Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 17 Phân Biệt Công Đức

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6630)
Phẩm 17 Phân Biệt Công Đức

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 17

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

I. LƯỢC VĂN KINH

Đức Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ tát rằng khi Ngài nói về thọ mạng dài lâu của Như Lai, thì có vô số Bồ tát không thể tính đếm, chứng được vô sanh pháp nhẫn, hoặc văn trì đà la ni, hoặc nhạo thuyết biện tài hoặc chuyển pháp luân bất thoái, hoặc được Vô thượng chánh đẳng giác v.v… Phật nói xong, mưa hoa báu, mưa hương bột chiên đàn, mưa thiên y từ hư không rơi xuống rải trên các phân thân Phật, trên Phật Thích Ca, trên Phật Đa Bảo cùng bốn bộ chúng.

Phật nói với Di Lặc : “Này A Dật Đa, chúng sanh nào nghe Phật thọ mạng dài lâu như thế mà chỉ sanh được một niệm tín giải, sẽ được công đức không thể tính được. Công đức này lớn hơn công đức của người tu năm pháp ba la mật trong tám mươi muôn ức na do tha kiếp.

“Người nào nghe thọ mạng dài lâu của Phật mà hiểu được ý nghĩa sâu xa thì được công đức vô lượng và có thể phát khởi trí tuệ vô thượng của Như Lai. Thọ trì kinh Pháp Hoa và bảo người thọ trì, thì người ấy được vô lượng công đức, có thể sanh nhất thiết chủng trí.

“Người nào sanh lòng tin, hiểu về thọ mạng dài lâu của Phật, người ấy thường thấy Phật ở núi Kỳ Xà Quật nói pháp, thấy Ta bà bằng lưu lyBồ tát ở. Tin hiểu được như thế, không cần xây tháp, chùa và cúng dường tứ sự.

“Nếu thọ trì được kinh này và tu thêm sáu pháp ba la mật, tạo tháp, xây chùa, cúng dường, người đó đã đến đạo tràng, gần Vô thượng chánh đẳng giác. Chỗ của người này ở, Trời người phải nên cúng dường như cúng chư Phật”.

II. GIẢI THÍCH

Phẩm Như Lai thọ lượng đề ra một Đức Phật lý tưởng của hành giả Pháp Hoa, một Đức Phật bất sanh bất diệt nằm ngoài sự chi phối của tam thế gian. Tất cả Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời cũng chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất, dẫn chúng ta trở về sống với Đức Phật bất tử.

Muốn thấy Phật bất tử thường hằng, hành giả Pháp Hoa cần nương theo pháp tu trong phẩm Phân biệt công đức. Pháp tu này dành cho chúng đương cơ sanh cùng thời với Phật trực tiếp nghe pháp Phật và nương theo Phật Thích Ca hữu hạn ở thế gian, cuối cùng đắc đạo thấy được Phật vĩnh hằng.

Phẩm này, ở phần sau xác định nếu có người nào phát tâm tín giải lời nói của Phật trong phẩm Như Lai thọ lượng, thì được công đức không thể lường được. Chỉ một niệm tâm thôi, không cần suốt đời tu hànhcông đức đã không tính được. Ví như có người trải qua vi trần kiếp tu năm pháp ba la mật : bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trừ trí tuệ ba la mật. Công đức đó so với công đức tín giải không bằng một phần trăm nghìn.

Tuy nhiên, quan sát kỹ trên thực tế, tôi nhận thấy nhiều người tin kinh, nghe kinh và trì kinh Pháp Hoa. Nhưng sao cuộc đời họ èo uột quá, vui ít mà khổ nhiều, khiến cho tôi càng để tâm suy nghĩ về lời Phật dạy. Riêng tôi, chỉ phát khởi niềm tin đối với kinh Pháp Hoa, cuộc đời tôi đã đổi thay tốt đẹp. Và từng bước hiểu được kinh, tầm nhìn, hiểu biết trở nên sáng suốt hơn, tôi giải quyết mọi vấn đề nhẹ nhàng thanh thoát hơn, chưa nói đến công đức nghe kinh và trì kinh.

Tại sao chỉ khởi một niệm tín giải lại được công đức rộng lớn như vậy. Đó là vấn đề chúng ta cần tư duy để thể nghiệm vào cuộc sống tu hành cho được an lạc giải thoát. Chúng ta nhận thấy tu một pháp ba la mật đã quá khó. Ví dụ như chỉ tu một hạnh lạy Phật đến trạng thái ba la mật, đảnh lễ được Phật mười phương như Phổ Hiền Bồ tát “Nhứt thân phục hiện sát trần thân, nhứt nhứt biến lễ sát trần Phật”. Vậy mà hành giả thành tựu năm pháp ba la mật, đem so với một niệm tâm tín giải, một chút phần công đức cũng không bằng.

Hiểu được pháp Phật do Bồ tát kiết tập giữ gìn được nói trong phẩm này đã khó và truyền đạt cho người hiểu càng khó hơn. Vì điều ấy không còn nằm trong phạm vi tri thức của thế giới hiện thực.

Đọc phẩm này, chúng ta cảm thấy thật bao la, khó nắm bắt được. Ngày nay, để tạm phân biệt giải thích, chúng ta nương theo phần phán giáo của Ngài Nhật Liên mới diễn đạt được phần trọng tâm của kinh Pháp Hoa.

Theo Ngài, phải đứng ở vị trí Pháp thânphân biệt công đức, không phải là phân biệt bằng trí năng của chúng nhân thiên. Công đức ghi trong phẩm này thuộc về công đức của Bồ tát tùng địa dũng xuất tham dự pháp hộiThường tịch quang Tịnh độ, nghe pháp của Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển.

Công đức này gồm có bốn phần gọi là hiện tại tứ tín. Hàng Thanh văn trực tiếp nghe Đức Thích Ca thuyết pháp, muốn thấy được Phật thường trú vĩnh hằng phải tu chứng, thâm nhập bốn phần công đức của hành giả Pháp Hoa như sau :

1 – Nhất niệm tín giải

Hành giả Pháp Hoa chỉ khởi một niệm tâm cảm được Pháp thân thường trú vĩnh hằng, công đức sanh ra thật là vô lượng, hơn cả người tu năm pháp ba la mật trong vô số kiếp.

Kinh nêu lên pháp tu này mới nghe thật đơn giản. Tuy nhiên, thực tu thực chứng, tìm được một niệm tâm tín giải là cả một vấn đề quá khó, chưa nói đến phần tín giải. Ngài Trí Giả thuyết pháp suốt tám năm tại Kim Lăng cũng chỉ nhằm mục tiêu khơi dậy cho đại chúng bộc phát niệm tâm này, mà không ai được. Ngài phải bỏ về núi Thiên Thai. Ở trên cuộc đời, chỉ có duy nhất Đức Phật Thích Ca tự tìm thấy tâm này. Riêng Thánh chúng, phải nương Phật lực gia bị tu hành mới có được.

Muốn đi vào niệm tâm thanh tịnh, phải sử dụng vô số phương tiện. Thậm chí có lúc hành giả phải lãnh thọ những tai họa lớn để phát hiện điểm tâm nói trên. Tụng kinh, lễ sám, tham Thiền là một trong những pháp phương tiện để tập trung. Cột tâm, gom lại thành một điểm nhằm mục tiêu duy nhất kích thích Phật chủng của chúng ta, làm cho hạt giống Phật nứt mầm lên. Đột nhiên, từ đáy lòng bộc phát mà chính ta cũng không biết được niệm tâm này.Vì ta không thể biết bằng ngũ ấm thân và ta cũng không biết ai làm cho tâm ta thanh tịnh. Bất chợt trong lúc trì kinh hay tham Thiền, nghe pháp, nhờ công đức lực của kinh, trong tâm khởi lên thanh tịnh có sức thu hút giữ con người ngũ ấm của ta không cho nổi lên.

Từ trong bể KHÔNG, hành giả phát hiện được một niệm tín giải, cuộc sống từ đó cũng chuyển đổi theo, từ một người nghèo khổ ngu dốt chuyển thành Bồ tát. Phát xuất từ cùng tột đáy lòng mới thấy và biết được những điều bình thường không thấy biết. Sở đắc này thuộc về phước báo vô lậu ở trong thật tướng các pháp, tạo thành lực dụng không thể nghĩ bàn. Nếu đem so sánh tạm hiểu giống như sức mạnh của nguyên tử. Phật dạy hành giả Pháp Hoa thành tựu niệm tín giải được công đức lớn gấp trăm ngàn lần công đức khác. Tuy nhiên, điều kiện chính yếuniệm tâm này phải từ thanh tịnh tâm hay Phật tánh, thuộc tri kiến Như Lai phát lên. Nếu khởi từ thức biến, vọng tưởng điên đảo chỉ là tà niệm.

Người có nhân duyên căn lành từ bản tâm thanh tịnh bộc phát, thấy thương Phật đến độ không tiếc thân mạng. Một sự liên hệ mật thiết giữa ta và Phật nhen nhúm từ bản thể, chính ta cũng không biết tại sao. Đó là trạng thái tín giải hay tâm Bồ đề phát từ chơn như tâm, không kiểm soát được, mới sanh ra công đức lạ như văn trì đà la ni. Các pháp nghe qua đều ghi sâu vào tâm ta, không bao giờ quên. Ta nhớ rõ những gì nghe được từ thời thơ ấu hay từ đời trước một cách không sai lầm.

Đạt được một niệm tín giải, cách suy tư và nhìn đời, lý giải của hành giả không giống như trước nữa. Thật vậy, phần lớn chúng ta hiểu lầm ý nghĩa tin kinh, nghe kinh và trì kinh Pháp Hoa. Hành giả tin kinh Pháp Hoa như người tin thần thánh ma quỷ, tưởng rằng van xin cầu nguyện Phật sẽ ban cho chúng ta mọi thứ. Kinh Pháp Hoa không bao giờ dạy như vậy.

Để hiểu rõ vấn đề tín giải, hãy xét ngược lại phẩm Tín Giải ở phần Tích môn. Chúng ta nhận thấy A la hán mới khởi tâm tin Phật và hiểu Phật theo ý riêng của các Ngài, thì đã đắc A la hán. Trong khi trước đó các Ngài khổ công tu mà không được gì. Trường hợp điển hình như năm anh em Kiều Trần Như bỏ cả cuộc đời tìm giải thoát, chẳng hưởng chút pháp phần. Nhưng vừa nhìn thấy Phật từ Bồ đề đạo tràng đến, phiền não trần lao tức thì rơi rụng và đắc quả A la hán.

Điều này cho chúng ta cảm nhận được niềm tin thật quan trọng. Các vị La hán chỉ tin và thấy được Đức Phật sanh thân toát ra uy lực của một con người tràn đầy tri thức, đức hạnh. Các Ngài liền thành tựu pháp lành, hưởng thọ quả vị cung kính cúng dường của mọi người. Thánh quả này có được là nhờ nương bóng mát của Phật.

Sau khi tin sanh thân Phật và trở thành La hán, các Ngài thấy được thân thứ hai của Phật là Báo thân. Thấy Báo thân và tin Báo thân, nghĩa là niềm tin của bốn đại đệ tử Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Ca DiếpMục Kiền Liên. Các Ngài tin những gì trước kia chưa thấy chưa tin.

Thấy và tin được Báo thân Phật, các Ngài trở thành Bồ tát. Và từ đây tu hành dưới dạng Bồ tát, không còn tu ở dạng Thanh văn thường đặt nặng trên hình thức. Giữa các Ngài và Phật có sự liên hệ thâm sâu về tâm. Bên ngoài thấy lạnh lùng, nhưng bên trong là cả một sức sống mãnh liệt nối liền các Ngài và Phật. Nhờ lực vô hình đó mới duy trì được Tăng đoàn.

Tu dưới dạng Báo thân, các Ngài cố rèn luyện đức tánh. Các Ngài thấy rõ Đức Phật cũng là con người, nhưng tại sao được kính trọng. Phải chăng giữa ta và Phật chỉ khác nhau ở lời nói, suy tư, hành động, còn bên ngoài sanh thân thì ai cũng như ai. Những nét đẹp và điều đáng quý trọng phát xuất từ tâm hồn Phật thể hiện ra bên ngoài thành 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, cho đến việc làm, đạo đức, trí tuệ của Phật vẹn toàn. Hình ảnh này được kinh Pháp Hoa diễn tả bằng câu “Nhất thiết thế gian tư sanh sự nghiệp”.

So sánh như vậy lần hồi hành giả thấy được Báo thân Phật là cái gì quý giá nhất. Từ đó, sửa đổi trau giồi trí tuệ, giới đức để đạt được Báo thân như Phật. Nhận chân được thân giới đức, mạng trí tuệ, hành giả luôn sống với giới thân huệ mạng này. Vì vậy, hành giả nuôi dưỡng nhục thân để phát hiện và tăng trưởng thân giới đức trí tuệ của mình, không phải để lệ thuộc nó.

Phát huy Báo thân đến độ cao, hành giả Pháp Hoa sử dụng thân tự tại, hiện hữu sáng ngời trong tam giới làm kiểu mẫu cho người noi theo, như Tổ Quy Sơn dạy “Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc”.

Phật dạy các Tỳ kheo đoạn trừ ba nghiệp sát, đạo, dâm, tự nhiên hảo tướng sanh ra. Điều này cũng dễ cảm nhận vì đối trước một người ưa sát hại, tất nhiên ai cũng sợ. Thấy người chuyên trộm cắp, ai cũng phải nghi ngờ. Và thấy người hay loạn dâm khiến người dễ ghê tởm.

Ngoài việc đoạn ba nghiệp của thân, hành giả dứt trừ bốn nghiệp của miệng : nói dối, nói thêu dệt, nói hai chiều, nói lời hung ác. Trong suốt cuộc đời giáo hóa của Phật, lời nói của Ngài luôn chính xácđệ tử Phật chứng Hiền vị đều do khẩu nghiệp thanh tịnh. Từ Tu Đà Hoàn đến A Na Hàm tu khẩu nghiệp, ít nói nên ít lỗi, mới được coi là người hiền trên thế gian.

Tuy hiền, nhưng tâm chưa sáng suốt, hành giả phải tu ba nghiệp của ý. Bên ngoài hoàn toàn thanh tịnh, hành giả bắt đầu kiểm tra bên trong tâm, xem còn kẹt tham sân si không. Phật dạy rằng động cơ nội tâm mới thật quan trọng. Nếu thật sự không còn ham muốn, chắc chắn không giận. Nếu còn giận hay buồn, biết mình còn nhiều lòng tham. Trên bước đường hành đạo, mọi quyền lợi (kể cả tình bạn) rời bỏ ta, đó là cơ hội tốt nhất để kiểm tra lòng mình còn vướng mắc tham sân hay không.

Tâm hoàn toàn vắng lặng, ba nghiệp tham sân si không còn, hành giả sẽ nhìn vật chính xác. Các vị La hán đoạn sạch ba nghiệp thân khẩu ý, Phật dạy phải hành sáu pháp ba la mật thuộc phần giác tha. Phật đã trải qua 100 kiếp tu hành đạo Bồ tát làm lợi ích chúng sanh, họ mới sanh tâm kính trọng Ngài. Và chính nhị vạn, bát vạn, bát thập vạn ức na do tha Bồ tát đến nghe pháp ở hội Pháp Hoa, đều chịu ơn tế độ của Phật. Bồ tát mười phương tu lục độ vạn hạnh ở giai đoạn hai, có làm mới có kết quả. Nhưng đến giai đoạn ba, đối với Bồ tát tùng địa dũng xuất thuộc Bồ tát thị tùng Pháp thân Phật, Đức Phật cho biết các Ngài không làm mà vẫn có kết quả. Vì tác dụng của Bồ tát lúc bấy giờ là tri thức, không căn cứ trên hành động. Đó chính là vấn đề mà phẩm này đặt ra.

Các Bồ tát Báo thân Phật làm việc bằng tay chân, trải qua 80 muôn ức na do tha kiếp tu năm pháp ba la mậtbỏ quên trí tuệ ba la mật, không bằng Bồ tát tin được Đức Phật thọ mạng trường viễn.

Trước đó trong phẩm Hiện Bảo tháp, Phật có nói tu kinh Pháp Hoa này khó hơn người mang cỏ khô vào lửa không bị cháy hay người dùng ngón chân nâng quả địa cầu bay tới trời Phạm Thiên. Những việc làm bằng hành động như vậy không quan trọng, nhưng điều động việc bằng trí tuệ mới thực sự quan trọng. Thật vậy, chúng ta ngày nay làm việc bằng cơ giới, dễ nhìn thấy tầm quan trọng của tri thức. Mọi việc làm thiếu trí tuệ chỉ đạo, dễ rớt qua hành động ngu xuẩn, sẽ trở thành tác hại nguy hiểm.

Để chỉ Pháp thân vĩnh hằng, Bát Nhã gọi là bát bất (bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, bất thường, bất đoạn). Theo tinh thần Pháp Hoa gọi là tứ phi : phi thật, phi hư, phi như, phi dị. Phật thuyết pháp bát bất và tứ phi, gần như phủ nhận hoàn toàn thế giới hiện tượng của chúng ta. Rõ ràng trên bước đường hành đạo, Phật không quan tâm đến tổ chức giáo đoàn và cũng khuyên đệ tử như thế. Tuy nhiên, giáo pháp của Ngài vẫn lưu truyền mãnh liệt hơn 25 thế kỷ, một tôn giáo tồn tại lâu nhất với tín đồ đông nhất, mà không nhờ vào tổ chức, toan tính như thông thường. Ngày nay, không nơi nào không có ít nhất một bàn thờ Phật hay một người nghĩ về Ngài.

Tồn tại của đạo Phật nằm trong tư duy của con người, trong ý thức quan tâm của nhân loại. Tồn tại dưới hình thức tứ phi, không thấy, không kiểm soát được. Tuy sinh hoạt của đạo Phật rất bình thường, nhưng không thế lực nào tiêu diệt được, dù trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu khó khăn. Muốn thấy được sự vật theo trí thường cùng lắm chỉ thấy chùa. Trong khi sức sống tương tục của Phật giáo không giới hạn ở điểm đó. Người ngoài khó hiểu được là vậy.

Từ điểm này, chúng ta mới thấy trung đạo đệ nhất nghĩa trong bát bất của Bát Nhãthường trụ tướng trong tứ phi của Pháp Hoa. Phủ nhận theo “8 cái Không” của Bát Nhã hay theo “4 cái không phải” của Pháp Hoa, đưa đến “cái phải” không thể chứng minhPháp Hoa thường diễn tả là “Các pháp từ bổn lai, tướng thường tự vắng lặng, Phật tử hành đạo rồi, đời sau được thành Phật”.

Hiểu được tồn tại qua tứ phi, hành giả tin vào tồn tại nằm ngoài tứ phi. Tin và sống với thường trụ tướng thì công đức tin đó lớn hơn công đức trải 80 muôn ức na do tha kiếp tu năm pháp ba la mật. Và đã đạt đến hiểu biết nằm ngoài hiểu biết của chúng sanh trong tam giới. Tu năm pháp ba la mật, không giải quyết vấn đề trên thường trụ tướng, mà chỉ đứng trên căn bản sanh diệt tướng, nên không thể tồn tại với thời gian.

Sự tồn tại miên viễn được Phật diễn tả trong phẩm Như Lai thọ lượng rằng từ khi thành Phật đến nay, Ngài thường ở Linh Thứu nói pháp, chúng sanh có người thấy được, có người không thấy. Lúc nào cũng có Phật hiện hữu bên cạnh chúng ta, khi ta vào sanh tử thọ sanh cũng có Phật và khi ta mãn phần cũng có Ngài, nhưng ta không thấy.

Nhận chân được cốt lõi này, vấn đề tâm huyết của hành giả Pháp Hoa là phải tìm thấy được Phật thường trú vĩnh hằng và sống với Đức Phật này.

Hàng Thánh chúng trực tiếp nghe Phật nói pháp “một niệm tín giải” khởi lên từ Phật tánh của các Ngài, thì cuộc sống, tâm tư, hoàn cảnh các Ngài hoàn toàn đổi khác. Từ đây, ảnh hưởng đến con người thứ hai, giúp các Ngài chỉ tái sanh một lần nữa.

2 – Liễu giải

Liễu giải phát xuất từ niềm tin thanh tịnh ban đầu vừa nói ở phần trên. Từ mầm chơn tâm bung lên, tự nó phát triển, nên pháp thứ nhất thành tựu, tự nhiên đạt được pháp thứ hai. Sau khi khởi niệm tâm này, cuộc sống hành giả tươi nhuận, phát hiện ra những điều không nằm trong tri kiến thế gian, hiểu không giống cái hiểu của con người.

Liễu giải này thuộc về vô lậu trí do tu hành hiểu được Pháp thân Phậtphương cách tu của Pháp thân Bồ tát. Đó là pháp vô vi, pháp bí yếu của Như Lai, không dùng lời nói chỉ được. Nhờ sự liên hệ với Phật bất sanh bất diệt mỗi ngày mỗi tăng trưởng, khai mở tri kiến Như Lai và dẫn đến làm được việc Như Lai giao phó, để chuẩn bị thành Phật, là giai đoạn thuyết pháp thứ ba.

3 – Thuyết pháp

Hành giả truyền bá kinh Pháp Hoa theo tinh thần phẩm này, nhận được Phật lực truyền vào và thể hiện thành chuyển pháp luân bất thoái, chuyển pháp luân thanh tịnh. Hành giả thuyết pháp dưới mọi dạng thức, thân miệng ý đều diễn nói được pháp. Hành giả thể hiện tam pháp luân, nói năng hay yên lặng đều là bài pháp sống khiến người lìa trần cấu, tăng tấn đạo Bồ đề, an vui giải thoátthâm nhập huệ Như Lai.

Khi hành giả trụ thiền định ở nơi vắng lặng, hướng tâm vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Các loài này nhớ tới họ, trong một niệm liền được giải thoát gọi là ý thuyết pháp. Hoặc hành giả trụ thiền, yên lặng nhưng tỏa sức sống cho người chung quanh được nhẹ nhàng vui sướng, thể hiện hình thức thân chuyển pháp luân.

Hoặc hành giả hóa độ dưới trạng thái tịch nhi thường chiếu. Tuy yên lặng không thuyết pháp nhưng vẫn truyền bá bằng Pháp thân Bồ tát. Pháp thân Bồ tát thanh tịnh tác dụng qua tâm Bồ đề của chúng sanh, đến ngày nào đó tự nhiên họ phát tâm. Và pháp sau cùng thấp nhất, thể hiện bằng cách đem lời Phật dạy diễn giảng cho người nghe phát tâm Bồ đề, là khẩu chuyển pháp luân.

Ba điều kiện này chưa thành tựu, dù có ngay thật diệu hòa cũng chỉ là pháp thế gian, không bao giờ thấy Phật thường trú vĩnh hằng.

4 – Thành tựu được ba pháp trên đưa đến hoàn tất công đức thứ tư lên tòa Như Lai chứng Vô thượng đẳng giác, thấy được thật tướng các pháp, chứng vô sanh nhẫn. Hành giả hiểu được giá trị thực của cuộc sống, thấy được việc đáng làm và không nên làm. Ở Phật giới quan sát thấy đúng như thật, điều động Phật sự khế hợp với Phật, hành giả trở thành sứ giả Như Lai, hàng Bồ tát đương nhiên mật tá.

Trên bước đường tu, từ ngoài đi lần vào, phát hiện Pháp thân Bồ tátchứng Pháp thân Phật. Bốn việc nêu trên, Bồ tát tùng địa dũng xuất tin được, thể hiện được vì các Ngài đã đạt đến trình độ này. Riêng Bồ tát nhân gianBồ tát hành đạo mười phương khó tin khó hiểu điều ấy, Phật khởi tâm thương xót cho những người không trực tiếp nghe được Phật trong Thường tịch quang Tịnh độ, Ngài mới nói tiếp phần diệt hậu ngũ phẩm ở phẩm 18 kế tiếp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188429)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43695)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 24984)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30779)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20998)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38700)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27322)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31060)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33066)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23936)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16950)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20478)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31882)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18061)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20502)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26982)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18000)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25516)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26598)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36528)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28023)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27254)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30290)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37034)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37202)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23838)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32253)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55096)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36849)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27538)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28273)
Công Phu Khuya
(Xem: 37911)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25372)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24115)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11202)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14474)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10599)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant