Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4 Phần Kết

28 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9097)
Chương 4 Phần Kết

BỒ TÁT TẠI GIA, BỒ TÁT XUẤT GIA
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Nhất Hạnh
Phiên tả và hiệu đính: Chân Đạo hành & Chân Tuệ Hương
Nhà xuất bản Lá Bối 2002

CHƯƠNG 4 
PHẦN KẾT

Tinh hoa của kinh Duy Ma 

Đây là lúc chúng ta tóm lược lại các tư tưởng và những đặc thù của kinh Duy Ma.

Chúng ta biết rằng kinh Duy Ma xuất hiện vào khoảng hạ bán thế kỷ thứ hai, nghĩa là từ năm 150 đến năm 200 sau Chúa Ki-tô giáng sinh. Mặc dù nguyên bản tiếng Phạn của kinh đã bị thất lạc, nhưng nhờ kinh Duy Ma đã được trích dẫn rất nhiều trong những kinh và luận xuất hiện sau đó, cho nên ngày nay chúng ta vẫn còn đọc được nhiều đoạn kinh Duy Ma bằng nguyên văn tiếng Phạn.

Tư tưởng

Đứng về phương diện tư tưởng, chúng ta ghi nhận rằng trong kinh Duy Ma:

- Các pháp khôngtự tánh, không có sự hiện hữu riêng biệt. Đây là một hình thái diễn tả vô thườngvô ngã.

- Các pháp không sinh (Anutpada), không diệt (Aniruddha).

- Các pháp vốn tịch diệt, bản tịnh. Các Pháp đã là Niết bàn, All Dharma are without nature, all Dharma are without birth and death, all Dharma are already nirvanised. Bản tịnh ở đây có nghĩa là không thành không hoại, không sanh không diệt, ý tương tự như Niết bàn vậy.

- Các Pháp vô tướng (Animitta) và bất khả thuyết (anabhilapya).

- Các pháp bình đẳng (Sama) và bất nhị (Advaya). Tư tưởng bất nhị đã được nhấn mạnh rất nhiều trong kinh điển.

- Các pháp bất tư nghị giải thoát. Bất tư nghị giải thoát (acynthia-vimoksa) là những phương pháp hóa độ chúng sanh mà ta không thể lường tưởng được. Các vị Bồ tát có thể hóa độ chúng sanh bằng những phương pháp mà người thường không thể nào thấu hiểu.

Trước hết, tuy ở tại gia nhưng ta vẫn có thể góp phần hóa độ chúng sanh rất lớn lao. Ta có thể làm vua, làm quan, làm Tể tướng, làm đàn bà, làm con nít, làm dâm nữ, làm nhà chính trị, và ta có thể hóa độ chúng sanh mà người đời không hay biết. Mình có thể đi vào quán rượu, sòng bài, mà vẫn có thể hóa độ chúng sanh, và người không có "con mắt lớn" thì không nhận ra mình và hành động của mình. Mình có thể sử dụng thời gian, không gian, mình có thể rút ngắn một kiếp thành ra bảy ngày, mình có thể kéo dài một giây phút thành ra thiên thu để hóa độ mà tất cả chúng sanh đều không hay biết.

Bồ Tát, mình thị hiện làm Ma Vương để hóa độ nhưng người ta tưởng mình là ma thật.

Nói tóm lại, dùng những phương tiện ngoài tầm tưởng tượng của người thường để cứu giúp chúng sanh, thì gọi là bất tư nghị giải thoát.

Sự truyền thừa

Đứng về phương diện truyền thừa, chúng ta thấy rằng kinh Duy Ma thực tế hóa kinh Bát Nhãkinh Hoa Nghiêm.

Thực tế hóa nghĩa là sao? Nghĩa là những tư tưởng trong Bát Nhã và những tư tưởng trong Hoa Nghiêm được trình bày, diễn dịch thành hành động, thành nếp sống, thành những điều mà mình có thể thực tập.

Chúng ta biết rằng Bát NhãHoa Nghiêm đều diễn tả chân lý về duyên khởi. Vạn sựvạn vật đều do nhân duyên mà có mặt, vì vậy chúng không có một thực thể riêng biệt, cho nên chúng là Không. Đó là giáo nghĩa của Bát Nhã. Với kinh Hoa Nghiêm, vạn sự, vạn vật đều do những nhân duyên mà có mặt. Tuy vậy duyên khởi ở đây được trình bày trên phương diện tích cực, cho nên danh từ "Không" không quan trọng bằng danh từ "Hữu".

Có thể nói rằng khi học kinh Bát Nhã, chúng ta thấy Không là bản chất của hiện hữu. "Không" này ngăn chúng ta chấp về cái "Có". Không này ngăn vọng tâm của chúng ta, giúp chúng ta tiêu diệt vọng tâm của mình.

Khi đi sang thế giới của Hoa Nghiêm, chúng ta thấy rằng cái Chân Không biến thành cái Diệu Hữu. Thế giới của Hoa Nghiêmthế giới của ánh sáng, thế giới của sự mầu nhiệm. Tất cả những gì xảy ra trong thế giới Hoa Nghiêm đều là mầu nhiệm cả. Con người rất đẹp, bông hoa rất đẹp, cây Bồ đề rất đẹp. Tại vì khi đã đạt được Chân Không, mình có thể an trú trong Diệu Hữu.

Khi học về kinh Duy Ma ta thấy tuy Duy Ma thừa hưởng tư tưởng của cả Bát Nhã lẫn Hoa Nghiêm, nhưng Duy Ma gần với Hoa Nghiêm hơn, tức là kinh đi về hướng tích cực hơn. Ảnh hưởng của Hoa Nghiêm trên Duy Ma rất lớn.

Mục đích của kinh Duy Ma là luận phá tư tưởng của Tiểu thừa. Cố nhiên thừa hưởng tư tưởng của Bát NhãHoa Nghiêm, Duy Ma là kinh thuộc về Đại thừa, nhưng kinh Duy Ma trực tiếp công phá Tiểu thừa với những trái pháo nặng nhất mà Duy Mathể chế biến, không nương tay. Những trái pháo mà kinh Duy Ma bắn vào thành trì của Tiểu thừa là những trái pháo lớn nhất mà truyền thống Đại thừathể chế tạo vào thời đó.

Tuy lấy Bát Nhã làm bối cảnh nhưng Duy Ma không bao giờ có thái độ tiêu cực. Trái lại, Duy Ma đi đôi với Hoa Nghiêm để diễn xướng chân lý về Diệu Hữu. Trong kinh Duy Ma ta thấy quan điểm về tịnh độquan điểm về thế giới được trình bày một cách rất rõ rệt. Cõi tịnh độ đẹp đẽ hay khổ đau; những hoàn cảnh đó, những y báo đó, đều do nhân cách của con người định đoạt. Tâm của mình như thế nào thì thế giới của mình như thế đó. Vì vậy mình không cần trốn chạy, mình chỉ cần thay đổi tâm của mình, chỉnh lý tâm của mình, gạn lọc tâm của mình thì thế giới nào cũng là tịnh độ cả.

Trong kinh Duy Ma, sự sống hiện thực của chúng tacăn bản. Kinh Duy Ma dạy chúng ta phải an trú tại đây, nghĩa là hai chân phải chấm đất ở cõi đời này, đừng tìm sự trốn chạy dù là trốn chạy đến một cõi tịnh độ. Tịnh độ là do tâm mà ra và Duy Ma chú trọng đến cuộc sống hiện thực chứ không nhắm tới sự trốn tránh khổ đau ở trong một cõi Niết bàn nào khác. Tất cả là tùy thuộc vào cách sống của mình trong ngày hôm nay. Nó là tịnh độ, nó là ta bà, nó là an lạc, nó là khổ đau, nó là giải thoát, nó là phiền trược, tất cả tùy thuộc vào thái độ và nhân cách của mình, tùy thuộcnhận thức của mình, và ở cách sống hàng ngày của mình trong hiện tại.

Tư tưởng về giải thoát bất tư nghị cũng vậy. Tư tưởng này dạy rằng chúng ta không nên xa lánh xã hội, phải sống ngay trong xã hội này, phải lấy những ao bùn để trồng hoa sen. Chính trong những ao bùn mà những bông sen đẹp nhất có thể nở được. Chính trong thế giới phiền não chúng ta mới đạt tới giải thoátNiết bàn. Vì vậy những ngã chấp và ngã dục mà ta thấy là xấu xa dơ bẩn, nếu biết sử dụng thì chúng là những thứ phân bón để tạo nên bông hoa của Phật tánh và của Bồ đề.

Mục đích của kinh 

Kinh Duy Mamục đích công phá Tiểu thừa, cho nên đã không ngần ngại đưa thầy Xá Lợi Phất ra làm mục tiêu. Thầy Xá Lợi Phấttượng trưng cho tinh ba của Tiểu thừa.

Chúng ta có thể nói rằng kinh Duy Ma là kết quả của một cuộc vận động phản kháng chủ nghĩa xuất gia. Đạo Bụt không phải chỉ dành cho những người xuất gia, chán cõi đời này nên đi tìm sự an lạc Niết bàn cho cá nhân. Đạo Bụt là con đường mở ra cho tất cả nhân loại, cho tất cả các loài được hưởng. Nếu không khôn khéo, ta sẽ biến đạo Bụt thành chủ nghĩa của một thiểu số người xuất gia mà không có tính cách đại chúng.

Bản ý của Bụt là làm thế nào để cho tất cả mọi giới, không những là loài người mà cả loài vật, đều được thừa hưởng nếp sống an lạc, thanh tịnh của tâm mình. Mục đích của Bụt không phải tạo cơ hội cho một nhóm rất ít người tu học, để cho nhóm người đó đi vào trong sự an lạc thanh tịnh của riêng mình.

Ấy vậy mà đã có một số người biến đạo Bụt thành một chủ nghĩa, một đạo lý riêng cho một thiểu số người xuất gia, vì vậy đạo Bụt đã không đi vào trong cuộc đời được. Do đó ta có thể nói kinh Duy Ma phản chiếu một sự vận động của những người cư sĩ chống lại chủ nghĩa xuất gia, biến đạo Bụt thành công cụ của những người xuất gia mà thôi. Nặng nề hơn nữa là số người xuất gia này là những người chỉ ham lo cho phần tự lợi.

Cố nhiên trong số những người xuất gia có những người cũng có tư tưởng của Duy Ma, và cố nhiên trong sự vận động này cũng có một số người xuất gia tham dự. Tuy vậy chúng ta có thể nói phần lớn những người trong phong trào này đều là những cư sĩ muốn đem đạo Bụt ra khỏi tháp ngà của chủ nghĩa xuất gia. Người ngoài đời chỉ có bổn phận cúng dường cho có phước! Người ngoài đời không thừa hưởng được, không thực tập được những lời Bụt dạy!

Đọc và hiểu kinh Duy Ma

Khi học kinh, nhất là khi chúng ta học những kinh nổi tiếng như kinh Pháp Hoa, kinh Thắng Man hay kinh Duy Ma Cật, chúng ta thường có thành kiến rằng những kinh đó đã được nhiều học giả, nhiều bậc cao Tăng chú giải. Vì vậy chúng ta nghĩ nếu mình không căn cứ vào những lời chú giải, vào cái hiểu của những người đi trước, thì chúng ta không hiểu kinh được.

Đây là một điều mà ta nên xét lại trong cách suy tư của mình.

Tất nhiên chúng ta nên đọc những lời chú giải của các bậc tiền bối. Tuy vậy mỗi chúng ta đều có nhận thức độc lập, và chúng ta phải tin tưởng vào nó. Đó là cái Phật tánh, cái giác tánh có sẵn trong mỗi chúng ta. Nhận thức độc lập là cái quí báu nhất trong mỗi con người.

Khi đọc một cuốn kinh, trước hết chúng ta phải dùng cái nhận thức độc lập đó để đến với kinh. Nếu nghĩ rằng đọc kinh mà không đọc lời chú giải, ta không thể nào hiểu được kinh, thì mình đã tự khinh mình. Có nghĩa là mình đã khinh Bụt, khinh cái tự tánh Bụt trong con người của mình. Luật tạng (Vinaya-pitaka) có nói: Bỉ ký trượng phu, ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thối khuất, nghĩa là kẻ kia đã là trượng phu thì tại sao mình lại không như vậy được? Không nên tự khinh mình để bị thối lui và bị che lấp.

Vì vậy phương pháp mà tôi đề nghị là chúng ta đừng vội vàng bám vào lời giải thích của những người đi trước. Mình phải đem tất cả tấm lòng, tất cả niềm tin nơi bản tâm của mình để đến với kinh. Nói khác đi, nếu mình có thể đến trực tiếp với Bụt thì mình nên đến, đừng đi qua thầy Xá Lợi Phất hay thầy Mục Kiền Liên! Kinh là lời dạy trực tiếp của Bụt, tâm mình cũng là Bụt. Khi hai vị Bụt gặp nhau thì sẽ có một sự thông cảm, và sự đối thoại sẽ rất sâu sắc.

Nói như vậy không có nghĩa là mình không để ý đến cái thấy, cái nhận thức của những người khác, trong đó có các vị tổ sư. Mình cũng sẽ đọc, sẽ nghe để có thể thấy được người khác, trong đó có thầy mình, hiểu kinh như thế nào. Tuy vậy mình không cần phải hiểu kinh theo đúng cách thầy mình hiểu. Nếu mình phải hiểu đúng theo thầy thì sẽ không có sự tiến bộ nữa, và chỉ có sự thụt lùi mà thôi! Tại sao vậy? Tại vì làm sao mình có thể hiểu theo cách hiểu của thầy 100% được? Giỏi lắm là mình hiểu được 99% theo cách hiểu của thầy mình. Như vậy thì học trò của mình sẽ hiểu 98%, và từ từ thì mình bị lỗ vốn! Vì vậy mình phải có cái hiểu riêng của mình và cái hiểu của chính mình sẽ là bổn sư của mình. Mình sẽ trao truyền lại tất cả những điều đó, và học trò của mình cũng sẽ không bằng lòng với cái đó mà sẽ tự khám phá thêm.

Đó là phương pháp mà tôi đã áp dụng trong bốn năm mươi năm nay để học Bụt.

Do đó khi học kinh Duy Ma Cật, trước hết mình phải tới với kinh như là một tài liệu nguyên chất, chưa chế biến.

Trong quá khứ, các bậc tiền bối đã không có được những cơ hội, những điều kiện như chúng ta để có thể tiếp xúc với nhiều truyền thống. Ví dụ sinh ra ở Trung-hoa, mình được tiếp xúc với truyền thống Phật giáo Trung-hoa. Sinh ra ở Tây-tạng, mình tiếp xúc với truyền thống Phật giáo Tây-tạng, và mình ít biết về truyền thống Thái-lan hay Việt-nam. Vì vậy mà mình bị đóng khung trong truyền thống của mình, và mình chỉ hiểu được Bụt, được kinh qua truyền thống của mình mà thôi.

Ngày nay tất cả các cánh cửa đều đã được mở rộng, mình có nhiều cơ hội đi thăm những truyền thống khác.

Mỗi truyền thống có cái nhìn, cái thấy, có những dữ kiện về lịch sử, về ngôn ngữ, soi sáng cho cái thấy của hành giả. Nếu có nhiều tia sáng khác nhau cùng chiếu vào một đối tượng nghiên cứu thì mình có thể khám phá được những điều mà ngày xưa các Tổ chưa khám phá được. Ngày xưa các Tổ chỉ có một nguồn ánh sáng mà thôi.

Hiện nay ở Tây phương có một hiện tượng rất đáng mừng, đó là tất cả các truyền thống đạo Bụt từ 2500 năm nay đều bắt đầu có mặt. Vì vậy không khó khăn gì để ta có thể nghiên cứu, học hỏi về những truyền thống đó. Qua những điều học được từ nhiều truyền thống, ta có thể khám phá một cách sâu rộng về những điều nằm ngay trong truyền thoáng cuûa mình. Hoïc Phaät ngaøy nay chuùng ta phải biết lợi dụng những lợi điểm đó.

Tiền bối của chúng ta ngày xưa khi học kinh, các vị chú trọng rất nhiều đến vấn đề tư tưởng, mà ít chú trọng đến phương diện lịch sử. Ngày nay, nhờ hai ngành học mới là khoa Sử học và khoa Ngữ ngôn học, chúng ta có thể khám phá được rất nhiều sự thật mà người xưa không khám phá được.

Khoa Sử học tiếng Pháp là Sciences Historique, một ngành chuyên khám phá, khai quật những tài liệu cổ. Họ áp dụng những phương pháp khoa học để so sánh các văn bản với nhau. Ví dụ như tại Trung Á (Central Asia), và tại các nước như Ni-bạc-nhỉ (Nepal), người ta đã khám phá ra những tài liệu về kinh Phật rất mới. Nhờ những khám phá đó mà chúng ta có rất nhiều dữ kiện mới. Chúng ta phải biết lợi dụng những khám phá đó và chúng ta phải biết những tin tức này. Một ví dụ khác là ở miền Tây Trung-hoa, người ta vừa tìm được nhiều kinh điển đạo Bụt tại động Đôn-Hoàng. Phật giáo ở Đài-loan đã in lại những tác phẩm vừa khai quật đó, và chúng ta có thể so sánh những văn bản này với những văn bản có trong Đại tạng. Đó là một điều rất cần thiết.

Ngoài khoa Sử học, chúng ta còn một ngành học rất quan trọng khác, gọi là khoa Bác Ngữ học, Sciences Philologiques. Chính nhờ khoa Bác ngữ họcchúng ta khám phá ra những điều rất mới lạ. Ví dụ muốn nghiên cứu về nguồn gốc của một dân tộc, người ta có thể căn cứ trên khoa Sử học, nhưng cũng có thể căn cứ vào khoa Bác ngữ học.

Trong trường hợp những nhà Sử học muốn tìm hiểu về nguồn gốc dân tộc Việt-nam, không những họ chỉ căn cứ vào Sử học, mà họ còn căn cứ vào Bác ngữ học nữa. Từ đầu mối của Bác ngữ học, người ta có thể khám phá được nguồn gốc của một giống dân. Trong các kinh điển cũng vậy, chỉ cần nghiên cứu về phương diện Bác ngữ học, chúng ta có thể thiết lập được địa phương và ngày tháng xuất hiện của một kinh. Nhờ vậy mà chúng ta biết kinh này xuất hiện trước hay sau kinh kia.

Ví dụ kinh Úc Già Trưởng Giả, nội dung nói về nếp sống của Bồ tát tại giaBồ tát xuất gia. Thời đại mà kinh này xuất hiệnthời đạiBồ tát giới chưa xuất hiện. Như vậy thì kinh Phạm Võng tức là kinh nói về Bồ tát giới, phải xuất hiện sau kinh Úc Già Trưởng Giả. Tại vì kinh Úc Già Trưởng Giả nói rằng vị Bồ tát tại gia muốn tu học thì phải thọ năm giới, và không hề đề cập đến việc thọ Bồ tát giới.

Những sự kiện này, ngày xưa các Tổ không để ý đến nhiều, vì các Tổ đã không sử dụng các ngành Sử học và Bác ngữ học như chúng ta ngày nay.

Lúc còn ở Paris, tôi có dạy môn Phật giáo qua Sử học và Bác ngữ học tại Ecole Pratique Des Hautes Etudes. Môn này thuộc phân khoa Sciences Historiques et Philologiques. Chính trong thời gian giảng dạy này tôi tìm được rất nhiều điều mới lạ. Ví dụ như Tuệ Trung Thượng sĩ mà người ta tin là con của tướng Trần Hưng Đạo, thật ra Ngài là anh ruột của Trần Hưng Đạo. Các học giả ở Hà-nội cũng đã công nhận khám phá đó là đúng. Khám phá đó được căn cứ trên khoa Bác ngữ học, bằng cách nghiên cứu, so sánh các văn bản về lịch sử.

Như vậy một học giả của thời đại hôm nay phải biết sử dụng Sử học và Bác ngữ học. Phải nhìn bằng con mắt phân tích của mình, và phải tìm tòi với sự thao thức của mình. Phải có những thao thức, những tò mò ấy thì sự nghiên cứu của mình mới đi xa được, nhờ vậy mình mới tìm được những điều mà người khác không thấy. Ngược lại nếu mình chỉ muốn học để biết ý kiến của các vị Tổ như thế nào về kinh này, thì trọn đời mình sẽ là một kẻ nô lệ, dầu là một nô lệ rất trung kiên, rất hiếu thuận, và suốt đời mình sẽ không có khả năng khám phá để soi đường cho hậu lai. Mình chỉ có thể tiếp tục trên phương diện truyền đạt, mà mình không có khả năng góp công tìm tòi, khám phá.

Sức mạnh của Bụt là sự khai phá. Bụt đã không bằng lòng với những truyền đạt từ những giáo phái có mặt trước Bụt, Ngài có chí nguyện khai phá và Ngài đã từ bỏ cuộc đời Vương giả để khai phá ra những điều mới, hầu truyền lại cho chúng sanh.

Đọc kinh, chúng ta phải biết noi gương khai phá của Bụt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12767)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12070)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15299)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10543)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12480)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11793)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14813)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16861)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11593)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52150)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15472)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13972)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12791)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13226)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12456)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14433)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57987)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14509)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20148)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13794)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15409)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17498)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13315)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13494)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12066)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25606)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11866)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38814)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12704)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant