Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 10 Pháp Sư

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6798)
Phẩm 10 Pháp Sư

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 10

PHÁP SƯ

I. LƯỢC VĂN KINH

Để dạy 80.000 Bồ tát, Đức Thế Tôn nói với Bồ tát Dược Vương rằng : “Trong đại chúng gồm Thiên long bát bộ, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, người cầu Thanh văn, cầu Bồ tát hay Phật đạo, bất cứ ai ở trước Phật, nghe một câu, một bài kệ kinh Pháp Hoa, cho đến một niệm tùy hỷ, ta đều thọ ký cho thành Vô thượng đẳng giác.

“Sau khi Như Lai diệt độ cũng vậy, nếu có người nghe kinh Pháp Hoa một câu, một bài kệ cho đến một niệm tùy hỷ, ta cũng sẽ thọ ký thành Vô thượng chánh đẳng giác.

“Nếu có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh Pháp Hoa, phải biết người này đã thành tựu đại nguyện. Vì thương nhân gian mà sanh lại cuộc đời.

“Nếu có người hỏi trong đời vị lai, chúng sanh nào sẽ thành Phật. Phải nói rằng những người vừa kể trên sẽ thành Phật.

“Chê mắng Phật còn nhẹ tội hơn chê mắng người đọc tụng kinh Pháp Hoa. Công đức ca ngợi Phật không bằng công đức khen ngợi người trì kinh Pháp Hoa.

“Trong vô lượng kinh của ta nói, kinh Pháp Hoa khó hiểu, khó tin nhất. Vì đó là kho tàng bí yếu của chư Phật, được chư Phật giữ gìn, chưa từng đem ra giảng dạy. Vì vậy, không nên truyền trao kinh này một cách bừa bãi. Như Lai tại thế, kinh này còn bị oán ghét, huống là sau khi Như Lai diệt độ.

“Sau khi Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, giải nói, người ấy được Như Lai lấy y trùm cho, được chư Phật ở phương khác hộ niệm. Người ấy có đức tin lớn, chí nguyện vững, căn lành sâu. Người ấy được cùng Như Lai ở chung, được Như Lai xoa đầu.

“Nơi nào có người giảng nói, đọc tụng, biên chép kinh Pháp Hoa, hoặc nơi nào có kinh này, nên dựng tháp bảy báu để thờ, không cần Xá lợi vì trong tháp ấy đã có toàn thân Như Lai.

“Nếu có người hành Bồ tát đạo, mà không thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì, cúng dường kinh Pháp Hoa, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ tát. Ví như đào giếng trên gò cao, thấy đất khô, biết cách nước còn xa, nên cố gắng ra sức đào thêm. Khi thấy đất ướt, đất bùn, biết là gần có nước.

“Bồ tát cũng như thế, chưa nghe chưa hiểu kinh Pháp Hoa thì còn cách xa đạo Vô thượng. Nếu được nghe, hiểu, suy tư, tu tập kinh này, mới được gần Chánh giác.

“Nếu Bồ tát nghe kinh Pháp Hoa, mà kinh nghi sợ sệt là Bồ tát mới phát tâm. Hàng Thanh văn nghe kinh, mà kinh nghi sợ sệt thuộc về hàng tăng thượng mạn.

“Thiện nam, thiện nữ nào muốn giảng kinh Pháp Hoa, sau khi Như Lai diệt độ, phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Thành tựu như vậy, ta ở nơi khác sẽ khiến hàng hóa nhân đến nghe pháp. Nếu người nói pháp nơi vắng vẻ, ta sẽ khiến Thiên long bát bộ đến nghe. Ta dù ở nơi khác nhưng luôn luôn làm cho người nói pháp được thấy thân ta và nhắc nhở nghĩa lý kinh cho họ”.

II. GIẢI THÍCH

Mở đầu hội Pháp Hoa, Phật phóng quang cho thấy một cảnh giới dung hóa được tất cả các loài cửu địa tứ sanh, cùng sinh hoạt chung không bị chướng ngại. Sang phẩm Phương tiện đến phẩm Thọ học vô học nhơn ký, Phật xả định hướng về 12.000 vị Thanh văn mang thân con người mà giảng nói.

Và khi kết thúc phẩm 9, chấm dứt giai đoạn thứ nhất. Chúng hội đã vượt qua một đoạn đường tu chứng, thoát ly con người ngũ ấm, đến gặp Đức Phật Không Vương. Nghĩa là chúng hội đã thể nhập vào bản thể, nâng con người hình thành ở dạng Pháp Thân. Tầm nhìn đổi khác, thấy được tất cả mọi người sẽ thành Phật hay là Phật đã thành trên bản thể.

Qua phẩm Pháp sư thứ 10, chuyển sang pháp hội thứ hai rộng lớn hơn, dung hóa được tứ Thánh lục phàm, là thế giới của Bồ tát hay Bồ tát học xứ. Vì vậy, mở đầu phẩm này, Phật không nói với chúng Thanh văn, Ngài gọi Dược Vương Bồ tát.

Dược Vương Bồ tát đã từng mang tên Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, ai thấy cũng thương và hết lòng kính trọng. Ngài có đầy đủ tư cách đặc thù như vậy mới được Phật giao phó cho việc khó tin, khó làm. Dược Vương Bồ tát là nhịp cầu giữa hành giả và Phật, là gạch nối giữa thế giới Ta bà đau khổ với thế giới an lành của chư Phật. Bồ tát Dược Vương làm người trợ hóa trong cõi ô trược của phàm phu và trong cả cảnh giới thanh tịnh của chư Phật.

Dược Vương Bồ tát đa dạng đa hình, hiện được mọi sắc thân trên bước đường tu hành. Ở bất cứ dạng nào, Ngài cũng giúp tâm hành giả an tĩnhthâm nhập tri kiến Như Lai. Không có Dược Vương làm thiện tri thức khai thông cho hành giả qua năm tầng vô minh, hành giả không thể thấy Như Lai, vì chỉ tu trên điên đảo vọng tưởng, càng tu càng xa đạo. Đây là việc quan trọng để chuẩn bị tư thế cho hành giả bước vào pháp hội không trung thuyết pháp, một thế giới siêu hình, nên Phật gọi Bồ tát Dược Vương để dạy.

Trong phẩm 3 đến phẩm 9, Phật thọ ký cho chúng đương cơ; nhưng đến phẩm này, phần thọ ký được mở rộng. Tất cả mọi loài, Thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhân, phi nhân đều được thọ ký.

Ý tưởng mọi loài đều sẽ thành Phật làm đảo lộn định kiến từ lâu của các Thanh văn. Các vị này vẫn quen với quy định nếp sống rõ ràng của hai chúng xuất giatại gia. Chúng xuất gia là người giữ tạng pháp, chúng tại gianhiệm vụ hộ pháp. Vì vậy, đến lúc cần nói lên chân lý bình đẳng tuyệt đối, Phật phải nói với Bồ tát Dược Vương là người có khả năng chấp nhận, giữ gìntruyền đạt tư tưởng cao tột này.

Chẳng những người nghe pháp trong đương hội, mà tất cả chúng sanh đời sau, không nhất thiết phải là A la hán. Họ cũng không cần phải làm việc lớn, chỉ cần thọ trì một kệ, một câu cho đến một niệm tùy hỷ; Đức Phậtthế giới Thường Tịch Quang cũng thọ ký cho họ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đến đây, kinh Pháp Hoa đánh dấu thời điểm đưa ra chân lý bình đẳng tuyệt đối. Tuy nhiên, chúng ta quan sát kỹ dù Phật ban cho bình đẳng thực sự, ai muốn làm gì cũng thành Phật. Nhưng trên thực tế, có mấy người thực hiện được. Để cân bằng lại những điều Phật quy định mới nghe qua thấy quá dễ dãi, quá đơn giản, chúng ta cần suy nghĩ lời Phật dạy kế tiếp. Rằng kinh này là bí mật tạng của Như Lai không thể đem truyền trao bừa bãi cho người không có tư cách. Và Phật khẳng định người trì kinh Pháp Hoa là người thành xong Vô thượng đẳng giác, vì thương nhân gian sanh lại, mới trì được kinh này.

Vì vậy, chúng ta cần hiểu thọ ký cho người có một niệm tùy hỷ là sự thọ ký cho người phát tâm bồ đề, tùy hỷbản tâm thanh tịnh. Không phải thọ ký cho con người còn mang đầy nghiệp lực của ngũ ấm thân.

Ngoài ra, công đức của người truyền bá kinh Pháp Hoa thật là vô lượng, được coi là sứ giả của Như Lai, được Trời người cung kính cúng dường. Nếu có ai dùng lời chê mắng họ, tội còn nặng hơn là đối trước Phật chửi mắng trong một kiếp.

Muốn hiểu được ý của câu này, ta đảo ngược câu lại, sẽ thấy được tư cách của người truyền bá kinh Pháp Hoa thật quan trọng. Người nào sanh trên đời, được Trời người cung kính cúng dường, là sứ giả của Như Lai. Là sứ giả của Như Lai tức đã thành xong Vô thượng chánh đẳng giác, vì thương chúng sanh mà sanh lại để giữ tạng bí yếu Như Lai, để ban vui cứu khổ chúng sanh, đương nhiên được chúng sanh cung kính tôn trọng.

Phẩm Pháp sư gồm hai phần, phần một nói về hành trì kinh Pháp Hoa cho đúng pháp sau khi Phật nhập diệt. Phần hai là sự truyền bá kinh Pháp Hoa.

Pháp sư là người chuyển được pháp của Như Lai, làm lợi ích cho muôn loài. Dược Vương Bồ tátpháp sư có khả năng cứu chữa được tâm bệnh của con người. Bất cứ chúng sanh nào đau khổ nhìn thấy Ngài, mọi phiền não đều tan hoại. Hành giả Pháp Hoa ngày nay, nếu tròn đủ tư cách pháp sư như Dược Vương, thay thế đức Như Lai mang an lạc cho loài người, chắc chắn không ai có thể phá hại họ.

Tư cách của pháp sư thật quan trọng, dùng ngôn ngữ nói không cùng. Điển hình như Ngài Nhật Liên Thánh nhân khi sanh tiền hành đạo, đao kiếm chém Ngài tự gãy, người không làm hại được và kẻ thù trở thành đệ tử. Tuy Ngài đã nhập diệt trên 700 năm, nhưng tín đồ của Ngài trên 40 triệu người.

Phần 1 : CÁCH HÀNH TRÌ KINH PHÁP HOA.

Kinh Pháp Hoa chia pháp sư thành năm hạng gọi là ngũ chủng pháp sư : thọ trì pháp sư, đọc pháp sư, tụng pháp sư, thơ tả pháp sư và giảng nói pháp sư.

1 - Thọ trì Kinh Pháp Hoa : Thọ là nhận kinh từ Phật và trì là giữ được trong tâm. Tất cả pháp của Phật được hành giả tiếp thu, giữ gìn một cách trọn vẹn và làm lợi ích cho chúng sanh, để pháp còn mãi trên cuộc đời. Làm như vậy là thọ trì được tạng bí yếu Như Lai.

Người thọ được kinh này, niềm tin đối với Phật, đối với Pháp Hoa không lay chuyển, dù có tan thân mất mạng. Kinh Pháp Hoa luôn lưu chuyển trong tâm niệm tương tục, từ giờ này sang giờ khác, mới đúng nghĩa của việc trụ pháp và giữ pháp.

Người luôn luôn an trụ và giữ pháp, thì phiền não nhiễm ô bên ngoài không xâm hại được. Vì có sự bố trí tinh mật che chở cho hành giả Pháp Hoa. Vòng ngoài có bát bộ Thiên long, vòng trong có thần Kim Cang thủ hộ và sau cùng được các Bồ tát đồng học trợ lực, thành tựu viên mãn mọi công việc.

Thọ trì là phần chánh hạnh, khó thực hiện. Vì khi còn mang thân phàm phu đầy tham sân phiền não, làm sao thấy được Như Lai mà nhận kinh. Không nhận được kinh làm thế nào giữ được kinh. Vì thiếu tư cách Phật để thọ trì kinh Pháp Hoa, hành giả phải tu phương tiện, nghĩa là mượn lực Phật trang nghiêm thân tâm mình.

Pháp Hoachân lý, tất nhiên việc hộ trì chân lý không dễ. Người tà dại nhiều và mạnh gấp mười lần người thiện, tu ở nhân gian chúng ta cần ý thức kỹ điều này. Tuy ma lực mạnh nhưng không tác hại được Phật. Vì Phật mượn lực ma làm đạo, dù hung tàn bạo ngược đến với Ngài, cũng trở thành hiền. Hành giả muốn thọ trì chánh pháp, cũng phải có tư cách Phật hoặc mượn sức Như Lai để thành Phật. Vì vay mượn Như Lai, nên chúng ta chỉ là Phật giả. Tuy nhiên, khi chúng ta trang bị pháp Phật để tạo thành ông Phật giả, cũng nhận được kết quả nhiều ít khác nhau, tùy mức độ khéo léo sử dụng sự vay mượn pháp Như Lai.

Vì nhiều khó khăn trong việc thực hiện phần thọ trì chánh hạnh, hành giả phải tu bốn trợ hạnh: đọc, tụng, giải nói, biên chép.

2 - Trợ hạnh 1 : Đọc tụng kinh Pháp Hoa

Hành giảmột mình hay ở trong chúng thường xuyên đọc kinh và nương theo đó tu hành. Đọc cho chính mình nghe tăng trưởng bồ đề, đọc cho người khác nghe khiến họ phát tâm. Đọc kinh trong trạng thái tâm bình ổn. Từng chữ, từng lời thấm vào tâm não, hiểu được nghĩa lý sâu xa của kinh, khiến cuộc sống biến đổi, cảm thấy an vui và tăng thêm sức sống. Hành giả tự giảm thiểu được mọi dục lạc tầm thường của thế nhân.

Nếu đọc mà còn giao động trước hoàn cảnh và người khác nghe khởi tâm phiền não, thì chưa phải là pháp sư. Hoặc đọc kinh, nhưng thiếu niềm tin, cũng giống như người không có tay vào kho báu, không thể lấy được.

3 - Trợ hạnh 2 : Tụng kinh Pháp Hoa

Hành giả tụng kinh bằng tất cả lòng thành kính và độ cảm, phát ra ngôn ngữ giải thoát và người nghe cũng được thanh tịnh theo. Pháp sư tụng kinh Pháp Hoa, đời sống thăng hoa, vì loài người cho đến chư Thiên nghe đều phát tâm tu hành đạo Vô thượng chánh đẳng giác.

Ngay lúc thọ trì, không cần tụng, nhưng thọ trì trong tâm niệm liên tục. Bốn oai nghi của pháp sư đều tạo nên thế bình ổn và cảnh giới giải thoát cho những người chung sống. Đọc tụng Pháp Hoa kinh thuộc phần khẩu trì niệm.

4 - Trợ hạnh 3 : Thơ tả kinh Pháp Hoa

Thơ tả là biên chép để truyền bá rộng rãi. Biên chép kinh có hai tác dụng. Nếu biên chép và được mọi người trao tay thọ trì đọc tụng tu hành, hành giảcông đức. Nếu đem truyền bá mà người không đọc tụng chỉ đem về thờ, đợi đến lúc đủ phước duyên gặp pháp sư chỉ dạy, mới đem tụng, thì lúc đó chúng ta mới có chút ít công đức.

Ngược lại, nếu đem phân phát cho người không tín tâm, rồi họ dùng để gói đồ, hành giả không có công đức, mà còn tạo tội cho người khác. Thơ tả thuộc phần thân trì niệm.

5 - Trợ hạnh 4 : Giải thuyết kinh Pháp Hoa

Pháp sư giảng kinh Pháp Hoa mang kết quả tu hành của mình truyền đạt cho người khác, không phải truyền mớ ngôn ngữ có sẵn trong sách vở. Sở đắc của hành giả tươi nhuận cho đời sống của chính bản thân và người nghe cũng phát tâm đi theo con đường giải thoát. Nếu ngược lại, dùng trí thế gian hiểu lệch lạc, giải sai, khiến người nghe tạo muôn ngàn tội lỗi, tất cả sẽ sa vào địa ngục.

Thuyết Pháp Hoa không có nghĩa gì khác hơn là mang an vui cho chúng sanh. Vì mục tiêu của Pháp Hoa chỉ để giúp người an vui, hết khổ. Hành giả thể hiện tam chuyển pháp luân, thuyết Pháp Hoa bằng thân khẩu ý, không phải nói suông. Nhìn thấy pháp sư, người được giải thoát, nghe thuyết pháp, họ liễu ngộ Đại thừa và nghĩ đến pháp sư, họ cảm thấy an lành. Trái lại, thực sự chúng ta còn đói rét, đau khổ, bực bội, thì có Pháp Hoa đâu mà thuyết.

Tu tập bốn trợ hạnh trên, giúp hành giả tiến gần đến bản tánh thanh tịnh, phát huy chánh hạnh. Lần hồi hành giả đến gần Như Lai hơn, nhận được tạng bí yếu của Như Laitrở thành người hộ trì pháp trong thế gian.

Trong kinh ví sự gia công tu tập của chúng ta để trở thành hành giả Pháp Hoa với hình ảnh một người khát nước đào giếng ở trên cao nguyên. Hình ảnh chúng ta đau khổ trong đồng hoang sanh tử, đi tìm đạo, chẳng khác gì người thèm nước, đang bị khô bỏng cổ giữa sa mạc. Mỏi gối chồn chân tìm được Bồ tát hay Phật trên cuộc đời cho ta dòng suối mát giải thoát, ắt hẳn không phải là việc đơn giản.

Đứng trên vùng đất khô, cao, đào tìm nước tất nhiên khó quá. Nhưng ráng sức đào qua lớp đất cứng, đến lớp đất mềm, khác nào chúng ta hạ quyết tâm tìm đạo không biết mỏi mệt, niềm tin đạt đến đỉnh cao. Vượt qua được những tầm thường của cuộc đời, sẽ thấy được phi thường hiện hữu ở phía sau, bắt gặp những tâm hồn lớn. Nếu chúng ta đào một lúc, thấy đất cứng quá và buông bỏ. Giống như người loay hoay tìm kiếm ở trần gian, không gặp ác Tăng cũng gặp nghiệp Tăng.

Hành giả phải ra công đào không ngừng. Từ khô cháy nóng bỏng cổ trong đồng hoang sanh tử chưa gặp được Phật nói kinh Pháp Hoa, nhưng gặp bậc chân tu La hán nào đó; chúng ta cũng mát lòng là gặp đất ướt.

Hành giả ra công đào sâu nữa sẽ gặp bùn, chưa phải nước, nghĩa là sẽ gặp Bích chi Phật. Trong bùn, nước bắt đầu rỉ; nói cách khác, chân lý bắt đầu xuất hiện. Bích chi Phật chỉ cho thấy, giải thích cho hành giả hiểu. Từ đó về sau lộ trình tu của hành giả trở thành nhẹ hơn, chịu cực đào sâu xuống thêm một chút sẽ có nước trong hay gặp Bồ tát. Mọi vấn đề tự nhiên được giải quyết, khỏi thắc mắc, buồn phiền, khỏi làm những việc vô lý.

Rất tiếc, chúng ta vì sống ở cao nguyên quá xa dòng sông, từ bao đời quay cuồng trong sanh tử đẩy ta xa dần dòng thác trí tuệ Như Lai. Tuy nhiên, ngày nay nương được tam thừa giáo, tìm được nước uống. Đến ngày nào đó cũng gặp được Pháp Hoa, đạt được giải thoát, được chư Phật phóng quang gia bị.

hành giả ở nơi vắng vẻ, không có người nghe pháp, Phật sẽ sai hóa Tỳ kheo đến nghe và sai thần nhân hộ trì người nói pháp. Nếu giảng kinh, có quên ý nào, Phật sẽ nhắc. Thực sự là hành giả Pháp Hoa, phải được Phật hộ niệm, phải được Phật khiến người đến nghe phápbảo vệ pháp sư. Trái lại, Như Lai không gia bị cho hành giả được, vì hành giả chưa thực sự có kinh Pháp Hoa, không phải là Pháp thân Bồ tát, nên Pháp thân Phật không gia bị đến được. Hành giả phải thọ nạn là tất yếu, chết là bình thường.

Muốn biết mình thọ trì đúng hay sai pháp, hãy xem cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thọ trì rồi đời sống hành giả mỗi ngày thăng tiến hơn, cuộc sống giải thoát hơn, được Phật hộ niệm, thiện thần che chở. Dù hoàn cảnh nào cũng an ổnthường xuyên liên hệ với Phật, Bồ tát trong cảnh giới Pháp Hoa. Đó mới chỉ là công đức của người đang đi tìm đạo, chưa phải là Bồ tát. Riêng đối với những người nay nghe tin, mai đổi ý, họ thọ trì chưa đúng cách và nghiệp ác đồng khởi theo kinh, chắc chắn không thể nào vượt qua 500 do tuần đường hiểm để đến bảo sở.

Phần thứ nhất của phẩm này thuộc phần tự hành, dạy rằng nếu ta chưa đủ sức làm người khác phát tâm, thì cũng đừng làm họ oán ghét. Phật cũng nói kinh này khó tin, khó làm. Chính Ngài cũng trải qua 40 năm dùng phương tiện dẫn dắt và còn 5.000 Tỳ kheo bỏ chúng hội mà đi, huống gì sau khi Phật diệt độ.

Phật dạy rằng không phải bất cứ ai cũng trao cho kinh này. Lịch sử kinh Pháp Hoa ở nước ta từ thời Chi Cương Lương Tiếp đến nay hơn 1.500 năm, số người thọ trì đọc tụng rất hiếm. Xưa kia, những vị cao Tăng trong núi mới thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, không phổ biến rộng rãi như ngày nay.

Phần 2 : SỰ TRUYỀN BÁ KINH PHÁP HOA

Pháp sư truyền bá kinh Pháp Hoa đúng nghĩa là sứ giả của Như Lai, xứng đáng được trời người tôn thờ, phải hội đủ ba điều kiện tiên quyết để liên hệ tương ưng với Phật. Người chưa đạt được ba pháp này mà nói kinh Pháp Hoa, hết sức nguy hiểm, sẽ bị xuyên tạc, đánh đập, bỏ tù v.v… Ba điều kiện đó là :

1 - Nhà Như Lai là lòng đại từ, đại bi. Chúng ta truyền bá kinh Pháp Hoa trên căn bản tình thương, nhằm mục tiêu hướng dẫn mọi người đến giác ngộ. Tại sao gọi là nhà Như Lai ? Vì tất cả chư Phật mười phương đều thương người, lấy từ tâmbi tâm làm nền tảng hành đạo, cứu khổ và đem an lạc cho chúng sanh. Không có tâm đại từ bi, không thể nào tiêu biểu cho Phật. Đức Phật vì thương chúng sanh, hiện thân trên cuộc đời. Hành giả Pháp Hoa cũng vậy. Phật xác định người thọ trì được kinh này là Bồ tát thành xong Vô thượng chánh đẳng giác, vì thương chúng sanh mà nguyện sanh lại, nên là sứ giả của Như Lai. Ngày nay, ta mang thân đầy chướng ngại, phải tự biết ta sanh lại để trả quả báo.

Bồ tát thương nhân gian sanh lại bước vào đời bằng đôi chân từ bi. Chân phải hành giả bước là ban vui, chân trái là cứu khổ. Sử dụng tâm từ bi đối với chúng sanh, thấy người được việc, hành giả sanh tâm hoan hỷ quý mến. Đối với việc phải, hành giả trân trọng thực sự, khác với tâm ganh tỵ trước kia. Và chân trái hành giả bước đến, nhìn thấy sai trái của cuộc đời, hung ác tội lỗi dẫn họ đến quả khổ đau mà khởi lòng thương, nghĩ cách cứu khổ.

Cứ như vậy, hai bước chân từ bi của hành giả nhẹ nhàng đi vào cuộc đời, đến khi nhập một, thành bất nhị pháp môn. Nhược bằng không có đôi hài từ bi, không phải là hành giả Pháp Hoa, ắt hẳn phải dẫm đạp trên đau thương của kẻ khác.

Bồ tátsứ giả của Như Lai, thay thế Như Lai hiện hữu trên đời, đến với chúng sanh, vì chúng sanh mong cầu các Ngài. Làm xong sứ mệnh Như Lai giao phó, các Ngài quay thuyền về bến giác. Còn chúng sanh làm xong thường hay kể công. Bằng từ tâm, Bồ tát đến theo nhu cầu của người, mang an vui cho họ, không phải tới để thọ lãnh cúng dường. Chúng sanh thọ ơn Bồ tát cứu mạng, không bao giờ quên được. Tâm họ luôn hướng về Ngài, không bị phiền lụy thế gian chi phối. Cuối cùng, họ cũng được giải thoát.

Bồ tát đến với chúng sanh, ví như ánh sáng mặt trăng mang đến sự mát mẻ. Nước dù đục hay trong, ánh trăng vẫn rọi vào. Cũng vậy, tâm chúng sanh đầy phiền não nhiễm ô, nhưng Bồ tát Nguyệt Quang đến, tâm tội lỗi vụt bừng sáng và phát được tâm đại từ bi. Bồ tát ảnh hưởng vào tâm hành giả và biến thành hành động, thì hành giảBồ tát trên nhân gian, không phải Bồ tát ở cõi khác hiện tới.

Mang tư tưởng Pháp Hoa truyền bá, mọi việc làm của Bồ tát đều thể hiện trọn vẹn lòng đại từ bi, sanh tiền hành đạo được chúng sanh cung kính cúng dường, về Niết bàn được mọi người mến tiếc thương nhớ. Bồ tát trì Kinh Pháp Hoa bằng đại bi tâm, đối với chúng sanh không chút vụ lợi.

Riêng chúng ta thương người với điều kiện họ phải phục tùng, đó là tình thương giả dối của nhân gian. Tâm Phật thương người. Người nghe lời Ngài, đi trên đường Thánh đạo. Hiện đời, họ được phước lạc, đời sau thăng tiến quả vị Hiền Thánh. Nhưng đối với người phá hại, không nghe Phật, thì Ngài khởi tâm thương nhiều hơn. Vì nghĩ đến quả báo đau khổ mà họ phải chuốc lấy trong hiện tạimai sau.

Vào đời với tư cách hành giả Pháp Hoa, phải thương người thuận và thương người nghịch nhiều hơn. Nói đúng hơn, là sứ giả Như Lai phải mang thông điệp tình thương của Như Lai đến muôn loài. Trong tâm hành giả không còn trạng thái thương ghét, tất cả mọi loài đều là quyến thuộc phải hộ trì. Tâm từ mở rộng đến cùng tột, tương ưng được với tâm từ của Như Lai, thì huệ lực của Như Lai mới truyền đạt cho hành giảlời nói của hành giả mới làm chúng sanh mát lòng. Khi tâm từ không đủ, hành giả mất tư cách hộ trì chánh pháp. Nếu tự xưng là sứ giả Như Lai, sẽ mắc tội đại vọng ngữ, quả báo không lường được.

Muốn nối gót chư Phật mười phương, phải xét lại tư cách mình có giống Phật hay không. Chúng ta có tạo dòng suối mát cho nhân gian chưa, vắt đất ra nước để làm mát lòng người hay chưa. Nói cách khác, tình thương chúng sanh và việc cứu độ họ chưa tròn đủ, đừng mong gì có Pháp Hoa. Chúng ta tự hỏi lòng mình, trên quá trình tu Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, lòng từ bi của ta tới vị trí nào ? Còn ở đất khô, hay đất ướt, đất bùn hay đã gặp nước ?

Nếu truyền bá Pháp Hoa, bị người chỉ trích, phải nghĩ rằng vì tình thương của chúng ta đối với họ chưa trọn vẹn. Điều kiện tiên quyếtchúng ta phải tăng trưởng tâm từ bi. Chính lòng từ hóa giải tâm ác của người. Người trì kinh không gặp tai nạn, vì với lòng từ luôn nghĩ đến cách làm cho tha nhân vui sướng, không làm họ bớt vui, huống chi nói đến làm khổ. Từ tâm thật sự trải rộng như Phật thì muôn thú còn tìm đến dâng cúng, huống là nhân thiên.

Tăng trưởng lòng từ đến cao độ bằng chư Phật mới chính thức vào nhà Như Lai. Thật sự đã vào nhà Như Lai, là sứ giả của Như Lai, chắc chắn không ai xâm phạm được. Nhưng vì chúng ta còn là phàm phu đầy nghiệp lực, nên phải gặp nhiều chướng duyên. Tâm từtâm bi của hành giả phải được nuôi dưỡngan trú liên tục trong Phật đạo. Nếu có kẽ hở, sẽ sanh phiền não và bị quả báo.

Trên bước đường tu hành, đột nhiên ta thấy một người ác hoặc một việc không bằng lòng hiện ra trên thực tế hay trong tiềm thức, ta nhận biết ngay mình đã đánh mất tâm từ bi. Thật vậy, Phật dạy chúng ta phải thúc liễm sơ tâm, giữ cho tâm lúc nào cũng tốt đẹp, dũng mãnh như tâm ban đầu. Đừng dại khờ đánh mất tâm thanh tịnh ban đầu, sẽ bị bùn nhơ chúng sanh đổ trút lên chôn vùi ta.

Cứu khổ ban vui cho chúng sanhchánh hạnh của Bồ tát. Bồ tát thể nhập vào tâm chúng sanh đến độ quên mất bản ngã, coi chúng sanh là mình và mình là chúng sanh. Đến đây, chúng sanh không cần cầu nguyện Bồ tátBồ tát không cứu chúng sanh nhưng “cảm ứng đạo giao”, cũng như trăng không chui vào nước, nước cũng không lên trăng mà trăng vẫn có trong nước vậy.

2 - Nhu hòa nhẫn nhục hay áo Như Lai

Khi Phật chưa thành đạo, Ngài mặc áo nghiệp như chúng ta. Trải qua quá trình năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh đến Bồ đề đạo tràng đêm mùng 8 tháng chạp, kết thành áo Như Lai. Đó là chiếc y vô hình phủ lên Ngài. Suốt 49 năm, Ngài giáo hóa độ sanh, tâm hồn thanh thản, trí huệ sáng suốt, việc làm thánh thiện của Ngài hoàn toàn siêu tuyệt.

Các đại đệ tử cảm nhận được Đức Phật cởi bỏ chuỗi anh lạc, nghĩa là rời bỏ cõi thanh tịnh, mang thân phàm phu, mặc vào áo thô rách là áo ngũ ấm như chúng ta. Và từ ngũ ấm thân này chuyển thành Pháp thân hay mặc áo Như Lai.

Thân xác thường được Phật xem là áo che chở Pháp thân bên trong. Nếu khôngsanh thân, Phật không thuyết pháp độ sanh được. Đối với Phật, áo mục, Ngài thay áo khác. Nghĩa là thấy cần diệt độ, Ngài sẵn sàng bỏ thân, thay bằng thân khác. Tùy yêu cầu của chúng sanh cần loại hình nào, Ngài hiện thân đó.

Áo Như Lai là áo nhu hòa nhẫn nhục. Nhu là mềm, đối với người, hành giả luôn luôn mềm mỏng, lời nói thường dịu dàng. Hòa là giữa hành giả và người hiểu nhau, cảm thông nhau. Bồ tát hòa với chúng sanh đến độ tuyệt đối, cả hai biến thành một. Bồ tát không có lập trường riêng, vì đã thành xong Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng thương chúng sanh mà đến với họ, không đến vì quyền lợi nên không đụng chạm nhau.

lập trường chúng sanh, Bồ tát cảm thông với chúng, lần hồi tháo gỡ những gút mắc khó khăn, xây dựng cho họ như xây dựng cho chính mình. Dù chúng sanh cang cường ngang ngược đến đâu, Bồ tát vẫn cương quyết không bỏ, để tâm từ bi không bị tổn hoại. Đến ngày nào nghiệp và phiền não bớt bao vây, trí tuệ sáng thêm, họ sẽ có thiện cảm với Bồ tát. Lúc đó, giải bớt được oan nghiệp và gieo thêm hạt giống Bồ đề trên cõi đời ô trược này.

Ngoài pháp nhu hòa, hành giả cần tu pháp nhẫn. Hành giả trang nghiêm bằng tâm nhẫn nhục, đi vào trần thế với mục tiêu làm người an vui hết khổ. Nhưng họ lại nghĩ hành giả đến để lợi dụng. Va chạm thực tế phũ phàng này, hành giả tự nghĩ mình đến Ta bà không cần bất cứ gì, tại sao lại chịu nhục như thế, liền rũ áo trở về ngay. Thái độ dứt khoát như vậy không phải là Bồ tát Pháp Hoa, không thể hiện hạnh nhẫn nhục của Bồ tát Pháp Hoa.

Bồ tát Pháp Hoa có sức kham nhẫn lạ lùng. Chúng sanh càng đối xử tệ ác bao nhiêu, tâm từ bi các Ngài càng phát triển bấy nhiêu. Nói cách khác, hình ảnh kham nhẫn kiểu mẫu không ai khác hơn là Đức Phật chịu đựng 49 năm ở Ta bà.

Trên bước đường giáo hóa độ sanh của Phật, không phải lúc nào cũng phẳng lặng bình an. Với nhẫn lực siêu tuyệt, Ngài vượt mọi tai ách. Điển hình như câu chuyện lịch sử có ghi rõ một Bà la môn giết con, rồi vu oan cho Phật hiếp dâm và giết con ông. Nhưng Phật kiên nhẫn ở lại cuộc đời, chỉ vì lòng thương tưởng đối với đời. Mười phương Phật hay Phật cửu viễn sai Kim Cang thủ hộ hữu hình và vô hình hộ vệ Phật Thích Ca. Và trên thực tế, vua Ba Tư Nặc là vị hộ pháp đắc lực nhất. Ông ra lệnh điều tra, chính người Bà la môn đã giết con để vu khống, bôi lọ Phật.

Điều kiện tiên quyết thứ hai, hành giả Pháp Hoa cần trang bị sức kham nhẫn chịu đựng. Có một số người nghĩ đơn giản rằng ta chỉ nhịn đối phương, mọi việc sẽ êm. Trước hết cần xác định nhẫn nhục không phải là sự cố gắng nhịn nhục. Bằng nghiệp thức con người hiểu biết, phân biệt, nhịn chịu, hành giả đang tu nhẫn nhục của thế nhân, không phải nhẫn nhục pháp của Bồ tát, của Như Lai. Riêng chúng sanh trong ngục vô gián, chịu đựng ngày này qua tháng nọ, nhưng không bao giờ thành Phật, càng chịu đựng chúng càng đau khổ sân hận.

Cần hiểu rằng nhẫn nhục của Bồ tát là làm thế nào kẻ ác không còn phá rối được nữa. Hành giả phải trừ tận gốc, vì nhịn hoài, họ kiếm chuyện hoài. Đến lúc không nhịn nổi, sẽ bung ra tâm ác và thái độ đối phó càng dữ hơn.

Pháp nhẫn Phật dạy thuộc giới tánh, có công năng đoạn sạch chướng ngại cho hành giả. Pháp nhẫn được triển khai thành ba loại là chúng sanh nhẫn, pháp nhẫn và đại nhẫn. Hội đủ ba pháp nhẫn này mới hình thành nhẫn nhục Ba la mật. Nói cách khác, khi nào không còn gì trên trần thếhành giả phải chịu đựng, mới đạt được pháp nhẫn Ba la mật.

Nhẫn của thế gian cắt lòng ta, nhưng mặc áo Như Lai rồi, hành giả thản nhiên trước mọi sự kiện, không phải nhịn bằng ý thức nhịn. Khoác áo giáp nhẫn của Như Lai, hành giả bình ổn lạ thường, không có đối phó, dù là đối phó bằng cách nhịn.

Sự nhẫn nhục do thọ trì đọc tụng kinh sanh ra, bộc phát tự đáy lòng, là một nhẫn lực tự nhiên, phát ra ngôn ngữ nhu hòa, xoa dịu lòng người.

a - Chúng sanh nhẫn : Phật hiện thân vào thế giới Ta bà, biết rõ căn tánh hành nghiệp chúng sanh, nên Ngài giáo hóa chúng sanh không chướng ngại. Bồ tát hành đạo cũng vậy, dùng vô số phương tiện điều phục chúng sanh cang cường. Các Ngài tu pháp nhẫn, nhường nhịn chúng sanh để không chạm tự ái của chúng. Và theo dõi nghiệp ác, suy nghĩ, ham muốn của chúng sanh, lần sửa đổi, phát huy tri thứcđạo đức cho chúng tốt hơn.

Phật dạy hành giả Pháp Hoa phải nhẫn nhụctu Pháp Hoa hiện thân con người thánh thiện ắt phải đối nghịch với người ác. Việc tốt hành giả làm nhất định phải gây tác hại cho người xấu. Thật vậy, khi có hai hình chúng ta dễ so sánh, cái xấu hiện rõ vì có điều tốt, hình ác hiện rõ vì có hình thánh thiện. Phật tiêu biểu cho ánh sáng và ma tiêu biểu cho bóng đen, ánh sáng xuất hiện thì bóng tối phải tan biến.

Ta bà, luôn luôn tồn tại hai mặt tương phản. Hành giả Pháp Hoa quan sát rõ như vậy, khởi tâm từ cứu người ác nghịch, sẵn sàng gánh chịu điều kỳ quặc, tệ xấu của họ. Tuy ông Phật trong họ quá nhỏ, chỉ có một điểm tâm thôi, hành giả cũng cố gắng tìm điểm dễ thương nhất, tìm điểm tốt nhất của họ để cứu giúp, nuôi dưỡng điểm thiện nhỏ nhất của họ cho phát triển.

Với trí tuệ chỉ đạo, Bồ tát nhẫn nhục dễ dàng. Bồ tát càng nhẫn, công đức càng tăng và quyến thuộc càng đông hơn. Thường Bất Khinh Bồ tát thực hiện hạnh nhẫn cao độ với những người tăng thượng mạn. Sau này, họ đều trở thành quyến thuộc của Ngài với đầy đủ các thành phần Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, cư sĩ, Bồ tát.

Thực hành pháp nhẫn, chuyển hóa hiểu biết của người, đến khi tầm nhìn của họ và Bồ tát giống nhau, họ và Bồ tát đã thành một. Bồ tát đã thành tựu pháp chúng sanh nhẫn.

b - Pháp nhẫn : nghĩa là tất cả pháp thuộc hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi được hành giả quan sát cùng tột ngọn nguồn để phục vụ lợi lạc cho chúng sanh. Đầu tiên, hành giả đối phó với pháp hữu hình, hữu vi. Thực tế là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc men, phải giải quyết trước. Hành giả tự khắc phục, tập bỏ ăn ngon chỉ ăn no, tiến đến ăn vừa đủ để duy trì sự sống bình thường. Vì chúng ta ý thức rõ ba việc ăn, mặc, ở ràng buộc suốt cuộc đời. Hành giả tự hạn chế, bớt lệ thuộc chúng, dành thì giờ, trí khôn, sức khỏe cho việc tiến tu.

Đến khi thành tựu pháp nhẫn, tất cả pháp vô tình, vô vi, hay nói chung hành giả tác động được mọi loài trong pháp giới theo ý muốn, điều động thiên nhiên tự tại. Chẳng những hoàn cảnh thiên nhiên không chi phối bức ngặt hành giả, ngược lại hành giả chuyển vật, biến nó trở thành phục vụ cho mình và người.

c - Đại nhẫn : Sau khi đã biến chúng sanh và các pháp thuận theo hành giả, tự động pháp nhẫn thứ ba sanh ra, trở về ngũ uẩn pháp ở dạng nguyên thể. Ta, chúng sanh và pháp đồng nhất thể hay Phật, tâm, chúng sanh trở thành một. Hành giả đạt đến quả vị Như Lai. Pháp đại nhẫn thuộc phần tâm chứng của đại Bồ tát, khó dùng ngôn ngữ diễn bày được.

Ba pháp nhẫn : chúng sanh nhẫn, pháp nhẫn, đại nhẫn thành tựu, dẫn hành giả đến cứu cánh Phật quả.

Trên bước đường tu, muốn nhu hòa nhẫn nhục, hành giả phải tự hạ thấp mình xuống. Ngay như Phật ra đời để tuyên bày chân lý Pháp Hoa, nhưng vì đại chúng chưa chấp nhận được, Ngài phải sống tùy thuận để dần dần xây dựng tình thương rộng lớn cho họ.

Pháp sư thể hiện pháp nhẫn cao tột, sâu sắc là Nhật Liên Thánh nhân. Trên bước đường lập giáo khai tông, Ngài chẳng những bác bỏ kinh sách của ngoại đạo, mà cả các kinh khác của Phật nói ra. Ngài nói 14 phẩm đầu của kinh Pháp Hoa dành cho chúng đương cơ, không phải của Bồ tát hay chúng hậu thế. Vì chúng ta đâu có theo ngoại đạo mà phải cải tạo tư tưởng ngoại đạo sang tư tưởng Phật đạo, cũng như không theo Tiểu thừa nên không phải chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa.

Chúng ta trực tiếp nhận được giáo lý Đại thừa, thì cứ từ đó mà đi lên. Nếu tu các kinh khác chỉ là phú chướng giáo hay vị đắc đạo giáo. Những người này sánh bằng cầm thú, không thể là nhà truyền giáo được và những danh sư thời đó, Ngài coi là trùng độc trong thân sư tử. Ngài chỉ trích mạnh mẽ như vậy, nhưng vì là Bồ tát thị hiện, nên không giết Ngài được mới đưa Ngài đi lưu đày ngoài đảo. Khi sóng bủa ba đào, Ngài đã hòa với thiên nhiên đến độ cao nhất tạo thành một lực dụng bất khả tư nghì. Ngài chỉ niệm Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh tức thì sóng lặng bể yên. Sau khi đày Ngài ra đảo, tình hình trong nước càng ngày càng bi đát, gặp nhiều chống đối, kinh tế khủng hoảng, thiên tai dồn dập đổ xuống và ngoại xâm hăm dọa. Lúc đó vua mới ra lệnh rước Ngài về và nước Nhật từ đó thay đổi sáng sủa hơn. Tất cả huyền nhiệm Ngài tạo nên làm người Nhật vững niềm tin, tôn kính Ngài như Thượng Hạnh Bồ tát.

Hoằng truyền kinh Pháp Hoa, sẽ gặp khó khăn như vậy. Chúng ta tự lượng sức mình có đủ khả năng làm những việc thần bí như Ngài Nhật Liên hay không. Nếu không, chúng ta phải nhu hòa nhẫn nhục như Thánh Đức thái tử đã làm trước đó 5 thế kỷ, tạo thành tư thế mà người chống đối phải mang vũ khí đến nộp để đúc tượng Tỳ Lô Giá Na.

Chính Ngài Nhật Liên khi được rước từ đảo về, cũng trở lại thái độ nhu hòa khiến mọi người ngạc nhiên. Ngài bảo đại chúng rằng nếu Ngài tự thấy thành công, thì sẽ thành kẻ tăng thượng mạn, không phải là hành giả Pháp Hoa.

Ngài khuyên chúng ta phải cẩn thận, nên truyền bá kinh Pháp Hoa trong tư thế nhu hòa nhẫn nhục. Đừng gây mâu thuẫn, tạo thành thế chống đối, khi thân phận chúng ta còn bất lực trước hoàn cảnh thiên nhiên và những kẻ tàn bạo. Người đời sau phần nhiều đều áp dụng pháp nhu hòa nhẫn nhục, tùy trường hợp và mức độ tu hành tới đâu có kết quả tới đó. Đến độ cao nhất như mặc áo giáp chư Phật thì không còn gì để nhẫn nữa, mà mọi loài đều quy ngưỡng.

3 - Tòa Như Lai là tất cả pháp KHÔNG. Điểm này dễ lầm vì Thanh văn cũng tu ba pháp : KHÔNG, Vô tác, Vô nguyện. Đến Đại thừa Bát Nhã cũng tu pháp KHÔNG và Pháp Hoa cũng đặt trên căn bản KHÔNG.

Ba trường hợp này khác nhau vì KHÔNG của Tiểu thừa là KHÔNG của kẻ chán đời, tiêu cực. Thời Phật tại thế, giới trí thức không hợp tác với vua chúa, được gọi là Sa môn đối lập với hàng Bà la môn là công cụ của vua. Vì mang tâm niệm yếm thế, Đức Phật dạy họ không làm gì, gọi là vô tác, để đừng đụng chạm tới vua chúa, đừng bị tù tội. Họ không làm bất cứ gì, vì thấy mọi cố gắng đều vô ích, đều là KHÔNG. Sự nghiệp của họ đã mất hết và để diệt lòng tham dục đến tận cùng, nên phải vô nguyện. Sống chỉ biết ngày nay và cũng không có ý niệm xây dựng, để tạo một nếp sống bình ổn trong xã hội phức tạp.

Ngoài ra, dưới lăng kính của người tu Bát Nhã, mọi vật trên cuộc đời đều không có thực thể, do nhân duyên hòa hợp mà thành, từ điên đảo vọng tưởng mà sanh. Không hề có pháp cố định, tất cả pháp biến đổi không ngừng để tạo thành thế thăng bằng tồn tại mọi vật trong vũ trụ.

Bồ tát hành đạo tiếp cận chân lý, hội nhập chân lý, làm mọi việc chỉ nhằm mục tiêu giúp người phát tâm Bồ đề, xa rời chấp trước. Theo kiến giải của Bồ tát, mọi việc làm ở thế gian cuối cùng sẽ hoàn KHÔNG. Nếu nghĩ nó tồn tại, sẽ sanh tâm cố chấp kiêu mạn.

Các pháp đều KHÔNG, nên tâm hành giả không chướng ngại, không còn điên đảo vọng tưởng, dù đó là cứu cánh Niết bàn. Mọi việc thành tựu không được ôm ấp trong lòng, dù là việc thiện. Phật dạy pháp (chỉ cho việc tốt) còn bỏ, huống chi là phi pháp. An trú pháp KHÔNG, phiền não không còn dấy loạn, tất cả công đức lành đều hồi hướng Phật đạo để tâm hoàn toàn giải thoát.

Tất cả pháp KHÔNG nói trên không phải là tòa Như Lai, mà là pháp tòa của A la hán, của Bồ tát. Tuy bình ổn, nhưng chưa đủ tư cách để giảng Pháp Hoa. Phải ngồi tòa Như Lai, tức thấy được tánh của sự vật mà kinh lăng Nghiêm diễn tả bằng câu “Tánh SẮC chơn KHÔNG, tánh KHÔNG chơn SẮC, thanh tịnh bản nhiên châu biến pháp giới”. Nghĩa là nhìn vật qua hiện tượng là sắc chất, nhưng ngồi tòa Như Lai thấy tánh của vật là KHÔNG. Vì trong vật đã tiềm tàng cái KHÔNG tồn tại và ngược lại trong cái chơn KHÔNG chưa xuất hiện vật ra ngoài cho chúng ta thấy bằng mắt, cũng đã tiềm ẩn phần sắc hay vật. Ví dụ năm ngày trước hoa chưa nở, ta nói không có, nhưng Phật nói có. Ta bằng lòng chăng? Cũng vậy, mọi người đang đau khổ, Ngài nói chúng ta là Phật. Ta chấp nhận được chăng ? Đến khi hoa nở, Phật lại bảo không có. Chúng ta nghĩ sao ? Dưới mắt quan sát của người có trí tuệ, tánh sắc là chơn không và tánh không là chơn sắc. Ở bản thể, vật hoàn toàn thanh tịnh, tùy tâm thế nào vật theo đó hiện. Ngài Long Thọ gọi là giả danh. Hoa không có thực. Do suy nghĩ, hiểu biết hay nói khác do thức biến, ta đặt tên cho nó là hoa.

Tuy nhiên, điều đặc biệtpháp KHÔNG của Pháp Hoa hoàn toàn khác với KHÔNG của Bát Nhã vì đằng sau pháp KHÔNG này là diệu hữu bất khả tư nghì. Chính Phật Thích Ca thể hiện sâu sắc trọn vẹn sự chứng đắc pháp KHÔNG diệu hữu, Ngài mới trường tồn mãi với thế gian. Tuy Ngài vào Niết bàn hơn 25 thế kỷ, giáo pháp của Ngài vẫn hội nhập sâu sắc vào cuộc sống của nhân loại.

Riêng chúng đương cơ được Phật dẫn vào thế giới KHÔNG diệu hữu, vượt tâm thức con người, chuẩn bị tư cách chiêm ngưỡng tháp Đa Bảo, nghe Đức Phật Đa Bảo phát ra lời nói chứng tín “Thiện tai, thiện tai, Thích Ca Mâu Ni, chỗ Ngài nói đó là pháp chân thật”. Phật đưa chúng hội từ thế giới con người phàm phu vào cảnh giới mầu nhiệm của chư Phật, được nói đến trong phẩm kế tiếp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16418)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11727)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17883)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15188)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14150)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24418)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant