Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13 Phẩm Pháp Cúng Dường

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7790)
13 Phẩm Pháp Cúng Dường


ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

13. PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG

Pháp, dịch nghĩa chữ Phạn Sanskrit Dharma hoặc chữ Pali Dhamma, có nhiều nghĩa hết sức rộng rãi. Cổ đức thường định nghĩa Pháp là: Nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải, nghĩa là nắm giữ tự tánh vật nào đi vật đó, có những quy tắc riêng biệt để phát sinh lời giải thích của vật đó. Thí dụ: Cái bàn hình chữ nhật hoặc vuông hoặc tròn, bằng gỗ hoặc sắt hoặc đá, có bốn chân, dùng để bầy sách vở hoặc bát đĩa ăn cơm, ai thấy cũng biết ngay là cái bàn. Vậy cái bàn là một pháp. 

Không những pháp là những vật có hình tướng, có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm được, mà những vật không hình tướng như tham giận buồn vui, khổ sướng, các tư tưởng cao siêu hoặc thấp hèn cũng là pháp, cho đến các vật không có thật như lông rùa sừng thỏ, trứng trâu... cũng là pháp. Tóm lại, mọi sự mọi vật có thật hay tưởng tượng, vật chất hoặc tinh thần đều là pháp. 

Nhưng chữ Pháp ờ đoạn kinh này chỉ có nghĩa là lời dạy của chư Phật, là các kinh điển cao quý nhiều lợi ích, là các pháp môn tu hành đưa chúng sinh tới bờ giác. 

Cúng dường là lối đọc trệch của hai chữ Cung Dưỡng. Cung là cung cấp, lo cho đầy đủ. Dưỡng là nuôi lớn. Cung dưỡngcung cấp vật thực để nuôi lớn thân tâm. Ngoài lương thực, tiền bạc, quần áo, thuốc men, nhà ở, vật dụng để nuôi thân, còn có kinh kệ sách vở, lời khuyên dạy, nếp sống thanh cao để làm gương... để nuôi lớn tâm tánh, tất cả đều là vật cúng dường. Tại sao lại đọc trệch ra cúng dường ? Vì hai chữ cung dưỡng chỉ có ý nghĩa tầm thường như con cung dưỡng cha mẹ, người dưới cung dưỡng người trên các thức ăn vật chất để nuôi thân cho no ấm mà thôi, không có vấn đề khuyến khích tu hành, tu tâm dưỡng tánh. Dùng chữ cung dưỡng e tầm thường thấp thỏi quá nên người xưa đọc trệch ra cúng dường để tỏ bầy lòng tôn kính ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Cúng dường bao gồm mọi sự hy sinh tiền bạc, vật thực, thời giờ, sức khỏe, có khi luôn cả thân thể và sinh mạng nữa. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát, ngài Hỷ Kiến Bồ Tát đốt tay rồi đốt thân để cúng dường Phật. Nãm 1963 tại Sài Gòn, Bồ Tát Thích Quảng Ðức tự thiêu để cúng dường Tam Bảo và nguyện dùng ngọn lửa từ bi soi sáng nhà cầm quyền lúc đó đừng kỳ thị tôn giáo. Ðây là những tỷ dụ nói lên sự hy sinh cao cả, quên thân mình, vì chúng sinh

Cúng dường có hai thứ: 
1) Tài cúng dường, gồm tiền bạc, vật thực, quần áo, thuốc men.... 
2) Pháp cúng dường

Tài cúng dường đem lợi ích an lạc cho thân. Pháp cúng dường đem lợi ích an lạc cho tâm. Pháp cúng dường có nhiều cách, nhiều ý nghĩa từ thấp lên cao: 
1) In kinh, dịch sách Phật để ấn tống, truyền bá Pháp Bảo
2) Nghe lời Phật dạy, tin hiểu, thọ trì, giải nói, thuyết pháp độ sinh
3) Truyền dạy các pháp môn tu hành như niệm Phật, tu thiền, trì chú, tụng kinh, để mọi người y pháp tu hành
4) Tinh tấn tu hành, giữ gìn Chánh Pháp, trưởng dưỡng Pháp Thân, tiếp nối ngôi Tam Bảo
5) Theo Kinh Hoa Nghiêm, Pháp cúng dườngcúng dường bằng cách sống và làm theo lời Phật dạy để lợi íchhóa độ chúng sinh, chịu thay thế hết thảy đau khổ cho chúng sinh, siêng tu thiện căn, không rời sự nghiệp Bồ Tát, không bỏ Tâm Bồ Ðề rộng lớn. Thực hành cúng dường như vậy mới là chân thật cúng dường, đó là Pháp Cúng Dường bậc nhất. 
6) Hy sinh tất cả mọi sự mọi vật để đạt tới Chân Lý, rồi đem Chân Lý ra truyền bá cứu giúp mọi loài chúng sinh khiến họ bỏ dữ làm lành, được giác ngộ giải thoát, đó là pháp cúng dường cao cả nhất. 

Bấy giờ, Thích Ðề Hoàn Nhân bạch Phật, tán thán Kinh này và phát nguyện cúng dường ủng hộ những người nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này. Ðức Thế Tôn khen ngợi vị Trời này và dạy thêm: Kinh này rộng nói đạo vô thượng chánh đằng chánh giác bất khả tư nghị của chư Phật quá khứ, hiện lại và vị lai. Nếu ai thọ trì đọc tụng cúng dường Kinh Pháp này thời chính là cúng dường chư Phật quá khứ, hiện tạì và vị lai vậy. 

Thích Ðề Hoàn Nhân, phiên âm chữ Phạn Sakya Devanam Indra, dịch là Ðế Thích, một vị Trời cai quản cõi Trời Ðạo Lợi, thuộc Dục Giới. Vị Trời này thường hay tới nghe Phật thuyết pháp hiện thân ra tán thán, phát nguyện hộ trì Phật Pháp. 

Bất khả tư nghị tự tại thần thông quyết định Thật Tướngbộ kinh diễn tả Thật Tướng, Bản Thể, Chân Lý một cách cao siêu không thể nghĩ bàn được, nếu ai thực hành đúng theo thì nhất định có được thần thông tự tại nghĩa là tự do quyết định sự đi lại ra vào ba cõi, không còn bị sinh tử luân hồi chi phối nữa. 

Ðức Phật so sánh tài cúng dường nghĩa là dùng tiền bạc, vật thực, bảy báu, dựng tháp cúng dường vô lượng chư Phật trong nhiều kiếp... không bằng Pháp cúng dường. Tại sao? Tài cúng dường dù lớn lao đến đâu chăng nữa cũng chỉ đem lại phước báo hữu lậu nơi cõi Trời và người, khi hết phước báo vẫn còn phải chịu luân hồi sinh tử. Tài cúng dường chỉ gieo nhân tốt để rồi hưởng quả lành là phước báo nơi thân, còn pháp cúng dường làm nẩy sinh công đức vô lậu nơi Tâm, đưa đến quả vị giác ngộgiải thoát. Phước báocông đức khác nhau rất xa, như tích truyện giữa Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma và Vua Lương Võ Ðế đã nói rõ. Phước báo có hạn lượng, dù lớn bao nhiêu cũng có lúc hết, còn công đức tức là quả Bồ Ðề thì không có hạn lượng, không tính đếm được. Do đó, pháp cúng dường cao quý hơn tài cúng dường rất nhiều. 

Đức Phật nói thêm với vị Vua Trời: Về quá khứ: có Phật hiệuDược Vương ra đời, có Vua Bảo Cái cúng dường Ðức Phật các đồ cần dùng mãn năm kiếp, rồi bảo ngàn người con cũng phải đem thân tâm cúng dường Phật. Các con vâng lời, trong đó có môt người con tên là Nguyệt Cái suy nghĩ có việc cúng dường nào thù thắng hơn không? Trên hư không có tiếng nói: Pháp cúng dường là hơn hết. Vương Tử Nguyệt Cái không biết liền đến hỏi thì được Phật Dược Vương dạy rằng: Pháp cúng dường là kinh thâm diệu của chư Phật nói ra, là ấn Ðà La Ni, trên hết các kinh, nếu ai nghe tin hiểu thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói chỉ bày rành rẽ cho chúng sinh, giữ gìn Chánh Pháp, đó gọi là Pháp cúng dường. Nắm vững lý bốn đế, mười hai nhân duyên, vô thường vô ngã, y theo bốn điều (Tứ Y), đó là pháp cúng dường thù thắng hơn hết. 

Vương Tử Nguyệt Cái nghe pháp xong liền cởi áo đẹp và đồ trang sức nơi thân đem cúng dường Phật Dược Vương, được thọ ký sau này giữ gìn được thành trì Chánh Pháp. Vương Tử Nguyệt Cái liền xuất gia tu hành, hóa độ trăm muôn ức ngườì, chính là tiền thân của Ðức Thich Ca. 

Nguyệt Cái là cái lọng hình tròn như mặt trăng, các Vua Quan dùng để che mưa nắng bụi bậm. Bảo Cái là lọng lớn hơn, quý hơn, tượng trưng cho Vua Cha, còn Nguyệt Cái nhỏ hơn, tượng trưng cho người con. Lọng chịu đựng cho nắng mưa gió bụi bám vào để che chở cho Vua Quan; Vương Tử có tên là Nguyệt Cái là có ý nói vị Vương Tử này tu hạnh nhẫn nhục, chịu đựng mọi khổ não thử thách để giữ gìn Chánh Pháp. Vị này cởi áo đẹp và đồ trang sức nơi thân để cúng dường Phật, tỏ lòng tôn kínhbiết ơn. Phật Dược Vương đâu có cần dùng các y phục và đồ trang sức, đây có ý diễn tả Vương Tử Nguyệt Cái hy sinh tất cả tài sản quý báu cùng các thú vui vật chất từ trước vẫn cột chặt nơi thân, nay đem bỏ đi để đổi lấy Chánh Pháp của Phật, tu hạnh nhẫn nhục để hàng phục mọi ma oán, cám dỗ của năm sự ham muốn (ngũ dục lạc): tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nghỉ, vị Vương Tử này đã bỏ những thú vui vật chất nơi thân để được những công đức nơi Tâm, giữ gìntruyền bá rộng rãi Chánh Pháp của Phật, hóa độ vô lượng chúng sinh, trải qua nhiều đời nhiều kiếp được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni

Ðức Phật Thích Ca kết luận: Này Thiên Ðế, Pháp cúng dườngthù thắng cao cả hơn hết trong các việc cúng dường, không gì sánh kịp, các ông phải lấy Pháp cúng dườngcúng dường các Đức Như Lai. Thực hành Pháp cúng dường là gieo nhân lành đưa đến quả vị Phật hoàn toàn giác ngộgiải thoát

Ẩn ý của phẩm này là đề cao Pháp cúng dường, nghĩa là đem Chánh Pháp ra cúng dường. Cúng dường ai? Phật đâu cần chúng ta cúng dường, Ngài chỉ muốn chúng ta đem Chánh Pháp ra hoá độ chúng sinh, vì cứu giúp chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật. Cúng dường chư vị Tăng Ni chăng? Dâng cúng tiền bạc, quần áo, thuốc men, giường nằm dĩ nhiên sẽ đem lại phước báo, nhưng nhân vật chất hữu lậu chỉ đem lại quả vật chất hữu lậu mà thôi, thí dụ: được giầu sang, mạnh khỏe, danh vọng, sống lâu... nhưng khi hưởng hết phước thì lại theo dòng đời trôi chảy mà chịu quả báo luân hồi. Đừng nghĩ rằng đem tài vật cúng dường chư vị Tăng Ni là đủ rồi, chư vị đó sẽ cứu độ cho mình thoát khỏi cảnh khổ, được nhiều hạnh phúc an lạc. Như trên đã nói, tài cúng dường đem lợi lạc cho thân, mà thân thì vô ngã vô thường, không bền lâu, chỉ có Pháp cúng dường mới đem lại công đức cho Tâm, nhân vô lậu đem lại quả vô lậu, không có hạn lượng.

Muốn thực hành Pháp cúng dường không phải dễ, không phải chỉ in kinh, đọc kinh, giải nghĩa kinh, mà phải sống theo kinh, mang tự lực ra tu hành các pháp môn chân chánh, nhẫn nhục chịu đựng nhiều thử thách đắng cay, phát Tâm Bồ Đề quên mìnhchúng sinh, chẳng cầu phước báo Trời người mà chỉ phát nguyện mở mang trí huệ để hóa độ chúng sinh; thực hành Pháp cúng dường còn phải hy sinh nhiều thứ quý báu của mình, có khi mất một phần thân thể hoặc tính mạng nữa, có bỏ cái này mới có cái kia, có bỏ của báu thế gian mới có của báu xuất thế gian, bỏ phước báu Trời người để vào trí huệ Hiền Thánh, bỏ sinh tử đổi lấy Niết Bàn, bỏ tự lợi để rộng truyền Chánh Pháp... Người nào thực hành được Pháp cúng dường như thế là đi đúng con đường của chư Phật, chư Bồ Tát đã đi, tiếp nối hạnh nguyện của bậc Thánh Hiềntiếp tục thắp sáng ngọn đèn trí huệ chỉ đường cho chúng sinh thoát kiếp luân hồi, đi về nẻo giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12034)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12581)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10586)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10339)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13695)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9119)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11941)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14856)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13023)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20533)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant