Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 10

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8379)
Phần 10


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 10

Như vậy đây là 10 vị đệ tử lớn mà gọi là thập đại đệ tử đó. Mỗi vị đều được cái đệ nhất, mà mỗi vị đều không kham đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Để thấy rằng tinh thần ở đây là nêu lên ý nghĩa, dù cho chúng ta xuất gia mà nếu chúng ta không đạt đến chỗ cứu cánh bình đẳng, chân thật. Hai phần: 

Pháp tức pháp tánh. Thân tức pháp thân. Pháp tánhpháp thân không đạt được hai cái đó thì chúng ta chưa đến chỗ cứu cánh, bình đẳng, chân thật. Muốn đến chỗ cứu cánh, bình đẳng chân thật thì đứng về thân phải đi thẳng vào pháp thân. Đó mới là cứu cánh

Bây giờ tới các vị Bồ Tát. Thánh tại sao còn rơi vào. Thánh có chia ra thánh thấp và thánh cao. Cũng như ở đây mấy chú, tất cả mấy chú là Tăng hết mà sao có những ông Tăng chấp quá chừng. Có những ông Tăng ít chấp. Nếu đã là Tăng thì phải giống hệt nhau chớ, phải không? Tại sao lại có khác? Tại trình độ sai biệt. Bởi trình độ sai biệt cho nên có khác nhau. Ở đây hai bên không có nghĩa là chống nhau. Nhưng để khai triển từ cái tướng để đi thẳng vào tánh. Hỗ tương để mình thấy từ thấp tiến lên cao, chớ không phải các Ngài thù nghịch nhau. Như bây giờ các chú cãi ầm đó. Không phải? Nghĩa là thuật lại để thấy cái nhìn của hàng Thanh Văn khác hơn cái nhìn của hàng Bồ tát. Thanh văn còn từ tướng. Bồ tát đi thẳng vào tánh. Đó là tinh thần khai triển từ thấp tiến lên cao. Chớ không phải hai bên có chỗ sai biệt

Lúc nảy như tôi nói muốn tu thì từ thân này mà tu, mới thấy được pháp thân. Như vậy nhờ cái báo thân hay là ứng này mà đi thẳng vào pháp thân. Chớ không phải pháp thân nó có thể thị hiện giáo hóa người ta được. Nhưng nếu nói pháp thân không có lợi ích gì thì lại trật nữa. Vì pháp thân là cái thể. Ứng thânhóa thân là cái dụng. Từ cái thể khởi dụng. Cái dụng thấy như có lợi ích, nhưng lợi ích của dụng chỉ là lợi ích hư dối để đưa tới chỗ chân thật cứu cánhpháp thân. Như vậy pháp thân mới là chỗ chân thật của người tu. 

Chữ Bồ tát chúng ta biết hết rồi, khỏi cần cắt nghĩa, chỉ cần biết rằng đây là qua tới hàng Bồ tát. Hàng Thanh vănđệ tử hiện hữu của Phật. Hàng Bồ tát thì có những vị Bồ tát có mặt trong hội hoặc những vị Bồ tát từ tha phương đến. Cho nên đây nói Bồ tát mà không nói đệ tử

Khi ấy Phật bảo Bồ tát Di Lặc

Thói quen mình cắt nghĩa Bồ Tát Di Lặc phải không? Nhưng phải nhớ rằng, cũng như nói rằng mấy chú kêu Đại đức A hay A Đại đức. Tiếng Việt mình kêu A Đại đức hay là Đại đức A? Từ tiếng Việt thì phải chuyển lại, nhiều khi mình quen, coi như thói quen. Quan Âm Bồ tát, Thế Chí Bồ tát quen rồi. Đúng ra thì Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Thế Chí. Đây cũng vậy, Bồ tát Di Lặc

( Ông đi đến thăm bệnh Duy Ma Cật

Ngài Di Lặc bạch Phật rằng: 

( Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Vì con nhớ lại thuở xưa vì Thiên Vươngcung Trời Đâu Suấtquyến thuộc của họ nói hạnh bất thối chuyển địa (nhớ chỗ này cho rõ, bất thối chuyển địa là tu hành không thối chuyển đó). Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: “Ngài Di Lặc! Đức Thế Tôn thọ ký cho nhân giả một đời thành Phật

Vậy là dùng đời nào để được thọ ký cho nhân giả một đời thành Phật. Vậy là dùng đời nào để được thọ ký ư là đời quá khứ, đời vị lại hay đời hiện tại? 

Nói rằng một đời được thọ ký, bây giờ đặt câu hỏi một đời là đời nào? Là quá khứ, hay vị lai hay hiện tại. Đây mới giảng trạch. 

Nếu là quá khứ đó thì đời quá khứ đã diệt. Nếu là đời vị lai thì đời vị lai chưa đến. Nếu là đời hiện tại thì đời hiện tại không có dừng (hiện tại cũng sanh diệt luôn). Như lời Phật nói: Này các Tỳ Kheo, nay chính ông khi này (đang lúc này) cũng sanh, cũng già, cũng chết (chữ diệt là chết). Nay chính ông, cái hiện tại này cũng có sanh, có già, có chết (dẫn câu đó làm chứng). Như vậy để thấy trong một đời hiện tại mà có cả sinh, già, chết. 

Tức là ngay trong một khoảnh khắc đó có cả ba tướng: Sanh, già, chết. Như vậy làm sao nói hiện tại cho được. Như vậy chúng ta mới thấy làm sao? Ở đây Ngài Di Lặc? [1], Ngài bẻ ở chỗ nói rằng một đời nữa được thành Phật. Một đời nữa là đời nào? Đời quá khứ hay đời hiện tại hay đời vị lai? Quá khứ thì đã diệt. Vị lai thì chưa đến. Rồi hiện tại thì không dừng. Như vậy đời nào là được Phật thọ ký. 

Như nói hiện tại, thì Phật trong kinh nói, Ngài nói với các Ngài Tỳ Kheo thân ông hiện già, nó có sanh, có già cũng có chết. Nếu nói thân mình hiện giờ sanh, già, chết thì đa số mình ít thấy. Nhưng xét theo bây giờ ta nói trong tế bào mình nó có sanh, có già, có chết hiện giờ không? Có những tế bào mới sanh, có những tế bào đã già, có những tế bào bị loại ra. Như vậy ngay trong thân của mình hiện tại nó đủ cả ba tướng: Sanh, già, chết. Như vậy làm sao có dừng mà nói cố định là lúc nào. Nếu do vô sanh được thọ ký thì vô sanh đó là chánh vị. Ở ngôi chân chính hay là ngôi vị chân thật. Ở trong ngôi vị chân chính đó cũng không có thọ ký, cũng không được thành Phật. Vì chỗ ???? [1] Như cũng được. Chân nhưthọ ký, có được thành Phật không? Như vậy chỗ đó là chỗ không thọ ký, không thành Phật. Còn nếu ở chỗ sanh tức là nó nằm ở trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Trong ba thời đều không có thật. Nói rằng được thọ kýthọ ký ở trong cái sanh hay là thọ ký ở trong cái vô sanh, phải không? Sanh thì cũng không ổn. Vô sanh thì còn gì thọ ký và còn gì thành Phật. Như vậy cũng không ổn. Vậy thì tại sao, hay thế nào? Ngài Di Lặc nhận một đời thọ ký thành Phật ư! Ngài Di Lặc nhận rằng còn một đời thọ ký thành Phật. Đó là đặt lại câu hỏi. 

Sanh thì không được. Còn vô sanh cũng không được. Là từ như sanh được thọ ký ư! 

Là từ như sanh. Như sanh tức là như thật hay chân như mà sanh được thọ ký ư! 

Hay là từ như diệt được thọ ký ư! Như sanh hay là như diệt. Nếu như sanh mà được thọ ký không được. Như diệt thọ ký cũng không được. 

Tại sao? Nếu do như sanh mà được thọ ký, như không có sanh. Nếu do như diệt mà được thọ ký thì như không có diệt. Bởi vì chánh vị là chân như. Nếu từ chân nhưthọ ký thì chân như không sanh không diệt. Không sanh không diệt thì lấy gì để thọ ký

Tất cả chúng sanh đều là như. Tất cả pháp cũng như. 

Tất cả chúng sanh đều như đó đứng về mặt chân như mà nói thì tất cả chúng sanh là như. Tất cả pháp đều như. 

Các vị thánh hiền cũng như. Cho đến Ngài Di Lặc cũng như. 

Nếu Ngài Di Lặc được thọ ký thì tất cả chúng sanh ưng cũng phải được thọ ký vì tất cả đều như. Lý luận của Ngài như vậy đó. Nếu từ như được thọ ký tức là từ chân như mà được thọ ký thì tất cả chúng sanh như, hiền thánh như, Di Lặc như. Nếu trên cái như đó mà được thọ ký, Ngài Di Lặc được thọ ký thì chúng sanh cũng được thọ ký

Vì cớ sao? Phàm như thì không hai, nó cũng không khác. 

Vì chỗ chân như thì nó còn gì hai, còn gì khác. 

Nếu Di Lặc được vô thượng chánh đẳng chánh giác thì tất cả chúng sanh đều cũng nên được. Vì cớ sao? Vì tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ đề. Ngài Di Lặc có tướng Bồ đề thì tất cả chúng sanh cũng có tướng Bồ đề. Nếu Di Lặc được diệt độ thì tất cả chúng sanh cũng phải được diệt độ. Vì cớ sao? Vì chư Phật biết tất cả chúng sanh cứu cánh tịch diệt (tức là tướng Niết bàn) không lại, lại có diệt nữa. 

Nghĩa là sao? Đã có sẵn tướng Niết bàn thì làm sao có cái diệt lần thứ hai nữa. Niết bàntịch diệt, tất cả chúng sanh đều có tướng Niết bàn, tức là đều có tướng tịch diệt. Bây giờ không lẽ lại có tịch diệt lần thứ hai. 

Thế nên Di Lặc không có đem pháp này mà dạy bảo các chư Thiên, các Thiên tử. Thật khôngphát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng không có thối chuyển

Vì Ngài Di Lặc đang dạy về hạnh bất thối chuyển. Bây giờ đứng về mặt thể chân thật, là chân như đó, thì nó không có tiến, không có lùi, không có sanh, không có diệt, không có đối đãi. Đã không tiến, không lùi, không sanh, không diệt thì làm sao có phát tâm Bồ đề. Làm sao có thôí chuyển Bồ đề mà ông dạy hạnh bất thối chuyển

Này Di Lặc, phải khiến cho những vị Thiên tử này bỏ cái kiến chấp phân biệt về Bồ đề

Phân biệt Bồ đềphân biệt gì? Phân biệtthối chuyển Bồ đề và có bất thối chuyển Bồ đề. Dạy hạnh bất thối chuyển Bồ đề tức là có cái thối chuyển phải không? Thể Bồ đề có thối, bất thối không? Cho nên nói rằng đừng có dùng kiến chấp này mà dạy các vị Thiên tử

Vì cớ sao? Vì Bồ đề không có thể do thân mà được. Cũng không có thể do thân mà được. Cũng không có thể do tâm mà được. Tịch diệtBồ đề vì diệt các tướng. 

Bồ đề không thể do thân được, không thể do tâm được. Đây mới giải thích tại sao lại được Bồ đề

Tịch diệtBồ đề vì diệt các tướng. Chẳng quán là Bồ đề vì lìa các duyên. 

Phần nhiều khi mình quán là mình phân tích các duyên. Bây giờ nó đã lìa các duyên rồi, còn gì phân tích nữa. 

Cho nên nói chẳng quán là Bồ đề vì lìa các tướng. Chẳng hành là Bồ đề vì không có ức niệm

Chữ hành này tức là tâm hành. Tâm hành đó dứt rồi mới gọi là Bồ đề, vì lúc đó không còn có nghĩ, không còn có nhớ. 

Đoạn là Bồ đề vì xả các kiến chấp. Lìa là Bồ đề vì lìa các vọng tưởng

Như vậy quí vị mới thấy chúng ta buông vọng tưởng, không theo đó là lìa. Lìa cái đó là Bồ đề, chứ không gì lạ hết. 

Chướng là Bồ đề vì chướng các nguyện. 

Câu này dễ hiểu hay khó. Thường thường mình nói không chướng mới là Bồ đề. Tại sao ở đây nói chướng là Bồ đề, vì chướng các nguyện. Chướng là ngăn trở. Thường thường nguyện là cái mong mỏi hay là mong muốn. Tôi mong muốn thế nào đó, cái nguyện tôi như vậy. Cái nguyện là cái mong muốn. Nhưng đến chỗ chân thật tịch diệt rồi còn mong muốn hay không? Cho nên nó chận hết, ngăn hết những mong muốn. Ấy là Bồ đề vì nó ngăn các cái nguyện. 

Chẳng nhập là Bồ đề vì không tham trước

Thường thường nói lục nhập. Tại sao thành lục nhập? Vì đối với sáu trần còn tham trước. Nó dính với sáu trần cho nên sáu trần mới vào. Đó là nói về lục nhập của thân. Còn nếu nói thân của chúng ta, sáu căn cũng còn gọi là lục nhập. Bởi vì sáu căn mà mình còn thích, còn ham được thân, còn thích được thân thì đó là tham trước. Không còn tham trước thân, đó là Bồ đề, vì nó không còn tham trước nữa. 

Thuận là Bồ đề vì thuận nơi như. 

Mình tùy thuận với chân như đó là Bồ đề thì Bồ đềtùy thuận chân như

Trụ là Bồ đề vì trụ pháp tánh

An trụ nơi pháp tánh đó là Bồ đề

Đến là Bồ đề vì đến là thật tế

Bồ đề là chỗ thật tế không còn tướng đối đãi sinh diệt nữa. 

Bất nhịBồ đề vì lìa ý pháp. 

Luôn luôn ý mình duyên với pháp trần là hai chứ không rời hai được. Cho nên tới chỗ này là bất nhị. Tại sao? Vì nó đã lìa ý pháp. Yï duyên với pháp trần. Tất cả những ý niệm chúng ta dấy nên đều chạy theo pháp trần. Mà pháp trầnđối đãi, cho nên đều là hai. Đây là bất nhịBồ tát vì lìa ý pháp. 

Bình đẳngBồ đề vì nó bình đẳng như hư không. Vô viBồ đề vì nó không sinh, trụ và diệt. 

Tướng nào còn nằm trong sanh, trụ, diệt thì gọi đó là hữu vi. Bồ đề này không còn sanh, trụ, diệt cho nên gọi là vô vi

Tri là Bồ đề vì rõ biết tâm hành của chúng sanh

Nghĩa là khi đạt được Bồ đề rồi thì thấy tâm hành của chúng sanh thế nào biết hết. 

Chẳng hội là Bồ đề vì các cái không nhập. 

Chữ hội này là hội họp. Nếu các nhập hội họp thì có thân hay không có thân. Đó là thành thân. Bây giờ không còn bị các nhập hội họp nữa thì đó là Bồ đề. Tức là giải thoát sinh tử. Còn có các nhập chung họp thì còn thân sanh tử. Hết các nhập chung họp rồi tức là giải thoát sinh tử. Giải thoát sinh tử đó là Bồ đề

Chẳng hiệp là Bồ đề vì lìa phiền não tập

Phiền não là do nhóm họp phải không? Phiền não nhóm họp cũng như là tập đế đó. do phiền não nhóm họp. Bây giờ do nhóm họp không còn nữa, ấy là Bồ đề vì lìa sự nhóm họp của phiền não

Vô xứ là Bồ đề vì không có hình sắc

Cái gì có hình sắc cho nên có xứ sở, có chỗ nơi. Cái không có hình sắc thì đâu có chỗ nơi. Nên tôi thường hay dẫn, tôi nói rằng người ta hỏi: “Chân tâm ở chỗ nào?”. Mấy chú nói làm sao? Chân tâm nó ở trong hay ở ngoài hay chặng giữa. Nó đều không có chỗ. Nếu nói chỗ là trật là sai. Vì nếu nó có chỗ tức là có nơi chốn. Có nơi chốn tức là có hình sắc. Chân tâm thì không hình sắc, không nơi chốn. Nếu vừa nói có nơi chốn thì nó đã trật rồi. Cho nên câu hỏi chỗ nào là câu hỏi trật. Mình càng trả lời thì càng trật. Hiểu vậy thì mới thấy. Nên ở đây nói rằng không có chỗ nơi là Bồ đề vì nó không có hình sắc

Giả danhBồ đềdanh tự là không. 

Nghĩa là khi mình biết tất cả ngôn ngữ, văn tự, tên tuổi... đều không thật, lúc đó là mình sống với Bồ đề vì biết được văn tựkhông thật

Như hóaBồ đề vì không có thủ xả. 

Nếu thấy các pháp như huyễn, như hóa thì lúc đó đâu có nhiễm, đâu có trước. Cho nên gọi là Bồ đề. Vì lúc đó không có thủ là nhiểm. Xả là ghét. Tức là ưa thì thủ, ghét thì xả. Bây giờ mình đã thấy các pháp như huyễn hóa rồi, không còn có cái thủ xả đó. đó là Bồ đề

Không loạn là Bồ đề vì thường tự tỉnh. 

Tự tỉnh tức là lặng lẽ

Thiện tịch là Bồ đề vì cái tánh nó thanh tịnh

Thiện là khéo, tịch là lặng lẽ. Tức là khéo lặng lẽ. Đó là Bồ đề vì tánh nó thường trong sạch

Không thủ là Bồ đề vì lìa các tha duyên. Không khác là Bồ đề vì các pháp bình đẳng. Không có so sánhBồ đề vì không có cái gì có thể thí dụ được. Vi diệuBồ đề vì các pháp khó biết. 

Bởi vì nó mầu nhiệm, không thể suy lường được, đó là Bồ đề. Cho nên nói vì các pháp khó mà biết được. 

Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy Ma Cật nói pháp này, 200 Thiên tử được pháp vô sanh nhẫn. Cho nên con không kham đến thăm bịnh ông ấy. 

Như vậy đoạn này chúng ta thấy Ngài Duy Ma Cật muốn giải thích cho chúng ta hiểu thêm cái nhất sanh bổ xứ của Đức Phật thọ ký cho Ngài Di Lặc. Chữ thọ ký ở đây là nói rằng thọ ký một đời nữa sẽ thành Phật. Một đời là gì? Bây giờ mình tìm lại coi một đời là đời nào? 

Trong ba thời thì không có cái thời thật. Trong ba đời không có thật thì làm sao nói một đời. Rồi cho tới thọ ký. Thọ ký thì căn cứ trên cái gì thọ ký? Nếu căn cứ trên chân nhưthọ ký thì chân như không sanh. Không sanh thì làm sao có một đời. Còn như không diệt thì làm sao có một đời. Như vậy tức là bên kia đứng về cái tướng sinh diệt của kiếp người mà nói, là một đời, hai đời. Mà đã đứng về cái sinh diệt của kiếp người, đó là tướng. 

Bên này ông Duy Ma Cật đứng về chân như. Chân như tức là tánh. Như vậy cái tướng chỉ cho cái giả danh, tạm nói, tạm dùng, không thật. Cái tánh chân thật bất sanh, bất diệt đó mới là cái chân thật. Cũng vật cho nên ông chuyển lại nói thọ ký thì một đời, hai đời... cái đó là giả, không có thật. Vì vậy mà ông cật vấn còn chỗ chân thậtbất sanh bất diệt. Bất sanh bất diệt thì còn có cái gì mà nói thành Phật, phải không? Vì Phật đã sẵn. Phật đã sẵn rồi, thành cái gì. Chẳng lẽ thành lần thứ hai nữa. Bởi vậy tới chỗ đó mà đã sẵn, thì Phật đã có sẵn đó. Thì chúng sanh cũng sẵn có cái đó. 

Ngài Di Lặc thành Phật thì chúng sanh ưng cũng thành Phật, phải không? Vì tất cả đều có sẵn. Đó là cái ý để chỉ thẳng về đây là cái chân như hay cái Phật tánh. Mà chân như Phật tánh thì không có cái gì để gọi là thọ ký, để gọi là thành Phật hết. Nghĩa là mình hết phiền não, hết tất cả những tập khí sinh tử thì Niết Bàn hiện ra. Hết phiền não thì tính giác hiện tiền. Chớ không còn nói thọ ký thành Phật. Đó là đứng về mặt lý tánh mà ông nói. Bây giờ đến một Bồ tát khác. 

Phật bảo Hoa Nghiêm Đồng Tử

( Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật

Hoa nghiêm liền bạch Phật rằng: 

( Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Vì con nhớ thuở xưa, khi con ra khỏi đại thành Tỳ Xá Ly (có chỗ Tỳ Xá, Tỳ Da gì cũng được hết. Không có quan trọng) thì ông Duy Ma Cật mới vào trong thành (Ông thì đi ra. Ông Duy Ma Cật đi vào). Con liền chào (ở đây nói làm lễ thì nghe dễ hiểu lầm. Ông này cũng Bồ tát, mà ông kia là cư sĩ. Ông Bồ tát này gặp ông kia đảnh lễ thì coi không được. Cho nên nói liền chào ông), hỏi rằng: 

( Cư sĩ từ đâu mà đến đây? 

Ông đáp con rằng: 

( Tôi từ đạo tràng đến. 

Con mới hỏi: 

( Đạo tràng là ở chỗ nào? 

Ông đáp: 

( Trực tâmđạo tràng, vì không có hư giả. Phát hạnh là đạo tràng vì hay biện sự (biện sự tức là hay làm mọi việc phát hạnh, là khi khởi làm công tác là đạo tràng, vì khéo làm tất cả việc). Thâm tâmđạo tràng vì hay tăng trưởng hay tăng ích các công đức. Bồ đề tâmđạo tràng vì không có lầm lẫn. Bố thíđạo tràng vì không mong quả báo. Trì giớiđạo tràng vì được các nguyện đầy đủ. Nhẫn nhụcđạo tràng vì đối với tâm chúng sanh không chướng ngại. Tinh tấnđạo tràng vì không có lười biếng. Thiền địnhđạo tràng vì tâm nó điều nhu. Trí tuệđạo tràng vì hiện thấy các pháp. Từ là đạo tràngbình đẳng đối với chúng sanh. Bi là đạo tràng vì nhẫn chịu những sự đau khổ. Hỷ là đạo tràngưa thích các pháp. Xả là đạo tràng vì bỏ được, dứt được cái tắng ái (tức là cái yêu ghét). Thần thôngđạo tràngthành tựu được lục thông. Giải thoátđạo tràng vì hay bội xã (hay bội là trói, xả là bỏ). Phương tiệnđạo tràng vì hay giáo hóa chúng sanh. Tứ nhiếp phápđạo tràng vì hay nhiếp phục chúng sanh. Đa vănđạo tràng vì như cái nghe mà thực hành. Phục tâm là đạo tràng vì chánh quán các pháp. 37 phẩm trợ đạođạo tràng vì bỏ các pháp hữu vi. Tứ đếđạo tràng vì không dối thế gian. Duyên khởiđạo tràngvô minh cho đến lão, tử đều không cùng tột. 

Chỗ này dễ hiểu không? duyên khởiđạo tràngvô minh cho đến lão, tử đều không cùng tận. Vô minh tức là cái đầu. Mà lão, tử là cái cuối của 12 nhân duyên không cùng tận. Tại sao nói duyên khởi là đạo tràng? Bởi vì nếu mình thấy 12 nhân duyên, nếu mê không biết, nên nó dẫn mình sanh tử không cùng. Bây giờ mình biết 12 nhân duyên là do duyên hợp mà có, chớ không thực, không tự tánh. Như vậy đó là đạo tràng. Nên nói rằng duyên khởiđạo tràngvô minh cho đến lão tử không cùng tận

Các phiền nãođạo tràng vì nó như thật. Phiền nãođạo tràng. Như vậy phiền não có phải là đạo tràng không? Mấy chú nổi giận lên có phải đạo tràng chưa? Nếu nổi giận mà nói đạo tràng thậ là khó hiểu, phải không? Nhưng mà sự thật khi phiền não dấy lên liền biết phiền nãokhông thật, phiền não là không tự tánh, thì đó là đạo tràng rồi, phải không? Người ta cứ muốn tìm cái chân chính ở ngoài cái tà ngụy. Nhưng sự thật biết được cái tà ngụy đó là chân chính rồi. Ngay nơi phiền não mà biết được phiền nãokhông thật. Phiền nãohư dối. Biết được như vậy đó là đạo tràng. Như vậy nghe như khó hiều mà đó là một lẽ thật. 

Chúng sanhđạo tràng vì biết vô ngã

Chúng sanh như chúng bây giờ ai cũng có thân. Mà khi có thân, ngay nơi thân này mình khởi chấp cái thân này là thật, thì đó là chúng sanh mê muội. Ngay nơi thân này mà biết duyên hợp hư dối, không có chủ, không có ngã, thì đó là vô ngã. Như vậy ngay nơi thân chúng sanh mà thấy vô ngã. Chớ có cái vô ngã ngoài chúng sanh đâu. Cho nên hiểu rồi thì chính cái dở đó mà mình biết thì nó trở thành hay. Ngay nơi thân chúng sanh mà biết được thì nó là đạo tràng, chớ không có gì lạ hết. Vì nó là vô ngã

Tất cả pháp là đạo tràng vì biết các pháp không? 

Không là không tự tánh

Hàng mađạo tràng vì không bị khuynh động. Ba cõiđạo tràng vì nó không có chỗ đến. 

Trong ba cõi này mà mình không có tạo nghiệp để sanh trong tam giới thì ba cõiđạo tràng chớ gì. 

Sư tử hẩu (hay sư tử hống) là đạo tràng vì không có chỗ sợ. Ngũ lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp vì không có các lỗi lầm. Tam minhđạo tràng vì không các chướng ngại khác. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràngthành tựu nhất thiết trí

Như vậy mấy chú mới thấy nhất thiết trí là gì? Tức là một tâm mà biết tất cả pháp. Gọi nó là nhất thiết trí

Như thế này thiện nam tử, Bồ tát nếu nên đối với các Ba La Mật, dùng các Ba La Mậtgiáo hóa chúng sanh. Các cái đó tạo tác ra nào là giơ chân, hạ chân, phải biết đều là từ trong đạo tràng mà lại. Đều là trụ ở chỗ Phật pháp vậy. 

Như vậy đây là ông kết luận. Ông kết luận rằng bây giờ các ông nên biết nếu Bồ tát dùng pháp lục Ba La Mật giáo hóa chúng sanh, như vậy có làm ra cái gì. Đây kể từ giở chân hay là giở chân lên, để chân xuống, bước đi nơi nào, nơi nào, đều là ở trong đạo tràng, đều là trụ ở Phật pháp

Khi nói pháp này thì 500 vị Trời, người đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12333)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13005)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12370)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53028)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19234)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13312)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14501)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20462)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19559)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18649)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12181)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12298)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13855)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14974)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20193)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14609)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11706)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15054)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant