Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 1

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9284)
Phần 1


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 Phần Một

Bây giờ giải thích về tên kinh. Bài mà chúng ta học hay quyển kinh chúng ta học đây là do Ngài Cưu La Ma Thập. Tuy rằng trong ba nhà dịch đều có nổi tiếng. Nhất là như Ngài Huyền Trang đó, sau này rất nổi tiếng. Nhưng mà xét ra, ba bản dịch đó đối chiếu lại, hầu hết từ trước đến giờ, những nhà học Phật đều lấy bản dịch của Ngài Cưu La Ma Thập làm định bản. Tức là cái bản quyết định hơn. Còn những bản kia thì không bì kịp. Bởi vậy cho nên bây giờ chúgn ta học là chọ cái bản của Ngài Cưu La Ma Thập. Bản của Ngài Cưu La Ma Thập có hai tên: một tên là “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh”. Còn một tên khác là “Bất khả Tư Nghì Giải Thoát Kinh”. Bây giờ tôi tuần tự giải thích hai tên đó cho quí vị hiểu. 

Bây giờ tên thứ nhất là “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh”. Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch. Danh: Thường thường chúng ta nói là tên, nhưng mà ở đây không có nghĩa là tên, cái tên trong sạch thì nó vô nghĩa. Bởi vì chữ danh ở đây nó nằm ở trong mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên mà cái phần thức, thức là duyên gì? Danh sắc. Như vậy chữ Danh và Sắc đó. Danh là tinh thần, là tâm, sắc là vật chất. Như vậy thì chữ danh là chỉ cho phần tâm, phần tinh thần. Tịnh Danh có nghĩa là cái tâm thanh tịnh, tâm trong sạch. Vì sao? Bởi vì Ngài Duy Ma Cật là một con người, một ông Trưởng giả giàu có, thê thiếp đầy nhà. Tiền bạc, tôi tớ đầy đủ mà ông không dính, không mắc trong danh, trong lợi, trong tài, trong sắc. Vì vậy mà nói tâm ông trong sạch. Vì vậy mà gọi là Tịnh Danh. Còn Vô Cấu là dịch ngược lại. Vô Cấu là không có nhơ, không nhớp tức là trong sạch chớ gì. Cho nên hai cái tên đó nó không có khác nhau. Nhưng mà lấy cái tên Duy Ma Cật mà giảng đó, quí vị thấy có khi nó cũng hơi quá. Bởi vì thường thường cái tên của người, không nhất thiết là đúng với cái nghĩa của cuộc sống con người đó. 

Tôi thí dụ: Như bây giờ có một người nào đó, họ đặt tên là Hữu Phước nhưng mà họ nghèo cháy da. Như vậy cái tên đó và cái cuộc sống đó, nó có giống nhau không? Thì thiếu gì, mình thấy có nhiều người tên đẹp vô cùng, mà tới nhìn họ thì thấy không có gì đẹp hết. Như vậy thì cái tên chỉ để mà gọi thôi, chớ không nhất thiết cái tên đó nó lại mang đầy đủ ý nghĩa cuộc sống con người ấy. Đó là trường hợp thứ nhất. 

Trường hợp thứ hai, có ai đó đặt tên, muốn cho con mình đẹp thì đặt tên làm sao. Như muốn cho người ta nghe tên tưởng nó là quí là đẹp. Thí dụ đặt tên cho gái là Bạch Hoa. Tức là hoa trắng. Nhưng mà nó lại đen thùi. Như vậy thì đứa con da đen mà đặt tên là Bạch Hoa. Mình nghe Bạch Hoa thì mình tưởng đâu người đó trắng lắm, phải không? Nhưng mà họ đen rồi sao? Như vậy cái tên nó không phải là nhất thiết hết cái ý nghĩa của họ, phải không? 

Nhưng mà ở đây tôi sở dĩ giảng ý nghĩa là đứng về mặt lý của các vị Bồ tát. Bởi vì thường thường trong Kinh Đại Thừa có cái tánh cách ý nghĩa về tâm lý nhiều hơn. 

Thí dụ: Như trong kinh Viên Giác. Mỗi một vị Bồ Tát đứng ra hỏi phần nào đó, thì cái phần đó mang tên vị Bồ Tát đó. Mà chính phẩm đó nói đúng ý nghĩa của cái tên đó. Thí dụ như tên Ngài Viên Giác. Bồ tát Viên Giác thì cái phẩm đó nói về Viên Giác. Như vậy thì mỗi cái tên của Bồ Tátmang theo cái ý nghĩa, hành động của các Ngài cho nên mình giảng chữ Tịnh Danh của Ngài Duy Ma Cật đây là giảng theo ý nghĩa của Bồ Tát. Chớ còn thực tế, cuộc sống không phải tên nào cũng có ý nghĩa như vậy, phải không? Có những tên nó rất là đẹp, mà con người nó không có đẹp gì hết, phải không? Có tên rất là tầm thường mà con người đẹp. Thì cái đó nó không có cố định. Như vậy tôi giảng cho quí vị hiểu cái ý nghĩa đó. 

Rồi tới chỗ khác, cũng tên kinh này là “Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Kinh”. Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Kinh nghĩa là làm sao? Tức là sự giải thoát không thể nghĩ bàn. 

Bây giờ tôi thí dụ như vầy để mình biết ý nghĩa của bộ kinh. Thí dụ như có người họ muốn dứt hết những nhiễm ô trần tục. Cho nên ngày xưa họ giàu có sang trọng. Bây giờ họ bỏ hết tất cả sự nghiệp tài sản, vợ đẹp, con yêu gì bỏ hết để đi tu. Khi vào chùa thì họ một bề thanh tịnh tu hành, không còn có ước mơ những dục lạc thế gian nữa. Cũng không còn dính mắc những dục lạc thế gian nữa. Những vị đó giải thoát mình dễ hiểu không? Cái giải thoát đó dễ hiểu quá. Nghĩa là ổng gỡ ổng bỏ hết rồi, cho nên tới đây ông là hoàn toàn thanh tịnh. Còn ngược lại như ông Duy Ma Cật, ổng ở trong nhà làm trưởng giả, vợ con đầy đàn, tiền của cả kho đụn, đầy cả kho đụn. Mà nói giải thoát thì làm sao tin nổi, phải không? cái giải thoát đó khó mà tin nổi. Bởi vì có vợ có con, rồi tiền của, rồi tôi tớ, đủ hết như vậy mà làm sao nói ổng giải thoát. Như vậy chính ông Duy Ma Cật ở trong cái cảnh đầy dẫy những nhiễm ô đó mà ổng không dính mắc. Thì cái giải thoát đó có thể nghĩ bàn được không? Bởi vậy cho nên nói rằng giải thoát không thể nghĩ bàn. Đó là trường hợp ông Duy Ma Cật. Chính kinh này diễn tả cái giải thoát đó đó. Ông ở trong hoàn cảnh như vậy mà tâm ông không dính không nhiễm. Mà ông làm tất cả Phật sự không chướng không ngại. Cho nên cái giải thoát đó gọi là giải thoát bất khả tư nghì. Như vậy quí vị mới thấy ý nghĩa của bộ kinh một phần. Đây tôi cũng nói đơn giản chớ không nói hết. 

Rồi kế đó nữa, Kinh Duy Ma Cật này có liên hệ đến Thiền tông khá nhiều. Bởi vì kinh này, chúng ta nhớ đọc sách thiền, một vị nào mà ngộ lý thiền từ kinh Duy Ma Cật, quí vị nhớ không? Chính Ngài Thiền Sư Huyền Giác. Ngài nghiên cứu kinh Duy Ma Cật, Ngài phát ngộ. Khi ngộ rồi, thì Huyền Sắc đến, nói chuyện với Ngài thì thấy rõ ràng cái hiểu của Ngài đúng như cái hiểu của chư Tổ, không có khác. Bởi vậy mới xúi dục Ngài đi đến Lục Tổ, để nhờ Lục Tổ ấn chứng cho. Rồi chính Ngài khi đến Lục Tổ học thêm nhiều ít? Chỉ là qua câu chuyện đối đáp thì được Lục Tổ ấn chứng rằng: Ờ! Đúng rồi, cái hiểu của ông đúng như thật. Không có sai chạy. Ngang đó thì Ngài trở về, chớ không có học hỏi gì thêm hết. 

Như vậy để thấy rằng cái tinh thần giải thoát của Ngài đã sẵn đủ. Chớ không phải do tới Lục Tổ Ngài mới chỉ dạy cho rồi mới giải thoát sau. Hay là ngộ đạo sau cái ngộ của Ngài là ngộ là ngộ từ kinh Duy Ma Cật này. Bởi vậy cho nên kinh Duy Ma Cật cũng có ảnh hưởng lớn trong giới tu thiền của chúng ta. Vì vậy mà học nó cũng có cái tầm vóc như học những sách Thiền vậy. Đó là tôi nói tổng quát rồi, bây giờ đi tới chánh văn. 

Yï nghĩa phẩm kinh này. Phẩm này tên là Phẩm Phật Quốc thứ nhất. Hồi nãy tôi đã giảng tên kinh và người dịch rồi. Bây giờ nói về tên phẩm. Phàm trong những bộ kinh mà phẩm đầu đều là phẩm Tự. Tự tức là lời tựa đó. Nhưng mà đây lại không để phẩm Tự, mà lại để là phẩm Phật Quốc. Lý đáng cái phẩm này phải có chia ra hai phần: Phần thứ nhất là nói về Tựa. Phần thứ hai mới nói về Phật Quốc

Phần thứ nhất nói tựa tức là chỉ cho từ “Như Thị Ngã Văn” cho tới tất cả đều câu hội”. Rồi bắt đầu Phật thuyết pháp đó. Đó là phần tựa. Vì đó là phần chung. Kể diễn tả trong hội. Nhưng mà ở đây lại không nói phần tựa đó, mà lại nói Phật Quốc. Thì coi như đã khỏa lấp phần tựa rồi. Như vậy thìý nghĩa gì? Bởi vì Ngài Cưu La Ma Thập, Ngài thấy rằng trong toàn bộ kinh Duy Ma Cật đều lấy cái chủ đích là “Thanh tịnh cõi Phật”. Chủ đíchthanh tịnh cõi Phật, mà muốn thanh tịnh cõi Phật thì phải y cứ nơi tâm chúng sinh. Bởi vậy nên muốn có cõi Phật thanh tịnh là quả, thì tâm chúng sinh là nhân. Có cái tâm thanh tịnh thì mới có cái cõi Phật thanh tịnh. Nếu tâm chưa thanh tịnh thì không thể nào có cõi Phật thanh tịnh được. Bởi vậy nên từ đầu chí cuối bộ kinh đều nhằm thẳng cái mục đích đó. Nghĩa là tâm tịnh thì cõi Phật mới tịnh. 

Như vậy phẩm Phật Quốc này có thể là tổng quát toàn bộ kinh. Cho nên không còn nói tựa riêng của nó mà nói phần chung cho toàn bộ. Vì vậy mà Ngài không có để tên cái phẩm tựa mà để tên phẩm Phật Quốc. Đoạn sau lời hỏi của các vị Bồ Tát đó sẽ hiển bày cái lý này. Tôi nói đại khái cho quí vị biết về ý nghĩa của cái phẩm. Bây giờ bắt đầu vô trong chữ nghĩa. Ráng dò chữ Hán lại kỹ kỹ một chút. 

Tôi nghe như vầy một hôm Phật ở rừng Tỳ Gia Ly, vườn cây Am La, cùng với chúng đại Tỳ Kheo tám ngàn người chung hội. Bồ Tát có Ba vạn hai ngàn đều là bậc thiên hạ được biết. Chúng sở tri thức đó tức là thiên hạ đều nghe đều biết. Cái trí huệ lớn bổn hạnh thiệt thảy đều thành tựu

Đây là diễn tả cái khả năng, cái đức độ của các vị Bồ Tát đó. 

Do cái oai thần của chư Phật mà dựng lập nên. Các vị đó là cái thành để hộ phápthọ trì chánh pháp. Các vị Bồ Tát đó hay rống tiếng rống của Sư Tử. Cái danh tiếng của các Ngài nó đồn đãi khắp mười phương. Các Ngài làm bạn không đợi chúng thỉnh, mà để an ủi họ. (Chúng nhơn bất thỉnh hữu di an chi. Nghĩa là mọi người không thỉnh mà vẫn làm bạn để an ủi cho họ). Và nối tiếp Tam Bảo. Hay khiến không có dứt hàng phục các ma quáichế ngự chúng ngoại đạo”. 

Đó là tôi giảng lần đoạn này trước cho quí vị thấy. Đây là tán thán công đức của ba muôn hai ngàn bị Bồ Tát. Ba muôn hai ngàn vị Bồ Tát có mặt trong hội này đều là những vị có đầy đủ công đức như ở đây kể. Nhưng mà cái điều mình thấy, các nơi luôn luôn kiết tập thì để nói rằng có 1250 vị Tỳ Kheo, phải không? Theo Phật hay là câu hội. Còn ở đây nói có được bao nhiêu. Có 8.000 người câu hội mà không kể tên ai hết. Mà chỉ kể các vị Bồ Tát thôi. Như vậy để thấy cái bản kinh này không có đề cao Tỳ Kheo, mà là đề cao Bồ Tát. Bồ Tát ở đây là Bồ Tát tại gia, phải không? Đó là đặc điểm mà mình thấy. Những vị Bồ Tát đó trong những đặt điểm nêu lên cho chúng ta thấy. 

Trước hết những vị Bồ Tát này là những người mà tất cả thiên hạ ai cũng nghe cũng biết. Trí Tuệ các Ngài rộng lớn. Các hạnh của các Ngài đều thành tựu. Các Ngài nhờ đã đượcc chư Phật lâu đời dựng lập nên. Các vị Bồ Tát này là cái thành hộ pháp. Tức là ủng hộ chánh pháp. Rồi cũng thọ trì chánh pháp. Rồi các Ngài hay giảng dạy. Rồi danh tiếng các Ngài đồn khắp mười phương. Cái câu hay nhất là các Ngài làm bạn không đợi thỉnh mời, phải không? Mình bây giờ muốn giảng thì sao? Có ai mời mình mới giảng. Như vậy mình chỉ là bạn khi nào có kẻ mời. Còn các Ngài làm bạn mà không đợi thỉnh mời. Đó là để nói lên cái tâm của Bồ Tát. Khi thấy cần làm lợi ích cho chúng sinh thì lăn xả vào mà làm. Chớ không phải đợi mời, đợi thỉnh. 

Rồi các Ngài có cái khả năng để mà nối nắm Tam bảo. Duy trì tam bảo, hàng phục ngoại ma... Tức là ma quáingoại đạo

Thảy đã thanh tịnh hằng lìa Cái Triền. Chữ cái là ngũ cái. Triền là Thập Triền. Tâm thường an trụ trong cái vô ngại giải thoát. nào là Niệm, Định, Tổng Trì, Biện tài không dứt. 

Bốn cái đó là chỉ cho khả năng của các Ngài. Niệm nè, Định nè, Tổng trì: Tổng trì tức là gồm hết, nhớ hết. Biện tài tức là cái tài biện luận. Đó là mấy phần riêng. Rồi bây giờ tới Lục Độ. Nào là: 

Bố thí, Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và cái sức phương tiện không có cái gì chẳng đủ. Hay là nói đều đầy đủ. 

Chữ Vô Bất cắt nghĩa đầy đủ là “Đều”. Vô là “Không”. Bất là “Chẳng”. Không chẳng nghĩa là làm sao? Vô Bất Cụ Túc: Không chẳng đầy đủ. Nghĩa là đều đầy đủ. Nhớ mấy cái chữ đó. 

Đều hông có sở đắc, không có khởi pháp nhẫn

Câu này quí vị nghe, “Đến”, Chữ đó là “Đến”. Đãi là “Đến”. Là “Kịp” đó. Đến được cái vô sở đắc, không khởi pháp nhẫn. Như mình bây giờ do tâm ý mình còn sân si nhiều, ai động tới mình nổi giận. Mà muốn tu thì phải làm sao? Phải đè cơn giận xuống. Đè cơn giận xuống gọi là gì? Là nhẫn. Nhẫn là nhịn đó. Như vậy nhờ nhẫn mà mình mới tu. Chớ còn người ta nói tới mà mình không nhẫn thì sao? Tức nhiên mình dễ sân si lắm, phải không? Nhưng mà tại sao ở đây các Ngài không có nhẫn. Không khởi pháp nhẫn. Bởi vì tham sân si không còn. Mà không còn gì khởi nhẫn. Cho nên mình tưởng mình nhẫn hay đó là mình tu hay, phải không? Nhẫn hay đó là tại sân nhiều. Sân nhiều cho nên phải nhẫn nhiều. 

Còn người hết sân nrồi còn gì phải nhẫn. Vì vậy cho nên nói vô sở đắc. Bởi vô sở đắc rồi thì còn gì mà nhẫn nhục

Đã hay tùy thuận chuyển bánh xe bất thối. Khéo hiểu các tướng hay là tướng các pháp. Biết được cái căn của chúng sinh. Che đậy tức là che mát các đại chúng được vô sở quí. 

Mấy chỗ đó phải nhớ cho kỹ. 

Công đức trí tuệ, lấy công đức trí tuệ để mà tu nơi tâm. Còn lấy cái tướng hảotrang nghiêm nơi sắc thân làm đệ nhất. Bỏ hết các đồ trang sức ở thế gian

Ơí chỗ này quí vị thấy có cái lạ nữa. Câu nói lấy công đức trí tuệ mà tu ở đây, thì cái đó dễ hiểu rồi. Còn nói lấy cái tướng hảo, tức là tướng tốt để mà trang nghiêm thân. Vì vậy sắc thân là bậc nhất. Rồi xả bỏ các đồ trang sức ở thế gian. Thường thườngthế gian người ta nói có trang sức thì mới đẹp. Bây giờ bỏ hết đồ trang sức thì làm sao mà đẹp. Nói là trang nghiêm cái thân, thân tốt đẹp. Muốn trang nghiêm thân thì phải có các đồ trang sức chớ, phải không? Mà tại sao trang nghiêm thân tốt đẹp lại bỏ các đồ trang sức? Là bởi thế này. Thường thường chúng ta muốn cho thân đẹp cho nên mới dùng những món đồ trang sức để cho nó tăng cái vẻ đẹp. Mà đồ trang sức là cái bên ngoài, cái phương tiện bên ngoài. 

Còn với Bồ tát này thì lấy ba hai tướng tốt của Phật đó, để mà trang nghiêm thân. Ba hai tướng tốt đều do công tu mà ra, phải không? Cái công tu hành mà được. Cho nên muốn trang nghiêm thân thì lấy công đức tu hành để cho thân có đủ tướng tốt. Chớ không phải mượn cái món đồ ở ngoài trang sức cho thân đẹp. Nó khác với mình bây giờ. 

Bởi vì trong ba mươi hai tướng tốt của Phật, Phật nói mỗi tướng đều do công tu của Ngài. Tỷ dụ như tướng lưỡi rộng dài là do Ngài tu cái hạnh không nói dối, phải không? còn cái trái tai dài, là sống dai, là do Ngài tu cái hạnh không giết hại chúng sanh... Mỗi cái tướng tốt đều là công hạnh tu của Ngài mà được. 

Như vậy thì muốn được tướng tốt đó thì phải tu những công hạnh đó được. Lấy cái đó để trang sức thân mình, chớ không có mượn những đồ trang sức hoa hòe ở bên ngoài. Như vậy mới hiểu rằng các Ngài bỏ hết những đồ trang sức ở thế gian là vậy đó. 

Cái tướng tốt của các Ngài nó cao và xa, vượt cả núi Tu Di. Các Ngài tin sâu và kiên cố ví nhưKim Cương. Cái pháp bảo này khắp soi như là mưa nước cam lồ. Ơí trong chúng nói pháp cách vi diệu đệ nhất. Các Ngài ở trong chúng nói pháp vi diệu đệ nhất. Các Ngài thâm nhập được lý duyên khởi và đoạn các tà kiến. Không có mắc kẹt hai bên có và không, và không còn những tập khí thừa. Diễn pháp không có sợ ví như là con Sư tử rống. Những lời nói của các Ngài giảng nói ra như là tiếng sấm vang. Không có lượng và đã quá cái hạn lượng. 

Bởi vì cái tiếng của Ngài giảng nó vang xa. Nó không có giới hạn. Nó quá cái hạn lượng. 

Nhóm họp các pháp bảo rộng như biển. 

chữ “Như hải đạo sư” đó. Tức là ông thầy dẫn đường như biển thì nghe nó khó hiểu. Bởi vì pháp của Phật nói ra, tùy bệnh mà cho thuốc. Cho nên chúng sinh bệnh nhiều, các pháp Phật cũng nhiều. Gom hết những pháp đó thì nó rộng như biển. Mà pháp đó là cái hướng để dìu dắt chúng sinh ra khỏi bể khổ. Cho nên nói là đạo sư. Vì vậy mà nói là nhóm họp các pháp bảo rộng lớn như biển. Nó là phương tiện dìu dắt chúng sanh như bậc thầy. 

Thấu suốt được các pháp thâm diệu, cái nghĩa thâm diệu của các pháp. Khéo biết cái chỗ qua lại của chúng sanh. Hay là khéo biết cái chỗ qua lại và tâm sở hành của chúng sinh. Gần bậc Phật vô đẳng đẳng, tự tại huệ, thập lực, tứ vô quí, thập bát bất cộng

Vì các vị Bồ Tát này là thường gần gũi Phật. Phật là bậc vô đẳng đẳng, được tự tại huệ, được Thập Lực, được Tứ Vô Sở Quí, được Thập Bát Bất Cộng

Các vị Bồ Tát này đã đóng cửa tất cả các đường ác mà sanh trong ngũ thú để hiện thân kia. 

Câu này có mâu thuẩn không. Nói các Ngài đã đóng cửa tất cả đường ác. Mà đã đóng cửa các đường ác. Tại sao lại hiện sanh trong ngũ thú. Hiện thân sanh trong ngũ thú là sao? Nếu đóng cửa các đường ác rồi thì đâu có bị sanh trong ngũ thú. Tại sao đóng cửa đường ác mà lại hiện thân trong ngũ thú. Thì đây để thấy rằng, đóng cửa các đường ác là cái nghiệp để tạo sinh trong các cõi ác, cõi xấu đó nó không còn nữa. Các Ngài không còn nghiệp để sanh trong tam giới. Hay là trong lục đạo. Nhưng mà các Ngài lại vì lòng đại bithệ nguyện sanh trong lục đạo để giáo hóa chúng sinh. Bởi vậy cho nên đóng hết các cửa trong các đường ác nhưng mà vẫn hiện thân sanh ở trong ngũ thú, đó là cái chỗ này. Sanh trong ngũ thú để làm gì? 

Vì làm ông thầy thuốc. Vua thầy thuốc hay ông thầy thuốc lớn, khéo trị lành bệnh cho chúng sanh. Nó hợp với bệnh mà cho thuốc, khiến đều được lành bệnh. Các ngài vô lượng công đức thảy đều thành tựu. Vô lượng cõi Phật thảy đều trang nghiêm thanh tịnh. Ai mà thấy hay nghe được các Ngài đều có lợi ích. Vô bất mong ích đó. đều có lợi ích. Những việc làm của các Ngài đều không có luống uổng. Như thế tất cả công đức thảy đều đầy đủ. 

Như vậy thì tán thán công đức của những vị đó rất đầy đủ. 

Tên của các Ngài là Bồ Tát Đẳng Quán, Bồ Tát Bất Đẳng Quán... cho đến sau chót là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử. Như thế... ba muôn hai ngàn người. 

Tức là ba muôn hai ngàn vị Bồ Tát câu hội. 

Lại có một muôn vị Phạm Thiên, Phạm Thiên Vương, Thi Khí... từ ở tứ thiên hạ khác mà đến chỗ Phật và để nghe pháp. Lại có một muôn hai ngàn Thiên Đế cũng từ ở tứ thiên hạ khác đến, ngồi ở trong hội, cùng những vị đại oai lực, chư Thiên, Long,, Thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà thảy đều ngồi trong hội. Những vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều đến ngồi ở trong hội. 

Khi ấy Phật cùng chúng vô lượng trăm ngàn cung kính vây quanh mà vì nói pháp. Thí như ngọn núi Tu Di lớn nó hiển hiện ở trong biển cả. Làm An Sử chúng bảo như tòa. 

Tức là Ngài ngồi trên cái tòa An sử. Tức là ngồi yên đó. ngài ngồi yên trên tòa Sư tử

Các thứ báu, bảy báu đó che hết tất cả các Đại chúng mới đến. Tức là Ngài ngồi trên tòa Sư tử bảy báu thì hào quang sáng của Ngài phủ hết, trùm hết các đại chúng

Như vậy đoạn này tánh cách là tựa, là dẫn. Cái buổi mà Phật sắp thuyết pháp đây. Có những ai tụ hội về để dự trong buổi này. Số người dự, kể ra cho chúng ta biết. Và buổi họp đó ở tại chỗ nào... như vậy đó là tánh cách tựa. Còn chưa nói gì tới giáo lý. Bây giờ đọc tiếp tới phần giáo lý

Khi ấy ở thành Tỳ Da Ly có những ông Trưởng Giả

Cái chữ “Tử” này, thiên hạ cứ mắc kẹt. Trưởng giả tử là cho ông trưởng giả phải không? Còn nếu nói Khổng Tử là con ông Khổng Tử phải không? Lão Tử là con ông Lão Tử phải không? Chữ “Tử” không phải nghĩa là “Con” không. Mà còn có nghĩa là “Ông”. 

Tức là có những ông Trưởng giả tên là Bảo Tích nè, cùng với 500 ông Trưởng giả đều mang cái lọng bảy báu đến chỗ Phật. Đầu mặt lễ chân Phật. Mỗi vị lấy cái lọng của mình mà dâng lên cúng dường Phật. Phật dùng oai lực khiến cho các lọng báu hợp lại thành một cái lọng, để che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Mà những tướng rộng dài của thế giới này thảy đều hiện ở trong. Lại cái tam thiên đại thiên thế giới này, các núi Tu Di, núi Vân, núi Tuyết, núi Mục Chân Lân Đà, núi Ma Hạ Mục Lân Đà, núi Hương, núi Bảo, núi Kim, núi Hắc, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi. Rồi biển cả sông ngòi, các dòng suối và mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thiên cung, long cung, cung của các vị tôn thần. Thảy đều hiện cái lọng báu ấy. Lại chư Phật ở mười phương, chư Phật đang nói pháp, cũng đều hiện ở trong núi ấy. Trong cái lọng báu ấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30314)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34457)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10387)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12532)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12618)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13108)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14232)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant