Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10 Phẩm Phật Hương Tích

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8280)
10 Phẩm Phật Hương Tích


ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

10. Phẩm PHẬT HƯƠNG TÍCH

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất, đại diện cho hàng Thanh Văn đệ tử hãy còn phân biệt thời gian, thấy gần đến giờ ngọ là nghĩ đến việc ăn trưa. Các tu sĩ Nam Tông giữ giới luật ăn ngày một bữa trước giờ ngọ, nếu lỡ quá ngọ chưa ăn thì phải nhịn luôn. Còn các tu sĩ Bắc Tông thì uyển chuyển hơn, quá ngọ ăn cũng được, hoặc ăn ngày hai hoặc ba bữa cũng được, không phải là tham ăn, chỉ do thói quen và để giữ sức khỏe mà thôi. 

Ông Duy Ma Cật muốn làm lợi ích giúp cho hàng Thanh Văn được biết mùi vị giải thoát bèn nhập chánh định, dùng sức thần thông hiện bày cho đại chúng thấy rõ cảnh giới phương trên có nước Phật tên là Chúng Hương, Ðức Phật hiệuHương Tích, nước ấy không có Thanh VănBích Chi Phật, chỉ có Bồ Tát thanh tịnh được Phật nói pháp cho nghe. Tất cả nhà lầu, vườn hoa, ruộng đất, cơm nước đều do chất hương thơm tạo thành. Ông Duy Ma Cật hóa phép ra một vị Bồ Tát và sai bay lên nước Chúng Hương xin cơm thơm về cho mọi người ăn. 

Nếu cứ theo nghĩa đen, chữ đâu nghĩa đó, thì ở phương trên có nước Chúng Hương, có Phật Hương Tích, có các Bồ Tát, có cơm thơm, không có hàng Thanh VănBích Chi Phật. Theo nghĩa bóng thì các Thanh Văn cần chuyển tâm niệm hẹp hòi cầu pháp nhỏ biến thành Tâm Bồ Ðề, bỏ vật chất thế gian để được của báu xuất thế gian, bỏ giường ghế để được ngồi tòa sư tử, bỏ cơm gạo thường để được ăn cơm thơm Chúng Hương, bỏ lòng cầu Niết Bàn cho riêng mình để phát tâm Bồ Ðề cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hành Bồ Tát Ðạo lợi ích chúng sinh

Nước Chúng Hương thanh tịnh thơm tho nhẹ nhàng vì được tạo thành bằng các hương thơm, trái với cõi Ta Bà nặng nề nhơ uế vì do vật chất làm ra. Cõi Ta BàThanh VănBích Chi Phật còn ham pháp nhỏ tu theo Tiểu Thừa, được ít cho là đủ, còn nước Chúng Hương chỉ có hàng Bồ Tát thanh tịnh được Phật dạy bảo, ý kinh muốn đưa ra sự so sánh hai cõi để chuyển tâm hàng Nhị Thừa hướng về Nhất Thừa Phật Đạo. 

Chỗ khéo léo của Kinh này là không muốn làm hàng Thanh Văn hổ thẹn vì lỡ ham pháp Tiểu Thừa, nên Bồ Tát Văn Thù nói đỡ: “Chớ nên khinh người chưa học”. Nếu làm quý vị Thanh Văn xấu hổ quá thì họ sẽ bỏ đi rất uổng nên Bồ Tát Văn Thù phải nói khéo để gỡ danh dự cho họ, rồi phương tiện hướng dẫn vào Phật Ðạo. Trong Kinh Pháp Hoa, khi Phật thuyết giáo lý Ðại Thừa, quy ba thừa về một thừa, có năm ngàn Tỳ Kheo bỏ đi. Nhưng ở đây, Ngài Văn Thù cố giúp hàng Thanh Văn chuyển tâm theo Ðại Thừa. Cũng một ý đó, Ðức Phật Hương Tích căn dặn các Bồ Tát nước Chúng Hương phải tạm giấu thân hương thơm tho tốt đẹp, chớ để chúng sinh cõi Ta Bà sinh tâm mê đắm và tự hổ thẹn. Vì sao? Ðức Phật muốn hóa độ những người ưa pháp nhỏ nên hiện ra cõi Ta Bà ô trược hầm hố xấu xa, chứ mười phương cõi nước đều như hư không, vô phân biệt. Ðức Phật biết rành tâm lý, không muốn hàng Thanh Văn buồn thẹn mà mong họ thấy cõi Phật Chúng Hương đẹp đẽ mà khởi lòng tu theo Ðại Thừa. 

Phật Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng Hương đựng đầy cơm thơm trao cho Hóa Bồ Tát, vị này cùng chín trăm vạn Bồ Tát ở nước Chúng Hương biến hình, trong khoảnh khắc về đến nhà ông Duy Ma Cật. Ông này hóa hiện ra chín trăm vạn tòa sư tử để mời các Bồ Tát ngồi. Vị Hóa Bồ Tát đem bát cơm thơm dâng lên ông Duy Ma Cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ Xá Li và cả cõi tam thiên đại thiên thế giới

Chín trăm vạn Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử trong nhà ông Duy Ma Cật mà không thấy chật hẹp vì đây là nói về Bản Thể dung thông vô ngại, vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có rộng chật gì cả, mười phương thế giới nằm trong hạt cải mà vẫn hiện đủ núi non sông biển. Vì không có vật chất nên không chướng ngại. Thí dụ: chụp hình mặt trăng vào trong tấm ảnh nhỏ xíu mà phong cảnh mặt trăng hiện ra đầy đủ. Chúng ta nghĩ tới quê hương thì hình ảnh núi đồi sông ngòi nhà cửa hiện ra trong tâm thức, những hình ảnh đó đều dung thông vô ngại

Trưởng Giả Chủ là người đứng đầu các vị trưởng giả làm chủ tể cai trị nhân dân trong thành. Nguyệt Cái là tên ông ta, mà cũng có ý nghĩa là cái lọng (bảo cái) hình tròn như mặt trăng dùng để che mưa nắng bụi bậm không làm khó chịu bậc tôn quý. Trưởng Giả Chủ Nguyệt Cái đem theo tám vạn bốn ngàn người đến đảnh lề các Bồ Tátđại đệ tử, là có ý tượng trưng cho việc các chúng sinh đã phát tâm quy y Tam Bảo, tuân thủ giáo lý Ðại Thừa. giáo lý này tròn trặn đầy đủ, hoàn toàn viên mãn, có công năng che chở chúng sinh khỏi bị nhiễm ô, ví như cây lọng báu che các vị Vua quan quyền quý

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo Ngài Xá Lợi Phất và các đại đệ tử Thanh Văn lấy cơm thơm mà ăn, dùng cơm vị cam lồ của Như Lai do đại bi huân tập, đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thì không tiêu được. Có các Thanh Văn khác nghĩ rằng cơm này ít lắm mà đại chúng ngưởi nào cũng phải ăn. Làm sao cho đủ ? 
Ðây là các vị Thanh Văn còn chấp tướng, phân biệt cơm ít người nhiều, còn ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà bảo: đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thời không tiêu được. Vị Hóa Bồ Tát cũng nói: Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn mà so lường phước huệ vô lượng của Như Lai

Rõ ràng là đoạn này muốn đưa người đang tu theo giáo lý Tiểu Thừa bước sang Ðại Thừa, muốn hướng dẫn hàng Thanh Văn vào Bồ Tát Ðạo. Ðừng có ý hạn lượng phân biệt thì cơm mới tiêu, thì mới kham được pháp lớn, thì mới bỏ tướng trạng mà nhập Bản Thể Chân Như vô cùng vô tận. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, ngườì ăn no đủ mà cơm vẫn còn, thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm. 

Có một bát cơm mà tất cả chúng hội mấy trăm vạn người ăn no đủ mà vẫn còn, người ăn lại cảm thấy thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm thì thật là huyền diệu nhiệm mầu, nhất định không phải là loại cơm gạo vật chất để nuôi thân, mà là cơm gạo tinh thần để nuôi tâm, trưởng dưỡng phát huy Tâm Bồ Ðề. Vì không phải vật chất nên không có hạn lương, vì thuốc tâm linh nên ảnh hưởng lan rộng cao xa, mùi vị của Đạo thấm vào tâm hồn khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát, lâng lâng thoát tục, mình được hưởng Pháp vị rồi lại muốn đem Pháp vị cho người khác, nên các lỗ chân lông thường ra mùi hương thơm, các loài chúng sinh khác cũng được ngửi mùi hương đó. Người xưa có hai câu thơ để diễn tả Ðạo vị : 

Quế hương bất viễn thư hương viễn, 
Thế vị vô như Ðạo vị trường. 

nghĩa là mùi hương của quế không thoảng xa bằng mùi thơm của sách vở, vị ngon ngọt của đời không kéo dài lâu xa bằng mùi vị của Ðạo Ðức. 

Cơm thơm của Phật Hương Tích ban cho chúng hội trong nhà ông Duy Ma Cật chính là Pháp Thực, là Thiền Duyệt Thực là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, chúng ta nghe một bài pháp say sưa quên đói, ngồi thiền cảm thấy no đủ sung sướng, mà Pháp và Thiền thì rộng rãi vô cùng, bao nhiêu người nghe, người tu cũng đầy đủ, không thiếu. Pháp, Thiền, Ðạo, sách vở kinh điển... đều là những món ăn tinh thần cần thiết giúp người tu mở mang trí huệ, tự giác giác tha. Mình được ăn rồi, nếm rồi, nghe rồi thì phải mời người khác cùng hưởng Pháp vị như mình. 

Ðoạn kinh sau đây so sánh lối nói pháp ở hai cõi Chúng Hương và Ta Bà. Cõi Chúng Hương ở trên cõi Ta Bà cách xa 42 số cát sông Hằng cõi Phật, nhẹ nhàng siêu việt hơn cõi Ta Bà nhiều, cho nên Ðức Phật Hương Tích không cần dùng ngôn ngữ văn tự để nói, mà chỉ dùng các mùi hương thơm khiến các Trời người vâng giữ luật hạnh (giữ gìn giới luật, không làm việc ác, chỉ làm hạnh lành). Các Bồ Tát cõi đó chỉ việc ngồi dưới cây hương, ngửi mùi hương thơm mầu nhiệm là được Tam Muội Nhất Thiết Ðức Tạng, nghĩa là được chánh định đầy đủ tất cả mọi công đức. Ý kinh muốn nói chúng sinh cõi Chúng Hương nghiệp nhẹ nên chi cần ngửi mùi hương là phát tâm tu hành. Tâm Phậtchúng sinh dễ dàng cảm thông

Còn chúng sinhcõi Ta Bà thì nghiệp nặng, cang cường khó giáo hóa, cứng đầu cứng cổ, nên Ðức Phật Thích Ca phải phương tiện dùng lời nói cứng rắn mạnh mẽ để điều phục họ. Ðây là các phương pháp giáo hóa khác nhau mà chư Phật áp dụng tùy từng cõi. Chúng sinh dễ dạy thì dùng phương pháp nhẹ nhàng dịu ngọt, chúng sinh khó dạy thì dùng phương pháp oai dũng nặng nề như trách mắng đe dọa, nhưng tất cả mọi phương pháp đều cùng một mục đíchchỉ đường dẫn lối chúng sinh về nẻo giác. Ở cõi Ta Bà uế trược, Ðức Phật cho thấy có ba cõi sáu đường, có luật nhân quả luân hồi chi phối, để chúng sinh sợ hãi nhàm chán, rồi Ngài dạy quy y giữ giới, làm lành lánh đữ, điều phục thân miệng ý, so sánh phân biệt tội phước, hữu lậu với vô lậu, thế gian với Niết Bàn... Tuy biết rằng phân biệt như vậy là không đúng với Chân Lý Bình Ðẳng Nhất Như, nhưng Ðức Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài mà dùng phương tiện tùy theo sở thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sinh: Phật biết chúng sinh ưa gì thì cho nấy, lúc đầu chúng ưa pháp nhỏ, được Hữu Dư Y Niết Bàn đã cho là đủ, nay đã đến thời cơ đem pháp lớn dạy người tu hành tiến tới chỗ giác ngộ rốt ráo. Kinh Pháp Hoa đưa ra thí dụ Hóa Thành là cùng một ý nghĩa như vậy. 

chúng sinh cõi Ta Bà phước mỏng nghiệp dầy, khó bảo khó dạy, nên các Bồ Tát phải dùng sức phương tiện chịu khổ sở nhẫn nhục, dùng lòng đại bi vô lượng thị hiện sinh vào cõi này, ẩn giấu thân tướng to lớn cao đẹp và hiện ra thân hình bé nhỏ xấu xa, thật là mộl sự hy sinh rất lớn lao mà chỉ các Ðại Bồ Tát mới làm được. Tuy nhiên, các Bồ Tát ở cõi này làm lợi ích cho chúng sinh trong một đời còn hơn trăm ngàn kiếp tu hành ở các cõi khác, vì sao? Vì chúng sinh cõi Ta Bà có nhiều thói hư tật xấu để Bồ Tát dạy dỗ, chúng sinh các cõi khác không có tật xấu thì Bồ Tát lấy ai mà cứu độ? Ðúng vậy, có người nghèo đói thì mình mới có cơ hội bố thí, có người giận dữ thì mình mới có cơ hội tu nhẫn nhục, có người loạn động thì mình mới có cơ hội dạy họ tu thiền định, có kẻ ngu si thì mình mới có cơ hội khuyên họ tu trí huệ, có người ưa pháp Tiểu Thừa thì mình mới có dịp đem giáo lý Ðại Thừa ra thuyết giảng... còn ở các cõi Tịnh Ðộ khác, dân chúng đều thanh tịnh tinh tấn tu hành thì các Bồ Tát không có duyên lành giáo hóa, thiếu mục tiêu làm việc lợi tha

Bồ Tát cần nương chúng sinh để được sinh về cõi Tịnh Ðộ, cần hóa độ chúng sinh để hoàn mãn nguyện lớn tiến lên quả vị Phật. Muốn vậy, các Bồ Tát cần thành tựu tám pháp lành: 

1) Làm lành mà không mong báo đáp (vô cầu). 
2) Gánh chịu khổ não cho chúng sinh (từ bi). 
3) Ban công đức cho chúng sinh (hỷ, xả, lợi tha). 
4) Dưới khiêm nhường chúng sinh, trên cung kính Bồ Tát (trên kính, dưới nhường, hạ mình đối đãi bình đẳng, không ngăn ngại). 
5) Cầu học những điều chưa biết (tiến tu, không nghi ngờ). 
6) Không chống trái với hàng Thanh Văn (không khinh chê người tu kém, dùng phương tiện dắt dẫn họ tiến thêm). 
7) Không ganh ghét tật đố, không khoe mình chê người (điều phục tâm). 
8) Trách mình, tha thứ cho người (hướng nội tự tu, hướng ngoại lợi tha), nhất tâm cầu công đức (hướng về giác ngộ giải thoát, không mong phước đức thế gian). 

Ðây là tám phương pháp mà các Bồ Tát và tất cả những ai tu hạnh Bồ Tát Ðại Thừa cần phải thực hành, tựu trung vẫn là phá ngã chấppháp chấp, phát triển từ bi hỷ xả, lợi tha, không khinh chê kẻ có tội hay người tu còn kém, thượng cầu Phật Ðạo, hạ hóa chúng sinh, điều phục tâm mình, chỉ tự trách mà còn tha thứ cho người, chỉ nhìn lỗi mình không thấy lỗi người, có được chút công đức gì thì chia xẻ cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật Ðạo. 

Sau khi được nghe ông Duy Ma Cật và Ngài Văn Thù nói pháp mầu, trong đại chúng có trăm ngàn Trời người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, những hạng Trời người này trước chỉ tu phước hoặc mong cầu Niết Bàn của Tiểu Thừa, nay tỉnh ngộ phát tâm tu theo Ðại Thừa. 

Mười ngàn Bồ Tát chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn: Các Bồ Tát mới phát tâm được nghe Chánh Pháp cao siêu nhiệm mầu, trí huệ sáng soi, diệt trừ được vi tế vô minh, chứng quả vô sinh bất thối chuyển, thẳng tới quả vị Phật. 

Mật ý của phẩm này là đề cao sức oai thần của các vị Ðại Bồ Tát mà từ trước các hàng Thanh Văn, Trời người chưa thấy chưa biết, sự hiểu biết của họ còn nông cạn, như những người mù sờ voi, chỉ biết một phần sự thật mà thôi. Ông Duy Ma Cật xin cơm thơm ở nước Chúng Hương bên trên đem về cho hàng Thanh Văn, Trời người ăn, có ý nghĩa là đem Chân Lý cao siêu huyền diệu tột cùng ra chỉ dạy để dắl dẫn người tu tiểu Thừa hoặc tu phước, nay chuyển sang Ðại Thừa, hướng về giác ngộgiải thoát cho tất cả chúng sinh. Nhờ cơm mà chúng sinh no, nhờ pháp Ðại Thừa mà chúng sinh được giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11780)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12735)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10308)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12031)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15250)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11044)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10483)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12435)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16386)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14269)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11739)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14763)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11996)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16788)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12706)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11314)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52041)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15430)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13943)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11410)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13141)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12751)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13188)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17869)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12420)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12618)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54166)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14395)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9900)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13794)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57907)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14462)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20091)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13745)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15370)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17466)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13294)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11887)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13467)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14632)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12454)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12136)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12044)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13265)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12508)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13644)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13305)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25523)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12164)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14510)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11822)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42032)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28281)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38749)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14701)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12675)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16227)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant