Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Kết

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8613)
Tổng Kết


ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

TỔNG KẾT

Ðức Phật ra đời chỉ vì nguyện lớn hóa độ chúng sinh đưa vào trí huệ lớn lao vô thượng, đồng với Phật không khác. Muốn vậy Đức Thế Tôn chỉ dẫn cho chúng sinh biết con đường chân chánh mà đi theo, thẳng tới mục đích. Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là mở bày và chỉ rõ cho chúng sinh tỏ ngộ và chứng nhập Phật Tri Kiến hay Chân Lý (Khai, Thị, Ngộ, Nhập), khi hoàn mãn thì đại sự nhân duyên ra đời của Phật mới xong. Phật dùng nhiều phương tiện tùy căn cơ giáo hóa khiến cho mọi loài chúng sinh đều được lợi ích

Kinh Duy Ma Cật thuộc thời Phương Ðẳng, là nhịp cầu nối tiếp giữa tư tưởng các bộ phái Nam Tông bước sang Ðại Thừa Bắc Tông, đưa người tu hạnh Thanh Văn sang con đường lớn của Bồ Tát và Phật. Kinh này thuộc quyền giáo, dùng các thí dụ để đưa ra Chân Lý tuyệt vời mà danh từ ngôn ngữ không diễn tả nỗi, Kinh này nói cho hàng Bồ Tát và các đệ tử đã phát tâm Bồ Ðề nghe, tả rõ cảnh giới cao siêu mà tri thức phàm phu khó tin khó hiểu. 

Mười bốn phẩm của Kinh Duy Ma Cật được ví như mười bốn bông hoa tươi thắm nhiều mầu nhiều hương thơm khác nhau, mỗi phẩm luận giải một vấn đề đặc biệt. Nhưng nếu để rời rạc thì e khó nắm được ý chính của Kinh muốn nhấn mạnh đến việc gì nên chúng tôi thêm phần tổng kết để tóm lược và kết hợp các tư tưởng lại thành nội dung chủ yếu của bộ Kinh này, ví như dùng một sợi dây để kết mười bốn bông hoa thành một tràng hoa để trang nghiêm đạo tràng

Sau đây là tóm tắt cương yếu từng phẩm: 

Phẩm I.- Sự thấy biết của chúng sinh nông cạn sai lầm, không đúng đắn. Cõi Ta Bà vẫn thanh tịnhchúng sinh không thấy đó thôi; cứ tưởng là xấu ác. Tất cả do Tâm tạo, vậy cần phải đổi lại cái thấy xét lại quan niệm

Phẩm II.- Ðề cao phương tiện đưa đến cứu cánh. Ông Duy Ma Cật dùng phương tiện thị hiện làm Trưởng Giả ở Thành Ty Xá Li để độ chúng sinh, thị hiện thân có bệnh để độ hàng Thanh Văn

Phẩm III.- Các Thanh Văn công nhận sự thua kém của mình đối với ông Duy Ma Cật

Phẩm IV.- Các Bồ Tát tu theo Duy Thức hoặc mới phát tâm đều không bì kịp trí huệ của ông Duy Ma Cật

Từ phẩm I đến phẩm IV là phần Khai Phật Tri Kiến, mở bày Chân Lý, giới thiệu ông Duy Ma Cậttrí huệ siêu việt hơn các hàng đại đệ tử Thanh Văn và các hàng Bồ Tát mới phát tâm

Phẩm V.- Rất quan trọng. Hai loại Trí gặp nhau, Căn Bản Trí hoặc Vô Sư Trí của ông Duy Ma Cật đối thoại với Hậu Ðắc Trí hoặc Hữu Sư Trí của Ngài Văn Thù Sư Lợi. Căn Bản Trí thù thắng hơn Hậu Ðắc Trí

Phẩm VI.- Hàng Thanh Văn phải quy y với Tu Di Ðăng Vương Như Lai nghĩa là phát huy trí huệ, thắp sáng ngọn đèn huệ sẵn có trong tâm thì mới hiểu được giáo lý Ðại Thừa, vì đó là pháp không thể nghĩ bàn, bỏ tướng để nhập Tánh. 

Phẩm VII.- Phá chấp ngã chấp pháp, không trụ vào đâu. 

Phẩm VIII.- Bề ngoài là nghịch tướng, bề trong là Phật Ðạo, nhưng không còn phân biệt, tất cả là một. 

Từ phẩm V đến phẩm VIII là phần Thị Phật Tri Kiến, chỉ thẳng trí huệ vô phân biệt, vô chấp. 

Phẩm IX.- Các Bồ Tát đều đã hiểu và thực hànhBất Nhị, mỗi vị dùng một đường lối tu hành khác nhau nhưng tựu trung đều nhập vào Pháp Môn Không Hai. Ngài văn Thù vốn đã thâm nhập và hiểu lý Bất Nhị lìa danh từ ngôn ngữ, nhưng vẩn còn nói ra là xa lìa. Ðến ông Duy Ma Cật im lặng mới thật là nhập Pháp Môn Không Hai
Phẩm IX này là phần Ngộ Phật Tri Kiến, các Bồ Tát trình bày sự tỏ ngộ của mình, duy có ông Duy Ma Cật im lặng vì nói không được sự tỏ ngộ của mình, bặt văn tự ngữ ngôn tâm duyên

Phẩm X.- Ðừng dùng sự hiểu biết nông cạn của Thanh Vănphán đoán hành động của Bồ Tát; Thể Tánh bao dung tất cả rnọi tướng trạng, chẳng còn phân biệt lớn nhỏ nhiều ít. 

Phẩm XI.- Thần lực tự tại của Bồ Tát, hàng Thanh Văn không thể lấy ý mà tính được, không phải suy nghĩ mà lường được. Ðừng chấp tướng. Cần phải tu Không, Vô Tướng, Vô Tác

Phẩm XII.- Trở về Bản Thể Bất Ðộng, từ đó phát sinh các sắc tướng, đó là Chân Không phát sinh Diệu Hữu

Phẩm XIII.- Pháp cúng dường hơn tài cúng dường, đề cao sự quan trọng của tinh thần hơn vật chất

Phẩm XIV.- Ðừng khinh người mới học mới tu. Ðừng chấp tướng phân biệt

Từ phẩm X đến phẩm XIV là phần Nhập Phật Tri Kiến. Sau khi nói về Lý, Bản Thể tuyệt đối bất khả tư nghị, Ðức Phật trở về Sự, chỉ dạy đường lối tu hành thực tiễn để vào Pháp Môn Không Hai

Chủ yếu của Bộ Kinh Duy Ma Cật là đề cao Lý Bất Nhị, vào Pháp Môn Không Hai. Trong thời kỳ Phương Ðẳng chuẩn bị tư tưởng sắp bước sang Ðại Thừa, một số các đệ tử Phật tu hạnh Thanh Văn, thỏa mãn với những thành quả đạt được như A La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Hoàn nhờ thực hành pháp Bốn Diệu Ðế, được ra khỏi sinh tử luân hồi. Các vị đó thấy có pháp môn tu, có quả vị chứng, tự giác tự lợi, cho là đủ rồi, không mong cầu tiến tu cao hơn nữa. Vả lại, các vị Thanh Văn thấy tu Bồ Tát Ðạo rất khó khăn cực nhọc, chúng sinh vô biên, khổ đau vô tận, phiền não vô cùng, cõi Ta Bà xấu ác nhơ uế, tâm địa chúng sinh cang cường khó dạy khó bảo, Ðịa Ngục khổ vô gián, Niết Bàn là cõi an vui, nên các Ngài không kham khó nhọc lăn mình vào cõi trần để cứu độ chúng sinh, mà chỉ muốn trầm không thú tịch, một mình an hưởng Hữu Dư Y Niết Bàn, không có lòng mong cầu quả vị Phật. 

Ðức Thế Tôn thường thống trách các vị Thanh Văn, gọi họ là mầm thối giống nát, tro tàn lửa tắt, chẳng còn giúp ích gì cho ai, chỉ chuyên tự độ mà quên độ tha, chỉ chấp tướng trạng mà quên Pháp Tánh Bản Thể chung cùng của vạn vật. Tất cả chúng sinh đều khới sinh từ một nguồn gốc chung có liên hệ mật thiết với nhau, ràng buộc chặt chẻ với nhau không thể chia cắt, bứt dây động rừng. Ðức Phật muốn đưa các vị Thanh Văn lên hàng Bồ Tát, muốn cho họ nếm mùi vị thơm ngon của Ðại Thừa, nên nói ra một số kinh điền thuộc loại Phương Ðẳng, dẫn từ tư tưởng Tiểu Thừa sang Ðại Thừa, trong đó có Kinh Duy Ma Cật này. 

Mặt khác, trước đây các Phật Tử tại gia cam phận thấp hèn, chỉ được hướng dẫn quy y cúng dường Tam Bảo, cầu phước báo Trời người, không dám mong được giác ngộgiải thoát. Nay nhờ Kinh này chỉ cho con đường hành Bồ Tát Ðạo, đường tu này chung cho cả hai giới xuất giatại gia. Giới xuất gia có đường tu giải thoátlẽ dĩ nhiên, cắt bỏ luyến ái, lìa nhà nhập chúng, trên cầu Phật Ðạo, dưới độ chúng sinh. Giới tại gia từ trước đến nay không dám mơ tưởng mình cũng có đường, nay được Phật khai thị cho con đường giải thoát, mở sáng đôi mắt đui mù, thấy con đường chạy song song với đường của giới xuất gia, thật ra chỉ có một con đường mà thôi, một con đường duy nhất đưa đến Phật quả, đó là Nhất Thừa Phật Ðạo, ai tu nấy chứng, ai đi nấy đến, không phân biệt xuất gia hay tại gia

Trong bộ kinh này, Ðức Phật đề cao Lý Bất Nhị, vào Pháp Môn Không Hai. Tại sao chẳng gọi là một mà lại gọi là Không Hai? Vì nếu nói một là ngầm có hai, nói Không Hai rõ ràng hơn, không ám chỉ một con số nào khác. Muốn vào Pháp Môn Không Hai thì cần phải bỏ Tướng nhập Tánh, bỏ phân biệt đối đãithâm nhập huyền nghĩa của Kinh, ly ngôn ngữ, rời tâm duyên để chứng nhập Chân Như. Vào Pháp Môn Không Hai thì ly ngôn tuyệt tướng, chỉ còn một sự cảm thông trong im lặng tuyệt vời. Ðây là chỗ ông Duy Ma Cật không nói, Ngài Ca Diếp mỉm cười. Vẫn biết lời nói hay chữ viết không diễn tả được Chân Lý tuyệt đối nhưng nếu không dùng lời nói hay chữ viết thì làm cách nào chỉ bày cho người khác hiểu, làm sao dạy dỗ khiến người khác tuân theotu hành, cùng hưởng Ðạo Vị. Do đó Ðức Phật phải phương tiện hạ thấp giáo lý của Ngài, dùng nhiều thí dụ để dắt dẫn các đệ tử, rồi sau này chư Phật Tử phải tự lực tự giác rời bỏ phương tiện để thể nhập cứu cánh Chân Như, y như qua sông thì phải bỏ bè lại. 

Kinh chưa phải Chân Lý, nhưng Kinh đưa đến Chân Lý, ví như ngón tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi thì không cần ngón tay, chứng nhập Chân Lý rồi thì lìa kinh, im lặng

Ðạo Phật chú trọng thực hành, không phải lý thuyết suông. Học kinh xong rồi thì phải mang những điều hay lẽ phải trong kinh ra áp dụng vào cuộc đời, hướng dẫn chúng sinh tu sửa thân tâm, tự giác giác tha, cùng thành Phật Ðạo. Tôn chỉ của Kinh này là AI TU CŨNG ÐƯỢC, Ở ÐÂU TU CŨNG ÐƯỢC, chỉ cần chuyển Tâm là cảnh chuyển theo, cảnh nào tu cũng được, thuận cảnh hoặc nghịch cảnh đều tu được, chỉ cần tu tâm, vì TÂM TỊNH QUỐC ÐỘ TỊNH. Phật Pháp không cố định mà uyển chuyển thay đổi, tùy duyên áp dụng vào các trường hợp khác nhau, nhưng mục đích thì bất biến, đó là phát huy trí huệ sẵn có, quay về Tâm thanh tịnh sáng suốt để nắm tay tất cả chúng sinh, cùng tiến bước tới chỗ giác ngộgiải thoát./.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22230)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15989)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15004)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18898)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14423)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18592)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14377)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13549)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13529)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11797)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13216)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13636)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13914)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13237)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15010)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16141)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11067)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16430)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11875)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17568)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12863)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13679)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12833)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14832)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16362)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13114)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12065)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12735)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12871)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12749)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14146)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14087)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16439)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12358)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14368)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11280)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11004)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13173)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13868)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13141)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12981)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13475)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12695)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10216)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13943)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10206)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13675)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16243)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11942)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12949)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11617)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12644)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10772)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10961)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10912)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11855)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12721)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11037)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12596)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11288)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant