Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 3

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8811)
Phần 3


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 Phần 3

Cái pháp tam chuyển pháp luân tức là pháp Tứ Đế, đó là cái pháp xưa nay thường thanh tịnh. Chư thiên và người nhờ được pháp này mà chứng được đạo quả. Khi đó mới có đầy đủ tam bảo. Phật là Phật bảo. Pháp Tứ ĐếPháp bảo. Năm anh em ông Kiều Trần Như ngộ đạo thành Tỳ KheoTăng Bảo

Do cái pháp diệu này, dùng cái này mà cứu tế quần sinh. Một phen nhận không có lui sụt. Thường được yên lặng sáng suốt

Hai câu này là để nói kết quả của cái pháp mà Phật nói. Cái pháp vi diệu của Phật nói đó, dùng cái pháp đó để mà cứu tế quần sinh. Ai mà nghe được cái pháp đó rồi đều bất thối chuyển. Rồi đi đến chỗ thường vắng lặng thanh tịnh

Độ được già, bịnh, chết. Là bậc thầy thuốc, độ được già, bịnh, chết nên lễ cái pháp hải. Cái đức nó không có ngằn mé. Bởi vậy cho nên lễ cái pháp rộng lớn như biển, không có ngằn mé. 

Hai câu này để tán thán tiếp về pháp đó. Phật dùng pháp này mà độ tất cả những người đã tin tươngr được qua khỏi vòng già, bịnh, chết. Cho nên Ngài là một ông thầy thuốc. Vì vậykính lễ cái pháp có đầy đủ công đức vô lượng vô biên đó. 

Bây giờ bốn câu này nói: 

Khen chê không động như Tu Di
Nơi thiện, chẳng thiện, bình đẳng dùng lòng từ
Tâm hành bình đẳng như hư không
Ai nghe nhận bảo không kính vâng. 

Khen ngợi đức Phật, Ngài đối với kẻ khen người chê đều không có động. Giống như hòn núi Tu Di vậy. Dầu cho có giông bảo, nó vẫn trơ trơ. Đối với người thiện, bất thiện (là người ác). Ngài làm sao? Ngài đều bình đẳng do lòng từ bi của Ngài. Tức là Ngài dùng tâm từ bi mà nhìn người thiện, người ác đều thương xót bình đẳng chớ không có riêng khác. Còn mình bây giờ làm sao? Các người mình cho là hiền thì họ khổ mình thương phải không. Người mình cho là dữ họ khổ thì mình làm sao? Mình cười, đáng kiếp phải không? Đó, luôn luôn mình có cái tâm chỉ thương người hiền mà không thương người dữ. Còn Phật thì từ bi, Ngài thương cả hai. Người hiền người dữ Ngài vẫn thương bình đẳng. Bởi vậy nên nói tâm hành của Ngài bình đẳng, giống như hư không vậy. Mà tâm Ngài đã bình đẳng như hư không thì ai nghe được con người quí báu của Ngài mà không kính không vâng theo

Nay dâng Thế Tôn cái lọng bé này ở trong hiện ra cả tam thiên đại thiên thế giới của con. Nào là chư Thiên, Long, Thần, các Càn Thát Bà... và Dạ Xoa thảy đều thấy các cái có ở thế gian đều thấy rõ (tức là cái gì có ở thế gian đều thấy rõ). Đấy thập lực Ngài thương xóthiện ra cái biến hóa này. 

Đó là bốn câu nhắc lại, khen ngợi thần lực của Phật. Khi Ngài biến các lọng riêng thành một cái lọng lớn chung. Rồi các thế giới, đều hiện trong đó. Đó là cái điều rất hy hữu

Chúng thấy cái hy hữu đều tán thán Phật. Nay con cúi đầu đảnh lễ bậc tôn ở trong tam giới

Bởi vì chúng thấy việc làm của Phật đó là việc chưa từng có, cho nên họ đều tán thán. Bây giờ con sẽ đảnh lễ Ngài vì Ngài là bậc tôn trong tam giới

Ngài là bậc đại thánh, là đấng pháp vươngmọi người đều qui ngưỡng. Hay mọi người đều hướng về. Tâm thanh tịnh quán Phật đâu chẳng vui. Người nào đem tâm thanh tịnh mà quán xét nơi Phật đều có cái niềm hân hoan. Mỗi người đều thấy Thế Tôn ở trước mình. Đây là do thần lực của pháp bất cộng

Khen ngợi Phật là đấng đại thánh, là đấng pháp vương. Ngài là chỗ mà mọi người đều qui hướng. Nếu người nào trong tâm thanh tịnh mà nhìn thấy Phật đều có niềm hoan hỷ. Và mỗi người như thấy Phật ở trước mình. Cái điều đó do thần lực của pháp bất cộng mà ra. 

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, chúng sanh tùy theo loại, mỗi người được hiểu. Đều bảo Thế Tôn đồng với tiếng nói của mình. Đây ắt là thần lực của pháp bất cộng

Đây là để tán thán pháp của Phật nói. Khi Phật nói pháp chỉ có một thứ tiếng, mà mỗi người mỗi loài, mỗi người nghe đều thấy Phật nói tiếng của mình. Bởi vậy cho nên đều kính ngưỡng, đều hiểu biết. Đó là do thần lực của pháp bất cộng. Mình bây giờ quí vị thấy mình nói tiếng mình với với dân của Việt Nam mình đó thì nghe hiểu. Nếu mình nói tiếng Việt Nam với một người Hoa, một người Nhật, một người Pháp, họ hiểu không? Như vậy thì tiếng mình chỉ có mình hiểu thôi. Còn qua một nước khác, người khác không hiểu. Còn hội của Phật mà chúng qui tụ lại đó, có bao nhiêu thứ người. Nào là người nè, nào là Trời nè, nào là Bồ Tát các nơi đến nè. Nào là Quỉ, Thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La... Đủ hết. Mà Ngài nói pháp thì ai cũng nghe như tiếng nói của mình. 

Bây giờ tôi nói gần, thí dụ như mình cùng một nước với nhau, giáp ranh mình với người Miên, mà người Miên nói mình nghe được không, nếu mình không học. Mình nói họ nghe được không? Nếu họ không học tiếng mình. Như vậy đó người ở cõi Trời với mình nói tiếng giống nhau không? Như vậy mà Phật nói pháp ra tất cả loài đều nghe tiếng của Phật như nói với mình vậy. Như vậy thì mấy chú mới thấy khỏi cần học sinh ngữ làm chi cho cực há. Tu thành Phật rồi nói một thứ tiếng rồi họ nghe đều thành tiếng của họ. Sướng hơn không, phải không? Chớ bây giờ nếu mà học hết các thứ tiếng để mà nói cho thiên hạ nghe đó thì bao nhiêu, một đời mình học hết chưa. Một đời học cũng chưa rồi nữa. Bây giờ mình chỉ tu thành Phật là mình nói một thứ tiếng, mà ai nghe tiếng mình nói là tiếng của họ đó, họ đều hiểu. Sướng biết bao nhiêu. Như vậy thì đi cái nào tắt hơn. Đó là cái chỗ rất là rõ ràng

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 
Chúng sanh mỗi mỗi tùy chỗ hiểu, 
Khắp được thọ hành và được lợi ích
Cái lợi này, đây là cái thần lực của pháp bất cộng

Như vậy Phật dùng một thứ tiếng thôi mà Ngài nói pháp ra thì mỗi loài đều hiểu, rồi đều được lợi ích. Thực hành được lợi ích thì đó cũng là do cái pháp thần lực của Phật pháp bất cộng. Do cái thần lực của pháp bất cộng mà ra. 

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 
Hoặc có sợ hãi, hoặc vui vẻ
Hoặc tâm nhàm lìa hoặc dứt nghi. 
Đây ắt thần lực pháp bất cộng

Tại sao vậy? Phật nói có một pháp thôi. Một thứ tiếng thôi. Mà có người nghe thì sợ, có người nghe thì vui mừng, có người nghe thì sanh chán, lìa chán, có người nghe thì lại dứt nghi. 

Bây giờ tôi thí dụ như vầy. Thí dụ như Phật nói câu, nói rằng ai làm thập ác thì phải đọa địa ngục, ai tu thập thiện được sanh lên lên cõi trời. Như vậy người nào mà làm thập ác nghe nói vậy thì sao? Đâm ra hoảng sợ. Còn người đã tu thập thiện, nghe nói vậy thì sao? Vui mừng. Rồi còn người hồi đó giờ họ cũng có làm lành. Tức là chán lìa. Còn ngưòi mà hồi đó giờ, họ thấy người này làm lành, người kia làm ác, mà họ không biết rồi kết quả ra sao? Bây giờ nghe vậy, thì hết nghi phải không? Như vậy chỉ một câu nói đó mà có kẻ thì sợ, có kẻ thì mừng, có kẻ thì chán, có kẻ thì hết nghi. Như vậy để thấy rõ cái ý nghĩa đó mà được cũng do thần lực của pháp bất cộng. Bây giờ Ngài kính lễ.

Kính lễ mười phương thập lực đại tinh tấn
Kính lễ đã được vô sở quí. 
Kính lễ trụ nơi pháp bất cộng
Kính lễ tất cả đại đạo sư

Bây giờ giảng từng câu cho rõ. Nói rằng kính lễ Phật thập lực đại tinh tấn. Đó là Phật đó, tức là con kính lễ Phật. Ngài là đấng đầy đủ thập lực và đầy đủ đại tinh tấn. Kính lễ đã được vô sở quí. Tức là Phật đã chứng được tứ vô sở quí. Kính lễ trụ nơi pháp bất cộng. Ngài được pháp bất cộng pháp đó. Rồi kính lễ nhất thiết đại đạo sư của tất cả. 

Kính lễ hay đoạn các kiết phược

Tức là Ngài là một người hay đoạn được tất cả những trói buộc ở trong ngũ dục hày là ở trong tam giới. Vì vậy mà con kính lễ Ngài. 

Kính lễ đã đến bờ kia. 

Tức là con kính lễ Ngài vì Ngài là người đã đến được bờ giác ngộ

Kính lễ hay độ các thế gian

Con kính lễ Ngài, vì Ngài là người độ được tất cả thế gian

Kính lễ hằng lìa đường sanh tử

Con kính lễ Ngài vì Ngài là người đã lìa được con đường sanh tử. Đó là phần kính lễ. Bây giờ. 

Thảy biết chúng sanh tướng qua lại. 

Khéo nơi các pháp được giải thoát

Không chấp thế gian như hoa sen

Thường khéo vì hạnh không tịch

Đây là bốn câu tán thán Phật. Nói rằng Ngài là người khéo biết được các tướng qua lại của chúng sinh. Chúng sinh qua lại trong ngũ đạo lục thú như thế nào, Ngài thấy biết hết. Rồi Ngài không dính mắc ở thế gian, giống cũng như hoa sen, nó ra khỏi bùn không còn một chút hôi hám của bùn. Ngài thường khéo vào được các hạnh không tịch. Không tịch là cái hạnh rỗng lặng. 

Đạt được các tướng khôngquái ngại
Tức là không có bị chướng ngại
Đảnh lễ như hư không vô sở y. 

Câu này hơi khó hiểu. Nói rằng Ngài là người đạt được pháp tướng. Thấu suốt không còn cái gì chướng, cái gì ngại nữa hết. Bây giờ con kính lễ Ngài như hư không, không chỗ y. Câu cuối này không còn lễ Phật với tính cách hình tướng nữa. Nếu hình tướng thì còn chỗ nương chỗ tựa. Mà đã như hư không, không chỗ y thì tức là không có hình tướng. Như vậy câu chót là đảnh lễ Phật nào. Phật vô y đó. Thường thường mình học trong Thiền, có câu gì đạo nhơn đó? Vô y đạo nhơn. Hay đạo nhơn vô y. vô y tức là không chỗ nương. Không chỗ nương tức là không tựa, không dựa vào cái gì hết. Mà không tựa là không có tướng phải không? Còn có chỗ nương, chỗ tựa là còn có hình tướng. Mà ở đây cuối cùng Ngài đảnh lễ chỗ không chỗ tựa, không có hình tướng đó, tức là đảnh lễ pháp thân

Như vậy tất cả những lời tán thán này là tán thán tam bảo. Rồi cuối cùngtán thán pháp thân. Mà pháp thân thì không phải chỉ có Phật mới có, mà nơi mọi người chúng ta au cũng có. Như vậy hai đoạn này mới có phần diễn tả hội của chư Bồ tát tập hợp nghe Phật nói pháp. Trong hội này chư Bồ tát mới tán thán công đức của Phật thôi. Chớ còn chưa nói gì đến phần giáo lý thâm sâu mà ông Duy Ma Cật đối đáp với các vị Tỳ Kheo. Hay là các vị La Hán, các vị Bồ tát

Khi ấy ông Trưởng giả Bảo Tích nói kệ này rồi bạch Phật rằng: 

Thế Tôn 500 ông Trưởng giả này đều đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Mong nghe cõi Phật thanh tịnh. Mong được nghe cõi Phật thanh tịnh. Cúi mong Thế Tôn nói cái hạnh cõi Phật thanh tịnh của các vị Bồ tát

Phật bảo: Lành thay! Bảo Tích, mới hay vì chư Bồ tát mà hỏi cái hạnh thanh tịnh của Như Lai. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. 

Khi ấy Bồ tát và 500 ông Trưởng giả vâng lời Phật dạy lắng nghe. 

Đoạn này mở đầu chưa có gì cần nói. 

Phật bảo: Bảo Tích, những loài chúng sinh là cái cõi Phật của Bồ tát. Vì cớ sao Bồ tát tùy chỗ hóa độ chúng sinh mà nhận lấy cõi Phật. Vì cái chỗ điều phục chúng sinh mà nhận lấy cõi Phật. Vì chúng sinh tin dùng cõi Phật như thế nào mà vào được trí huệ Phật, mà nhận lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh nên dùng cõi Phật thế nào để khởi thiện căn. Ông Bảo Tích hay là gốc của Bồ tát mà nhận lấy cõi Phật. Vì cớ sao Bồ tát nhận lấy cõi Tịnh độ đó, đều vì làm lợi ích cho chúng sinh. Ví như có người muốn ở trong chỗ đất trống mà xây dựng nhà cửa hay là nhà cung. Tùy ý không trở ngại. Nếu ở chỗ hư không thì trọn không thể xây dựng được. Bồ tát cũng như thế vì thành tựu chúng sinh cho nên nguyện nhận lấy cõi Phật

Nguyện nhận lấy cõi Phật, không phải là cái nguyện suông. Đây là đoạn mà chúng ta phải chú ý. Đức Phật mới giải thích cho Ngài Bảo Tích và các vị Trưởng giả biết rằng các loài chúng sinhcõi tịnh độ của Bồ tát. Tại sao vậy? Bởi vì Bồ tát mà nhận lấy cõi Phật thanh tịnh là không phải vì mình thụ hưởng mà nhận lấy cõi đó. Mà nhận lấy cõi đó là vì làm lợi ích chúng sinh. Rồi tùy chúng sinh được giáo hóa hoặc là vì điều phục những chúng sinh đó mà nhận lấy các cõi Phật. Chúng sinnh thích những gì, những cõi nước. Như thế nào để họ tu hành, đạt đến trí tuệ Phật, thì các vị Bồ tát sẽ nhận lấy cõi Phật tương xứng như vậy để mà giáo hóa họ. Khiến cho họ phát căn lành tu hành tới cái quả Bồ tát hay quả Phật. Như vậy Bồ tát mà nhận lấy cõi tịnh độ đó đều là vì lợi ích cho chúng sinh, chớ không là vì riêng mình. 

Bây giờ tôi nói một thí dụ nhỏ thôi. Giả sử như chúng ta ở đây, có người họ cất chùa. Muốn cất chùa được trang trọng thì chỉ vì mình mà cất chùa. Như vậy cất chùa để tạo cảnh trí trang trọng. Như vậy đó có phải là Bồ tátchúng sinh không? Còn nếu bây giờ vì muốn có một chỗ trang nghiêm để giúp cho mọi người tu hành. Cảnh trang nghiêm đó là vì lợi ích cho nhiều người. Nhắm thẳng vì nhiều người mà làm. Thì cái đó là vì chúng sinh mà tạo cái cảnh tịnh độ. Như vậy tâm của Bồ tát là lúc nào cũng nhắm thẳng vào chúng sinh là cái tịnh độ của Bồ tát. Câu đó là câu thật là nghiêm trọng. Nghĩa là nếu Bồ tát làm mà ngoài cái ý muốn, ngoài sự giáo hóa chúng sinh thì đó không phải là Bồ tát rồi, phải không? 

Như vâỵ cõi Phật thanh tịnh của chư Bồ tátvì lợi ích chúng sinh mà lập. Vì lợi ích chúng sinh mà tạo. Chớ không phải vì mình thụ hưởng mà làm tạo. Đó là ý nghĩa rõ ràng. Bởi vậy, cho nên nói rằng việc làm của Bồ tát không phải là chuyện làm suông mà đều vì lợi ích của chúng sinh mà làm. Đó là để hiểu để thấy rằng tâm hạnh của Bồ tát làm cái gì cũng vì lợi ích cho chúng sinh, chớ không phải vì lợi ích cho bản thân, cho cá nhân mình. 

Cho nên chúng ta bây giờ cúng có khi chúng ta làm Phật sự mà có hai mặt. Có khi thì muốn có nhiều chúng, có đông chúng đặng cho uy tín mình lớn. Như vaaạy là vì chúng sinh hay vì mình. Còn có khi trải thân mình mà lo cho chúng sinh, chỉ cho mọi người được tu, được học không, mà không nghĩ tới địa vị danh vọng gì cho mình hết. Thì đó là vì cái gì. Như vậy cũng một ciệc làm mà nếu mục tiêu mình nhắm vì chúng sinh, đólà tâm hạnh của Bồ tát. Còn nếu mục tiêu mình nhắm vì mình đso thì tâm hạnh của chúng sinh, phải không? 

Bởi vậy cho nên mình lớn, tu rồi thì ai cũng có một trọng trách để làm lợi ích cho nhiều người. Thí dụ mấy chú sau này, ra có khi cũng làm Trụ trì, có khi cũng làm Viện chủ, đủ thứ hết vậy. Nếu mình làm để mà kêu gọi chúng cho đông để mình có chức tước, mình có uy tín thì đó không phải là Bồ tát. Còn nếu mình làm vì thương, muốn giúp cho mọi người trong khi bơ vơ không nơi tu học. Chỉ vì họ mà làm thì đó là tâm hạnh Bồ tát. Như vậy cùng một việc làm mà mình thấy rõ ai là Bồ tát tâm, ai không phải là Bồ tát tâm. 

Bây giờ tới đoạn kế Phật bảo

Bảo Tích nên biết trực tâmTịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật, những chúng sinh không có dối trá được sanh về cõi nước kia. 

Tức là cõi nước của Bồ tát. Như vậy ở đây đi thẳng cái trực tâmtịnh độ của Bồ tát. Chúng ta tu, quí vị thấy bao nhiêu người ở thế gian họ sống vì danh vì lợi, vì đủ thứ hết. Cho nên tâm họ chiều uốn để được những cái gì họ muốn được. Còn chúng ta đaay sống bằng các đơn giản. Không có nhà cửa, không có vợ con, không có nhu cầu gì quan trọng, thì chúng ta cần cái tâm quanh co chiều uốn không? Vậy mà thỉnh thoảng có không. Có quanh co chút chút không? Bởi vậy cho nên cái cửa vào đạo là trực tâm. Đây nói trực tâmTịnh độ của Bồ tát

Rồi như Lục Tổ nói làm sao? Với Lục Tổ thì trực tâmđạo tràng phải không? Như vậy chúng mới thấy Phật Tổ nhắc nhở chúgn ta bước vào đạo phải có cái tâm ngay thẳng, không có dối trá. Dối trá tức là chiều uốn. Hoặc để được lòng người này, được lòng người kia. Hoặc là để gạt gẫm người ta thì đó là tâm không ngay thẳng. 

Bởi Bồ tát cái nhân trực tâm mà được cõi tịnh độ thì những chúng sinh nòa muốn về với Bồ tát ở cõi đó thì phải làm sao? Thì cũng phải trực tâm. Tức là phải bỏ những dối trá thì mới được về bên kia phải không? Mình mới thấy rõ ràng cái nhân của Bồ tát. Như vậy, ai muốn được hưởng của quả của các Ngài đó thì cũng phải có cái nhân giống như vậy phải không? Đó là một điều không thể thiếu. 

Thâm tâmtịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật, những chúng sinh nào đầy đủ công đức được sanh về cõi nước kia. 

Như vậy trực tâm là cửa bước vào đạo. Thâm tâm là những công đức ở trong đạo. Tại sao nói thâm tâmcông đức ở trong đạo? Mình thường thường nói thâm tâm là cái tâm sâu, phải không? Sâu kín. Nhưng mà thực ra cái tâm sâu kín đó là cái tâm đã tạo nhân nhiều mầm, nhiều nhân tốt. Nhân lành nhân tốt tạo đầy đủ thì gọi đó là thâm tâm. Bởi vậy cho nên nói thâm tâmtịnh độ của Bồ tát. Những người nào muốn sanh về cõi tịnh độ của Bồ tát đó thì phải làm sao? Phải có đầy đủ những công đức. Cho nên nói rằng khi Bồ tát thành Phật rồi thì chúng sanh nào đầy đủ những công đức thì được sanh về đó. 

Như vậy trực tâm là cái cửa, mà thâm tâm là cái dụng trong khi vào đạo rồi. 

Bồ đề tâmtịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật thì những chúng sinh nào mà phát tâm đại thừa thì được sanh vào cõi nước đó. 

Như vậy ba cái tâm này quí vị thấy nó hết sứcthâm thúy. Trực tâm là cửa. Thâm tâmcông dụng. Bồ đề tâm tức là giác. Như vậy nghĩa là Phật, người tu muốn thành Phật thì cái nhân ban đầutrực tâm. Rồi kế đó là thâm tâm. Rồi sau cùng là giác ngộ

Bởi vậy cho nên những người nào phát tâm đại thừa thì mới được sanh về cõi kia. Phát tâm đại thừa tức là phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác đó, phải không? Bởi vì cõi Phật do nhân giác ngộ mà thành cõi thanh tịnh. Bây giờ mình muốn về đó mà mình thiếu giác ngộ thì làm sao? Cho nên những chúng sinh phát tâm đại thừaphát tâm cầu cái quả vô thượng chánh đẳng chánh giác thì mới được sanh về đó. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22231)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15991)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15004)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18901)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14424)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18594)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14379)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13550)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13531)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11800)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13217)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13639)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13916)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16142)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11069)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16432)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11876)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17569)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13680)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12834)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14833)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16365)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13116)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12066)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12736)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12873)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12749)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14146)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14088)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16440)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12360)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14369)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11285)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11004)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13173)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13871)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13143)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12983)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13475)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12697)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10220)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13946)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10207)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13676)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16244)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11942)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12952)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11619)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12647)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10962)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10913)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11855)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12722)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11040)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11290)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant