Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chú Thích

14 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11928)
Chú Thích

Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV

TỨ DIỆU ĐẾ
NỀN TẢNG NHỮNG LỜI PHẬT DẠY
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nguyên tác: The Four Noble Truths (1997)
Bản dịch Anh ngữ: Geshe Thupten Jinpa - Hiệu chỉnh: Dominique Side
Bản dịch Việt ngữ: Võ Quang Nhân - Hiệu đính: Nguyễn Minh Tiến

Tài liệu đọc thêm

 

• The World of Tibetan Buddhism, The Dalai Lama, (bản dịch Anh ngữ của Thubten Jinpa), Wisdom, Boston, 1995
• The Meaning of Life from a Buddhist Perspective, The Dalai Lama, (Jeffrey Hopkins biên tập và dịch sang Anh ngữ), Wisdom, 1992
• Gentle Bridges – Conversation with the Dalai Lama on the Science of the Mind, (Jeremy Hayward vaø Francisco J Varela biên tập), Shambhala, USA, 1992
• Cutting Through Appearances: Practice and Theory of Tibetan Buddhism, (Geshe Lhundup Sopa and Jeffrey Hopkins biên tập), Snow Lion, New York, 1989
• Myriad World, Jamgön Kongtrul, Snow Lion, 1995
• Pure Appearance: Development and Completion Stages in Vajrayana Practice, H. H. Dilgo Khyentse Rinpoche, Snow Lion, 1996

Thuật ngữ

 

Abhidharma: A-tì-đạt-ma hay Vi diệu pháp
Abhidharmakosha: At-tì-đạt-ma Câu-xá luận, của ngài Vasubandhu. Bản dịch Anh ngữ (dịch lại từ bản dịch tiếng Pháp) của Leo M. Pruden, Abhidharmakoshabhashyam, Berkeley, California, Asian Humanities Press, 1991.
Abhidharmasamuchchaya: Đại thừa A-tì-đạt-ma tập luận, của ngài Asanga. Bản dịch Pháp ngữ của Walpola Rahula, Le Compendium de la Super-Doctrine (Philosophie d” Asanga), Paris, Ecole Française d”Extrême-Orient, 1971. Tên Anh ngữ là Compendium of Knowledge. 
Anatman: Vô ngã.
Arha: A-la-hán. Trở thành A-la-hán là mục tiêu cuối của Shravakayna (Thanh văn). Một dạng Niết-bàn, vượt qua tái sinh nhưng chưa đạt Phật quả.
Arya: thánh.
Aryadeva: Thánh Đề-bà (Thánh Thiên) Học trò của ngài Nagarjuna và tác giả của nhiều bộ luận giải quan trọng. 
Asanga Vô Trước. Đại sư vĩ đại người Ấn (vào khoảng thế kỉ thứ 4), anh em cùng mẹ với Vasubandhu (Thế Thân), người đã soạn ra nhiều trước tác quan trọng của Đại thừa, được ban truyền từ đức Di-lặc Bồ Tát. Ngài đặc biệt được xem là người đề xướng Duy Thức Tông
Asura A-tu-la, giới thần
Atman Hữu ngã. 
Avidya Vô minh
Bhavaviveka Phân Biệt Minh Bồ Tát. Có khi viết là Bhavya, một hình ảnh quan trọng trong trường phái Svatantrika-Madhymaka. 
Bodhi Bồ-đề, giác trí, giác ngộ. Sự gạn lọc tinh tế khỏi mê mờ và liễu ngộ được mọi phẩm chất (của thực tại). 
Bodhicharyavatara Đại giác nhập môn hay Nhập Bồ-đề hành luận. Tác phẩm của ngài Shantideva. Các bản dịch Anh ngữ bao gồm A Guide to Bodhisattva's Way of Life của Stephen Batchelor, Dharamsala, Library of Tibetan Works and Archieve, 1979; và The Way of Bodhisattva, của Padmakara Translation Group, Shambhala, Boston, 1997. 
Bodhichitta Bồ-đề tâm
Bodhisattva Bồ Tát. Người quyết định đưa mọi chúng sinh đến liễu ngộ và là người thực hành Bồ Tát đạo của Đại thừa.
Buddhapalita Phật Hộ. Đại sư Ấn Độ sống vào thế kỉ 4, người sáng lập Prasangika-Madhyamaka. 
Chandrakirti Nguyệt Xứng. Vào khoảng thế kỉ 3 - 4, đại sư vĩ đại nhất của trường phái Prasangika-Madhymaka. 
Chantideva Tịch Thiên
Chatuhshatakashastrakarika Trung Đạo tứ bách kệ tụng, tác phẩm của ?ryadeva. Các bản dịch Anh ngữ của K. Lang, ?ryadeva's Chatuhshataka: On the Bodhisattva's Cultivation of Merit and Knowledge, Indiske Studier, Vol. VII, Copenhagen, Akademish Forlag, 1986; và Geshe Sonam Rinchen và Ruth Sonam, Yogic, Deeds of Bodhisattvas: Gyelstap on ?ryadeva's Four Hundred, Ithaca, Snow Lion, 1994. 
Chittamatra Duy thức tông, trường phái Duy tâm
Dasabhumika Sutra Thập Địa kinh
Dharmakirti Pháp Xứng. Đại sư Phật giáo nổi tiếng trong thế kỉ 7. 
Duhkha đau khổ
Gelug Hoàng mạo phái hay Cách-lỗ phái
Kalachakra Thời luân, hay Bánh xe thời gian
Karma nghiệp. 
Karuna từ bi, từ ái, bác ái, từ tâm, nhân từ
Klesha ý tưởng và xúc cảm ưu phiền, phiền não
Madhyamaka Trung quán. Viết theo ý nghĩa là “trung đạo”, trường phái triết học Phật giáo cao nhất trong bốn trường phái chính. Đầu tiên được diễn giải bởi Nagarjuna và được xem là cơ sở của Kim cương thừa. Trung đạo nghĩa là không chấp giữ theo các quan điểm cực đoan, đặc biệtcác chủ nghĩa thường hằngchủ nghĩa hư vô
Mahayana Đại thừa, nghĩa là “cổ xe lớn”, phương tiện của các Bồ Tát. Điều đó là vĩ đại vì mục tiêu của Đại thừatoàn giác (Phật quả), vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Mahayana-uttaratantrashastra Đại thừa tối thượng luận, Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận. Bài luận này được quy cho là của ngài Maitreya (Di-lặc). Bản dịch Anh ngữ từ tiếng Phạn của E. Obermiller, Sublime Science of the Great Vehicle to Salvation in Acta Orientalia 9 (1931), trang 81 - 306; và Takasaki, A Study on the Ratnagotravibhaga, Rome, ISMEO, 1966. Bản dịch Anh ngữ từ tiếng Tây Tạng của Ken và Katia Holmes: The changeless Nature, Dumfriesshire, Karma Drubgyud Darjay Ling, 1985. Tên Anh ngữ: Supreme Continuum of Mahayana. 
Maitreya Di-lặc. Vị Phật tương lai, vị Phật thứ 5 xuất hiện trong vũ trụ hiện tại.
Majjhima Nikaya Trung A Hàm (Trung Bộ Kinh). 
Mandala Mạn-đà-la. Vũ trụ với cung điện của một vị thánh ở trung tâm, được mô tả như là sự hình tượng hóa trong thực hành Mật tông
Manjushri Văn-thù-sư-lợi. 
Mantra chú, mật chú, thần chú. Biểu thị của giác ngộ tối cao trong dạng âm thanh. Các âm tiết được dùng trong các thực hành hình tượng hóa để cầu khẩn các vị thánh trí huệ. 
Meru Núi Tu-di. 
Moksa Mộc-xoa; giải thoát. Tự do khỏi luân hồi, đạt quả vị A-la-hán hoặc quả vị Phật.
Mulamahyamakakarika Căn bản Trung quán luận tụng, Trung quán luận. Dịch phẩm của Nagarjuna. Bản dịch Anh ngữ của F. Streng, Emptiness: A Study in Religious Meaning, Nashville and New York, Abingdon Press, 1967. Xem thêm K. Inada, Nagarjuna: A Translataion of his Mulamadhyamaka, Tokyo, Hokuseido, 1970. 
Mulamahyamakavrttiprasannapada Trung quán minh cú luận. Một luận giải của Chandrakirti về Mulamahyamakarika của ngài Nagarjuna. Bản dịch Anh ngữ của một số chương có trong M. Sprung, “Lucid Exposition of the Middle Way”. Tên Anh ngữ: Clear Words. 
Nagarjuna Long Thọ Bồ Tát. Đại sư người Ấn của thế kỉ 1 - 2, là người diễn giải giáo lý Trung quán, và soạn thảo nhiều luận giải triết học.
Nirodha diệt, Diệt đế, trạng thái chấm dứt khổ.
Nirvana Niết-bàn. 
Paramarthasatya Chân đế
prajna Bát-nhã, tuệ, huệ, trí huệ
Pramanavarttika Xem Pramanavarttikakarika. 
Pramanavarttikakarika Chú giải tập lượng luận, Lượng thích luận. Tác phẩm của ngài Dharmakirti. Tên Anh ngữ: Commentary on the Compendium of Valid Cognition. Xem thêm Dreyfus, Georges B. J. Recognizing Reality: Dharmakirti's Philosophy and Its Tibetan Interpretations. Albany: State University of New York Press, 1997. 
Prasangika Trường phái Cụ duyên. 
Prasannapada Minh cú luận. Xem ở tên đầy đủ là Mulamahyamakavrttiprasannapada. 
Pratimoksha Giới luật
Pratiyasamutpada Duyên khởi, có nguồn gốc phụ thuộc.
Pretas ngạ quỷ 
Samadhi định. 
Samsara luân hồi. Chu trình của sự sống chưa giác ngộ trong đó chúng sinh bị luân chuyển không kết thúc bởi các xúc cảm tiêu cực và nghiệp từ trạng thái tái sinh này sang trạng thái khác. Cội rễ của luân hồivô minh
Samvaharasatya Tục đế
Samyutta Nikaya kinh Tạp A Hàm
Sarvastivadin Nhất thiết hữu bộ
Sautrantika Kinh lượng bộ.
Shamatha tĩnh lặng. “Bình thản trường cửu”. Thực hành thiền của việc làm cho tâm thức bình thản để tuần tự thanh thản, hoàn toàn thoát khỏi các nhiễu loạn của ý tưởng
Shantideva Tịch Thiên. Nhà thơ và là đại sư vĩ đại của thế kỉ 7. 
Shariputra Xá-lợi-phất. 
Shila giới
Shravaka Thinh văn. Người theo cổ xe gốc của Phật giáo (Thinh văn thừa) với mục đích đạt được giải thoát khỏi đau khổ của luân hồi, tức là một vị A-la-hán. Không như các Bồ Tát, các Thinh văn không mong cầu đạt được giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà hướng đến sự giải thoát tự thân là chính. 
Shravakayana Thinh văn thừa. Cổ xe của nhừng người lắng nghe trên cơ sở các giáo huấn về Tứ diệu đế.
Shunyata Tính Không. Việc thiếu vắng của sự tồn tại thật sự trong mọi hiện tượng.
Siddhartha Tất-đạt-đa, Sĩ-đạt-đa. Vị thái tử sau này đắc đạotrở thành đức Phật Thích-ca.
Sutra kinh điển. Những giáo lý của cả Thinh văn thừa và Đại thừa.
Svatantrika Y tự khởi tông.
Tantrayana Kim cương thừa, Mật thừa. Xem thêm Vajrayana.
Theravada Bộ phái Nguyên thủy, Trưởng lão bộ
Tsongkhapa Tông-khách-ba
Uttaratantra Tối thượng luận. Xem ở tên đầy đủ là Mahayana-uttaratantrashastra.
Vaibhashika Tì-bà-sa luận bộ.
Vajrayana Kim cương thừa, Mật thừa, dịch nghĩa là “cổ xe kim cương”.
Vasubandhu Thế Thân Bồ Tát. Đại sư vĩ đại người Ấn, anh em cùng mẹ với ngài Asa?ga, là người soạn thảo các bài luận triết học cổ điển về các học thuyết của Nhất thiết hữu bộ, Kinh lượng bộ, và Duy thức tông.
Vipashyanan Minh sát. Thiền định thấu suốt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12499)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14097)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11170)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11979)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13107)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13610)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11323)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12891)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13033)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11602)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17864)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11408)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11468)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18956)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12523)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13126)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11797)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11683)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12736)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12622)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13933)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12957)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12911)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13273)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12739)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12667)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11717)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11712)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12316)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12374)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19808)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11949)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11981)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16868)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12660)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15051)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16099)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12861)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12210)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11905)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13141)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16494)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13222)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12476)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11806)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19829)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11138)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11245)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10395)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11080)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10025)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11735)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant