Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8 Phẩm Phật Đạo

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7677)
8 Phẩm Phật Đạo


ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

8. PHẨM PHẬT ĐẠO

Bấy giờ Ngài Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật Ðạo? Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát thực hành phi đạothông đạt Phật Ðạo. 

Phật Ðạo là con đường đưa đến chỗ giác ngộ, là những hạnh lành tốt phước huệ song tu, là Chân Lý nhiệm mầu huyền diệu không thể nghĩ bàn. Thông thường người ta cần bỏ ác làm lành, bỏ trái làm phải; ở đây, ông Duy Ma Cật lại nói ngược lại: Bồ Tát thực hành phi đạothông đạt Phật Ðạo. Phi đạo là chẳng phải Phật Ðạo, là con đường trái ngược xấu ác, là những phiền não tội lỗi nhiễm ô. Ðoạn này người tu phải học hiểu cho cẩn thận rốt ráo, nếu hiểu lầm thì rất nguy hiểm. 

Bồ Tát là những bậc siêu phàm đạt đạo, đầy đủ sức phương tiện để thị hiện vào nghịch cảnh, làm những việc phi đạo trái với lẽ thường, nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại, không dính mắc vào tội lỗi nhơ bẩn. Các Ngài thị hiện vào nghịch cảnh để làm những việc khó làm, với mục đích cứu độ chúng sinh đang ngụp lặn trong cảnh xấu ác đó. Bồ Tát ví như mẹ hiền thương con dại, con ngoan cũng thương, con hư còn thương nhiều hơn, người tốt cũng cứu độ, người xấu còn cần được cứu độ gấp hơn, vì vậy các Ngài hiện thân vào cõi đời ô trược, vào nhà điếm quán rượu, vào địa ngục để hóa độ chúng sinh; các Ngài không vào thì ai vào? Ðừng quên là chỉ có các bực Bồ Tát đầy đủ đạo lựctrí huệ phương tiện mới làm nổi những việc khó làm, nếu người thường mà vào những nơi đầy cám dỗ thì dễ bị sa ngã lắm. Khó lắm, phải cẩn thận. Mình chưa đủ bản lãnh rnà đi độ đời thì dễ bị đời độ lại nghĩa là đắm chìm trong đời. Chưa biết bơi thì đừng nhẩy xuống sông vớt người bị chìm, không có mũ áo phòng lửa thì đừng xông vào nhà cháy cứu người, kẻo cùng bị chết thiêu. 

Thông đạthiểu rõ con đường phải đi, thấy biết những việc phải làm để tới mục đích. Thông đạt Phật Ðạo là thực hành những pháp môn tu hành, biết rõ con đường chân chánh phải đi để tới được quả vị Phật, là hiểu tường tận những việc cần làm để thành tựu được mục đích tối hậu của người tu, đó là thành Phật, không phải chỉ riêng mình thành Phật mà tất cả chúng sinh đều thành Phật. Trong bốn lời thệ nguyện lớn của người phát Bồ Ðề Tâm, lời thề thứ tư là: Phật Ðạo vô thượng thệ nguyện thành. Phần đông chúng ta đều nghĩ rằng muốn thông đạt Phật Đạo, muốn biết rõ con đường dẫn tới quả vị Phật thì phải tinh tấn làm lành lánh dữ, bỏ ác theo thiện, dứt trừ tham sân si... nhưng ở đây, ông Duy Ma Cật lại nói phải thực hành phi đạo, nghĩa là trái đạo, chẳng phải đạo, thế là làm sao, có mâu thuẫn không? 

Bồ Tát có hai lối thị hiện: hiện thân trong thuận cảnh hoặc nghịch cảnh. Hóa độ chúng sinh trong thuận cảnh thì dễ, gặp người hiền lành tử tế chăm chỉ tu hành thì Bồ Tát chỉ nương theo đó mà hướng dẫn thêm, không khó khăn nhọc mệt, ví như thuyền trôi theo dòng nước, đủ buồm lái người chèo. Nhưng trong cảnh nghịch thì khó khăn hơn nhiều, làm thế nào mà vào cảnh khổ hoặc vào những nơi nhiều cám dỗ hưởng thụ dục lạctâm không khởi vọng, không chấp trước phân biệt, không bị ngoại cảnh chi phối, vẫn thanh tịnh sáng suốt tự tại. Các Bồ Tát giữ được tâm như như bất động vì các Ngài tự nguyện thị hiện vào nghịch cảnh chứ không bị đọa lạc lôi cuốn vào, chỉ dùng phương tiện vào đó để khuyên bảo người, làm gương trong sạch dạy dỗ chúng sinh, nhờ bản tâm an định sáng suốt mà làm việc lợi tha. Bồ Tát vào những nơi đau khổ nhơ uế không phải do nghiệp lực, do luật nhân quả mà chỉ do lòng đại bi, oai thần thị hiện nên không lúc nào bị vô minh chi phối, các Ngài cảm hóa chúng sinh đi theo con đường chân chánh. Có vào những nơi đó thì mới gần gũi, cảm thông với người trong đó, có thân cận thì nói họ mới chịu nghe, chứ cứ ở nơi xa, cảnh ngoài thì chỉ là nói suông, khó gây ảnh hưởng. Những người đồng cảnh bao giờ cũng thông cảm nhau, nghe nhau hơn. 

Bồ Tát có thể thị hiện gây phạm năm tội vô giánnăm tội lớn nhất trong Phật Giáo: Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sư hòa hợp của chư Tăng và làm thân Phật chảy máu. Ai tạo năm tội này phải đọa vào địa ngục vô gián (A Tỳ) chịu các sự khổ không lúc nào ngừng nghỉ. Bồ Tát dùng phương tiện giả dạng phạm năm tội lớn này mà không buồn giận, chỉ nương đó chỉ dạy chúng sinh đừng bao giờ làm những việc đó. Các Ngài thị hiện trong ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hiện thân trong ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, nhưng vẫn an nhiên giải thoát, không bị sinh tử luân hồi. Các Ngài thị hiện tham sân si, phá giới, điên loạn, kiêu mạn... để chúng sinh thấy đó mà sợ, không làm theo. Các Ngài giả bộ giận dữ, la hét, đáng mắng để dạy các người lười biếng cứng đầu khiến họ phục tòng vâng lời, động cơ thúc đẩy các Bồ Tátlòng từ bi, là tình thương chứ không phải độc ác. Tùy theo căn tánh chúng sinhBồ Tát thị hiện thuận hay nghịch, mục đích duy nhất là khiến chúng sinh vâng theo, làm lành lánh dữ mà thôi, các Ngài không tham chấp, không mong cầu, tâm lúc nào cũng thanh tịnh

Các người tu theo hạnh Thanh Văn thì không dám làm những việc phi đạo, thí dụ phạm giới giết người để cứu nhiều người khác, phạm giới nói dối để cứu người đang bị truy tầm oan ức... các Bồ Tát thì dám làm dù mình có bị thiệt thòi, bị tội, nhưng cứ lợi tha là được. Dương Lễ thị hiện kiêu mạn để dạy Lưu Bình, khéo léo dùng phương tiện để giáo hóa bạn bớt ăn chơi lười biếng, chăm học thi đỗ. Các Bồ Tát tự ví như cầu đò, hạ mình làm việc thấp hèn, dù bị người đời khinh bỉ giẫm đạp nhưng vẫn chịu đựng như cây cầu, chiếc đò bị người bước lên trên mà vẫn mặc nhiên, vẫn giúp người đi sang bờ bên kia

Các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật chỉ mong cầu tự giác, thoát vòng sinh tử luân hồi cho là đủ rồi, đắc Niết Bànrốt ráo, không có chí nên tu thêm nữa, cho nên các Bồ Tát thị hiện làm hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật nhưng không ngừng bước hài lòng với kết quả nửa chừng, mà tiến tu thành Phật để làm gương cho hàng Nhị Thừa tu theo. 

Ðôi khi các Bồ Tát thị hiện tham ăn, tham sắc, lười biếng... bị khinh chê, rồi hối hận sửa đổi tính nết, trở thành người tốt, để dạy chúng sinh thấy rằng những người xấu như vậy mà còn tu được thì ai mà chẳng tu được ? Có khi Bồ Tát thị hiện làm người ngu đần ít học, tới chùa chỉ làm công quả gánh nước, bổ củi, nấu cơm... mà về sau cũng chứng quả. Có khi Bồ Tát thị hiện làm ăn buôn bán kiếm lời nhưng không tham đắm, giúp một số người có công ăn việc làm, lời không vui, lỗ không buồn, chỉ làm trợ duyên cho người khác có phương tiện tu hành. Cứ nơi nào mà chúng sinh cần thì Bồ Tát đến, vì từ bi mà làm, cứ lợi ích chúng sinh thì không quản ngại khó nhọc, đôi khi bị thiệt thòi mà vẫn hoan hỷ

Tóm lại, các Bồ Tát giả hiện vào cảnh xấu, làm việc xấu, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại, chỉ vì mục đích hóa độ chúng sinh, làm gương cảnh tỉnh chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh tu hành, đó là nghĩa câu Phi Ðạo là Phật Ðạo. Các Bồ Tát làm những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật Ðạo. 

Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù: Thế nào là hột giống Như Lai? Ngài Văn Thù cũng nói y như ông Duy Ma Cật đã nói ở trên, nghĩa là nói ngược lại ý nghĩa thông thường: Thân, vô minh, ái, tham sân si... tất cả 62 món tà kiếnphiền não đều là hột giống Phật cả. Ðoạn kinh này đả phá hàng Thanh Văn, Duyên Giác mới chứng Niết Bàn cho là đủ, không chịu tiến tu Phật Ðạo. Hàng Nhị Thừa thấy đời là khổ, chúng sinh cang cường khó bảo khó dạy, tội lỗi phiền não thì nhiều, ái dục ma chướng thì lắm, nên các Ngài không muốn ở lại trong xã hội, mà các Ngài xa lánh cuộc đời, vào núi rừng trầm không thú tịch, vui hưởng Niết Bàn riêng mình. Ðức Phật quở trách nhóm này là ích kỷ, mầm khô hột thối, không còn ích lợi gì cho chúng sinh

Phiền não đều là hột giống Phật, phiền não tức Bồ Ðề có nghĩa là nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả phiền não chính lại là những vật liệu xây dựng Bồ Ðề. Chúng ta lỡ phạm tội, gây phiền não, chịu khổ đau nên trải qua nhiều kinh nghiệm, không còn tham đắm dục lạc biết là vô thườngbất tịnh nên thành tâm sám hối, tinh tấn tu hành, biến tội lỗi thành công đức, chuyển phiền não thành Bồ Ðề, là hột giống chuyển chúng sinh thành Phật. Bà mẹ hiền nuôi dưỡng đàn con, dạy dỗ nên người, công lao khó nhọc, làm tròn nhiệm vụ người mẹ, đó là tu hành, đôi khi cũng la mắng đánh đập, nhưng để khiến đàn con nghe lời ngoan ngoãn, thành người tốt. Mẹ gánh phiền não nhưng đàn con trở nên người tốt, nhờ công lao bà mẹ, hột giống Phật nẩy mầm, phiền não chính là Bồ Ðề vậy. 

Các hàng Thanh Văn tuy đã diệt trừ được các phiền não nhiễm ô, nhưng xa lánh cuộc đời, không có kinh nghiệm độ sinh, thiếu từ bi hỷ xả, khó phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Còn Bồ Tát thấy có bổn phận phải vào đời để cứu giúp chúng sinh, còn chúng sinh đau khổ thì Bồ Tát không thể an vui hưởng Niết Bàn được. Bồ Tát là người trước đây còn đau khổ, nay được hết khổ thì có bổn phận đưa đường cho chúng sinh đi tới nơi hết khổ. Ví như người bị bệnh tìm ra phương thuốc chữa khỏi bệnh cho mình rồi thì phải đem thuốc đó ra cứu những người khác đang bệnh, lấy kinh nghiệm bị bệnh rồi uống thuốc được khỏi bệnh ra truyền dạy người khác. Thuốc được phát minh là do có bệnh, Bồ Ðề có được chính do phiền não mà ra. Diệt hết phiền não thì Bồ Ðề hiện. Ðối trị được phiền não, đối cảnh không sinh tình, tâm an cảnh định, đó là phiền não chính là hột giống Như Lai

Người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết Bàn) thì không thể còn phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác: Thấy vô vi là chứng được ngã pháp là Không, rồi xa lánh cuộc đời, có thái độ tiêu cực chán đời, không có lòng cứu giúp người khác vì sợ khó sợ khổ, những hạng người đó khóng thể phát tâm Bồ Ðề được. Còn các Bồ Tát tuy cũng thâm nhập năm uẩn là Không, nhưng Không đây chẳng phải là chẵng có gì hết, mà trong cái Không này lại hiện ra cái có, cái Không này là nguồn gốc của mọi sự mọi vật, đó là lý Chân Không Diệu Hữu, các Ngài thấy tất cả là một. Bồ Tát không lìa chúng sinh, mà có liên quan mật thiết với nhau, bứt dây động rừng, cái này có là cái kia có, cái này không là cái kia không, trùng trùng duyên khởi, vì vậy các Bồ Tát qua lại ba cõi thị hiện các thân hình làm các việc khó làm để hóa độ chúng sinh. Mà chúng sinh ở đâu? Ở trong cuộc đời đầy xấu xa tội lỗi phiền não nếu không vào đó thì làm sao cứu độ? Nếu không mọc trong bùn thì làm sao hoa sen có mùi thơm? Nếu không xuống biển thi làm sao tìm được bảo châu vô giá ? Nếu không vào biển cả phiền não thì làm sao có được ngọc Nhất Thiết Trí, là trí huệ biết tất cả mọi sự mọi vật. Lấy thí dụ trong cuộc đời hiện tại: những sinh viên các nước chậm tiến nghèo đói được gửi đi du học tại các nước có nền khoa học tiến bộ, sau khi thành tài không muốn trở về nước phục vụ đồng bào vì ngại đời sống thấp, dân trí hèn, ngại khổ, ngại buồn, họ ở lại nước ngoài để hưởng thụ sự sung sướng dục lạc cho riêng mình. Ðó giống như tâm trạng hàng Thanh Văn. Nhưng cũng có một số sinh viên sau khi thành tài liền trở về nước phục vụ đồng bào, cải tổ đời sống xã hội, nâng cao dân trí, làm sao tất cả dân chúng trong nước được hạnh phúc, riêng mình vất vả cũng vui. Ðó là tâm trạng chư vị Bồ Tát, vì người quên mình

Lúc bấy giờ Ngài Ðại Ca Diếp, đại diện cho các hàng Thanh Văn Duyên Giác, tỉnh ngộ, nói lời tán thán Ngài Văn Thù và tự trách Nhị Thừa không còn lợi ích gì vì không có chí nguyện độ sinh. Phàm phu ở trong Phật Phápphát tâm Vô Thượng Bồ Ðề thì còn hơn hàng Nhị Thừa không phát đạo tâm cứu giúp chúng sinh

Lúc đó trong chúng hội có một Bồ Tát tên là Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cậl rằng: Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, tôi tớ, xe cộ, voi ngựa, là ai và ở đâu? Phổ là rộng, Hiện là hiện ra cho thấv. Bồ Tát Phổ Hiện Sắc Thân tượng trưng cho việc các Bồ Tát vì lòng tư bi mà thị hiện rộng rãi nhiều thân hình trong ba cõi sáu đường, làm những việc khó làm để chúng sinh trông thấy mà noi theo. Mỗi khi đọc tên một vị Bồ Tát trong kinh điển Ðại Thừa, chúng ta nên lưu tâm tìm hiểu danh hiệu đó muốn nói lên một ý nghĩa thâm sâu huyền bí chứ không phải một tên hiệu thông thường. Ở đây, Bồ Tát Phổ Hiện Sắc Thân lên tiếng hỏi, hàm ý Kinh muốn nói rộng ra cho mọi người hiểu thêm, lập lại và nói tóm lại cho rõ ràng, giúp mọi người hiểu biết rành mạch và không quên. 

Ðức Phật thuyết pháp cho người đến nghe. Ngài chỉ nói và không có ai ghi chép nên e ngại một số đông thính giả không nhớ hết, Ðức Thế Tôn thường áp dụng lối nói pháp gọi là Trùng Tụng nghĩa là sau khi trình bày giáo lý, Ngài lập lại bằng một bài kệ văn vần tóm tắt ý nghĩa vừa nói, giúp người nghe dễ học dễ nhớ. 
Trong bài kệ này, ông Duy Ma Cật nhắc lại: Trí HuệPhương tiện là quan trọng nhất, sinh ra các pháp, ví như cha mẹ sinh ra các con. Trí độtrí huệ độ người sang bờ bên kia, dịch nghĩa chữ Bát Nhã Ba La Mật Ða phiên âm chữ Phạn Prajna Paramita, là trí huệ rốt ráocông năng đưa người qua sông mê bể khổ tới bờ giải thoát rốt ráo an vui. Cũng có nghĩa là Trí Huệ của những ai đã sang tới bờ bên kia. Bờ bên này là ba cõi, là trần lao đau khổ, luân hồi vô minh; bờ bên kiaNiết Bàn an lạc, giác ngộ giải thoát. ở giữa là dòng sông sinh tử

Trí Huệ được coi là quan trọng nhất trong pháp môn Lục Ðộ của Bồ Tát Ðạo. Còn phương tiện là cách thức áp dụng giáo lý vào cuộc đời, cần tùy duyên uyển chuyển sao cho hợp thời hợp cơ trong việc hóa độ chúng sinh đi tới cứu cánhgiác ngộ. Rồi ông Duy Ma Cậl nhắc lại các hạnh tu khác như Từ Bi, 37 phẩm trợ đạo, Tứ Nhiếp Pháp, Tổng Trì, Bát Chánh Ðạo... để dẹp giặc phiền não, hàng phục bốn thứ ma (phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma, thiên ma, ở đoạn trên đã giải thích) chia ra nội ma và ngoại ma. Nội ma là những thói hư tật xấu tiềm ẩn trong lòng xúi giục chúng sinh gây tội lỗi phiền não. Ngoại ma là những chướng ngại, cạm bẫy ở ngoài đời thử thách công phu tu hành, gây khó khăn xem người tu có vượt qua được không? Các Bồ Tát có đủ oai lực để hàng phục bốn thứ ma đó nên các Ngài hiện thân các cõi để dạy bảo chúng sinh. Có khi các Ngài thị hiện nghịch cảnh việc ma để chúng sinh biết mà xa lìa. Có khi thị hiện sinh già bệnh chết để chúng sinh hiểu lý vô thường huyễn hóa mà không tham đắm việc thế gian, dù biết tất cả là Không mà vẫn tu về Tịnh Ðộ, thị hiện trong cõi dục giới để dạy chúng sinh tu thiền định, thị hiện làm dâm nữ để phương tiện dạy kẻ háo sắc chán lìa nhục dục... Bồ Tát hóa hiện mọi thân hình trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch, dùng mọi phương tiện để cứu độ chúng sinh, dẫn vào Phật Ðạo. Hai câu sau đây nói lên sự khéo léo của Bồ Tát: Trước lấy dục dụ người, sau khiến vào Trí Phật, nghĩa là biết chúng sinh ham ưa những điều khoái lạc, nếu nói trái ý thì không nghe, nên trước tiên Bồ Tát chiều theo ý chúng, ưa trang điểm thì cho đồ trang sức, ưa món ăn ngon thì cho thức ăn vừa ý, thích nghe hát thì cho nghe, thích đọc truyện thì cho đọc, nhưng lần lần chuyển về phía tốt, dạy trang sức bằng đức hạnh, ăn ngon bằng thiền duyệt, hát hay bằng tán thán, đọc truyện bằng kinh điển... tóm lại, chúng sinh ưa gì thì Bồ Tát cho nấy để họ vừa lòng và chịu nghe lời, sau đó mới tùy thuận mà dùng trí huệ dẫn dắt. Nếu thấy, người uống rượu mà mình la rầy thì chắc chắn họ không nghe, họ bực mình, nào có ích gì. Có khi Bồ Tát thị hiện làm người buôn bán kiếm nhiều lời để bố thí cho chúng sinh, vừa vì lòng từ bi, vừa làm gương cho họ theo đó phát tâm bố thí. Có khi Bồ Tát hiện làm tôi tớ giúp việc cho người để người chủ vừa ý, khởi phát đạo tâm, thấy tôi tớ mình nghèo hèn mà còn làm những việc tốt, huống chi mình giàu có, người chủ bắt chước tôi tớ mà làm việc thiện.

Chỗ sai khác giữa Bồ Tát thị hiệnchúng sinhBồ Tát làm mọi việc thiện áckhông chấp, làm xong là bỏ, còn chúng sinh làm với lòng mong cầu. Bồ Tát bố thí để giúp người thiếu thốn, chỉ vì muốn họ bớt khổ. Họ cám ơn hay không, họ có phát tâm làm lành hay không? Bồ Tát không chú ý, làm vì biết đó là tốt làm xong là quên. Chúng sinh bố thí mà người ta quên cám ơn là buồn, thối tâm, sau không làm nữa. Như vậy chúng sinh bố thí là để cầu danh, cầu được lời cám ơn, còn chấp ngã, có chút từ bi nhưng thiếu hỷ xả

Ðại ý phẩm này là các Bồ Tát làm mọi việc để dẫn dắt chúng sinh vào Phật Ðạo, dùng mọi phương tiện thuận hoặc nghịch, có khi phải thực hành Phi Ðạo các Ngài cũng sẵn sàng chiều theo xu hướng thế gian, rồi lần lần tìm cách xoay hướng về đường ngay lẽ phải. Ai được nghe pháp lành này mà chẳng phát tâm Bồ Ðề, chỉ trừ những kẻ ngu si không có trí huệ, không biết xấu hổ vì còn sống trong vô minh quá dầy đặc. 

Phẩm này đề cao công hạnh của các Bồ Tát thị hiện vào đời để hóa độ chúng sinh, thấy khổ không sợ, thấy sinh tử không chán, thấy chúng sinh tội lỗi thì thương, thấy khó khăn nhọc mệt không xa lánh, phẩm này cũng chê trách hàng Thanh Văn chỉ mong giải thoát riêng mình, lánh xa cuộc đời xấu ác nhiễm ô.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14769)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12768)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12070)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15300)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10543)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12480)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16434)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14319)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11794)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14815)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12036)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16861)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12740)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52160)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15472)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13973)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13188)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12792)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13227)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12458)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14435)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57992)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14510)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20151)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13795)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15412)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17500)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13323)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11938)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13494)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12496)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12066)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13293)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13670)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13333)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25609)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12183)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14562)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11868)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42083)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38815)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14727)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12707)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16245)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant