Phật khó gặp. Các trưởng giả nói: Thưa Cư sĩ. Chúng tôi nghe Phật dạy rằng nếu cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia. Duy Ma Cật nói: Phải. Vậy thì các ngươi phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề tức là xuất gia, tức là cụ túc. Khi ấy, ba mươi hai vị trưởng giả đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thế nên con không đáng đến thăm bệnh.

Phật bảo A Nan đến thăm bệnh. A Nan bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con không xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa, Thế Tôn có bệnh cần dùng sữa bò. Con cầm bát đến trước nhà người Bà La Môn để xin sữa. Khi ấy Duy Ma Cật đến hỏi con rằng: Này A Nan! Làm gì mà cầm bát đến đứng đây sớm thế? Con đáp: Thưa Cư sĩ! Thế Tôn thân có chút bệnh, cần dùng sữa bò nên tôi mới đến đây. Ngài nói: Thôi, thôi! A Nan chớ nói như thế. Thân Như Lai là thể Kim Cang, ác đã dứt sạch, thiện đã viên mãn, đâu còn bệnh nào, đâu còn khổ não. A Nan, hãy im lặng về đi. Chớ phỉ báng Như Lai, chớ cho người khác nghe biết lời này, chớ cho chư Thiên và các Bồ Tát từ tịnh độ phương khác đến nghe biết lời này. A Nan, Chuyển Luân Thánh Vương có chút ít phước đức còn chẳng bệnh tật, huống là Như Lai vô lượng phước tụ, thù thắng khắp nơi ư. A Nan, Chớ làm cho chúng mình chịu sự sỉ nhục ấy. Ngoại đạo Phạm Chí nếu nghe được lời này sẽ nghĩ rằng: Sao gọi là Thầy, bệnh của mình không chữa nỗi mà chữa được bệnh cho người khác ư? Nên lén đi mau chớ để cho người nghe biết việc này. A Nan nên biết, thân Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân sắc dục. Phật là Thế Tôn siêu việt ba cõi. Thân Phật là vô lậu, các lậu đã sạch, thân Phật vô vi, chẳng lọt vào số lượng, thân Phật như thế thì còn có bệnh gì? Bạch Thế Tôn! Lúc đó con thật quá hổ thẹn. Chẳng lẽ con gần Phật mà nghe lầm ư. Khi ấy con liền nghe trên hư không có tiếng rằng: A Nan. Ðúng như lời cư sĩ. Chỉ vì Phật ra đời nơi ngũ trược ác thế nên thị hiện pháp này để độ chúng sanh thôi. Nay A Nan cứ lấy sữa, chớ cho là hổ thẹn. Bạch Thế Tôn. Ngài Duy Ma Cật trí huệ biện tài như thế ấy, cho nên con không đáng đến thăm bệnh.

Ngoài ra còn có năm trăm đại đệ tử, mỗi người đều đem bổn duyên của mình bạch Phật và thuật lại lời của Duy Ma Cật như thế. Mọi người đều nói chẳng xứng đáng đến thăm bệnh Ngài.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15663)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10974)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53437)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12870)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19051)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19812)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15419)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15237)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20181)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23719)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15348)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12947)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19844)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13168)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28927)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18182)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13125)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13120)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12879)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13436)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11586)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14134)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22272)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13343)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14192)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105544)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38293)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15415)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34541)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15944)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11264)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15563)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12737)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13048)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13368)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21473)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17856)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21753)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15964)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18968)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24590)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant