Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 19 Pháp Sư Công Đức

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6434)
Phẩm 19 Pháp Sư Công Đức

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 19

PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC

I. LƯỢC VĂN KINH

Đức Phật bảo Thường Tinh Tấn Bồ tát “Nếu có người nào thọ trì kinh Pháp Hoa, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh, sẽ được 800 công đức của mắt, 1200 công đức của tai, 800 công đức của mũi, 1.200 công đức của lưỡi, 800 công đức của thân, 1.200 công đức của ý. Đem công đức này trang nghiêm sáu căn thì sáu căn được thanh tịnh.

1. Nhãn căn công đức : với đôi mắt thịt cha mẹ sanh ra, khi được công đức sẽ thấy tất cả cảnh vật trong 3.000 đại thiên thế giới từ địa ngục A tỳ đến Trời Hữu đảnh, thấy tất cả chúng sanhnghiệp nhân, nghiệp quả của chúng sanh.

2. Nhĩ căn công đức : tai cha mẹ sanh ra được công đức rồi, sẽ nghe tất cả những tiếng trong 3.000 đại thiên thế giới, mà không hư nhĩ căn.

3. Tỷ căn công đức : mũi của người có công đức sẽ thanh tịnh, nghe và phân biệt được các thứ mùi trong 3.000 đại thiên thế giới, không lầm lẫn.

4. Thiệt căn công đức : người trì kinh Pháp Hoa, lưỡi được thanh tịnh. Các thứ ăn uống ngon dở đối với họ, đều biến thành cam lồ. Hoặc họ thuyết pháp, khiến người nghe vui mừngcảm hóa được cả Thiên long bát bộ. Vị Bồ tát này khéo nói pháp, nên được hàng quyền quý cho đến người tầm thường theo hầu hạ cúng dường. Họ cũng được chư Phật, Bồ tát, Thanh văn ưa thíchhộ niệm.

5. Thân căn công đức : trì kinh Pháp Hoa, thân được trong sạch như ngọc lưu ly, làm cho chúng sanh ưa nhìn. Hình ảnh của chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật đều hiện rõ trong thân thanh tịnh của Bồ tát.

6. Ý căn công đức : người trì kinh Pháp Hoa được ý căn thanh tịnh. Họ nghe một bài kệ, một câu kinh liền thông suốt vô lượng nghĩa, hiểu rõ và diễn nói cả tháng, cả năm đều đúng với thật tướng. Tất cả suy nghĩ, lời nói đều đúng với lời Phật dạy, biết được những hành động, lời nói của sáu đường chúng sanh trong 3.000 đại thiên thế giới.

II. GIẢI THÍCH

Ba phẩm liên tiếp 17, 18, 19 nói về công đức của kinh Pháp Hoa, có thể thu gọn thành ba vấn đề chính yếu : công đức của người nhất niệm tín giải kinh Pháp Hoa, công đức của người tùy hỷ với kinh và công đức của Pháp sư Pháp Hoa.

Công đức của hành giả Pháp Hoa trong ba phẩm này thật vô lượng vô biên vượt ngoài ngôn ngữ, suy luận, hiểu biết của phàm phu. Vì kinh Pháp Hoa diễn nói về Phật thừa, nằm trên tam thừa : Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát.

Chúng ta tự xét lại xem mình đang ở chặng đường của tam thừa hay Phật thừa. Trong kinh Phật dạy có những việc Phật làm, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều không hiểu được, chưa nói đến làm được. Huống chi là phàm phu chúng ta, chắc chắn còn cách xa Phật thừa hay chân lý.

Chân lý do Phật thành Vô thượng đẳng giác mới thuyết được. Và những người trực tiếp nghe Phật dạy, phiền não tự rơi rụng, trở thành A la hán, dù ở hoàn cảnh nào, thành phần nào. Nay chúng ta chưa đắc đạo, lại thêm cách Phật quá xa. Việc hiểu kinh của chúng ta dễ rơi vào cục bộ sai lầm, đưa đến đủ thứ khổ não phiền lụy hơn là công đức. Chúng ta lại sanh tâm nghi ngờ về những công đức Phật dạy, cho rằng nó ảo tưởng, không có thực. Có thực hay không còn tùy ở trình độ từng người khác nhau. Thí dụ như những công trình nghiên cứu và thí nghiệm thành tựu trên không gian của các nhà bác học không thể diễn đạt cho những người ở trình độ lạc hậu hiểu được. Họ tự lo ngày hai buổi ăn còn không nổi, thì đối với họ thành quả của các nhà bác học tất nhiên chỉ là hoang đường.

Mở đầu, Phật bảo Ngài Thường Tinh Tấn đại Bồ tát rằng nếu có người nào thọ trì kinh Pháp Hoa, hoặc đọc, tụng, giải nói, biên chép, người đó sẽ được 6.000 công đức nơi sáu căn.

Có người hiểu lầm thọ trì là tụng cả bộ kinh Pháp Hoa từ năm này sang năm khác. Chỉ tụng suông như vậy, công đức nếu có, cũng rất giới hạn. Thọ nghĩa là nhận, Phật trao và ta nhận. Trì là giữ, ta giữ dùm cho Phật. Nhận giữ trọn vẹn bốn điều : nhân, hạnh, quả, đức của Phật, chúng ta sẽ thành tựu kinh Pháp Hoa.

Hạt nhân của Đức Phật là nhân Bồ đề, nghĩa là tri giác, nhìn thấy sự vật chính xác đúng như thật, không sai lầm. Đức Phật toàn giác, còn hành giả chỉ có một phần giác ngộ về giáo lý của Ngài. Người tin tưởng rằng hiểu biết của hành giả tương đối chính xác vượt hơn người bình thường, khả dĩ nghe theo được công đức. Đây là khởi điểm của Bồ tát sơ phát tâm đã thọ trì được nhân lành của Phật.

Tiến lên một nấc, hành giả trì hạnh của Phật, tức việc làm của hành giả thay cho Phật, khiến cho người hình dung, liên tưởng đến Phật. Nhận thứcviệc làm của hành giả đều lợi lạc cho đời. Thành tựu hai pháp này, hành giả hiện hữu như một đóa sen tinh khiết tỏa hương thơm ngát trong vũng bùn nhơ, thể hiện một hành giả kiểu mẫu thọ trì nhân hạnh kinh Pháp Hoa.

Hành giả thọ trì được nhân hạnh Pháp Hoa, chuyển đổi cuộc sống tầm thường thành cuộc sống Pháp Hoa, đổi tâm niệm tầm thường thành tâm niệm Bồ tát. Nếu không có sự biến đổi như vậy, dù thuyết Pháp Hoa cũng chỉ là Pháp Hoa văn tự của thế gian, không phải là pháp bí yếu của Như Lai.

Phật nói với Ngài Thường Tinh Tấn Bồ tát rằng tất cả thiện nam thiện nữ đều có khả năng trở thành Pháp sư Pháp Hoa, không nhất thiết phải mang hình thức xuất gia. Pháp sư Pháp Hoa ở bất cứ chỗ nào, tùy theo nhu cầu của người, mà khoác vào mình chiếc áo xuất gia hay cư sĩ. Vấn đề chính yếu trong việc giữ gìn kinh là phải chuyển được tâm vô lượngviệc làm sáng suốt thánh thiện.

Sau khi thọ trì nhân hạnh, cao hơn một nấc thọ trì quả đức kinh Pháp Hoa, tức làm một vị Phật sống trên cuộc đời. Người nhìn thấy liền hết phiền não, phát tâm Bồ đề. Ở giai đoạn này, hành giả thành tựu quả rồi, mới giáo hóa, mà người được giáo hóa cũng không biết. Ngài Thế Thân gọi giáo hóa trên quả môngiáo hóa chúng vô thượng. Đây là trường hợp Đức Phật Thích Ca giáo hóa các Bồ tát tùng địa dũng xuất. Hàng Thanh văn, kể cả các Bồ tát du hóa mười phương không biết các Bồ tát này, liền khởi tâm nghi tại sao Ngài vừa thành Phật trong 40 năm lại được công đức như vậy.

Hành giả thọ trì trọn vẹn bốn pháp nhân hạnh quả đức thấy được Như Lai thọ lượng, bản tâm thanh tịnh hoàn toàn, mới thực sự là Pháp sư thọ trì kinh Pháp Hoa. Hay nói theo phẩm 10, muốn là Pháp sư phải hội đủ tam pháp ấn : vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai.

Hàng Thanh Văn trải qua 10 năm trau giồi tam pháp ấn, nghĩa là cố gắng thọ trì nhân hạnh quả đức, để nhận được pháp bí yếu của Như Lai và thẳng tiến trên lộ trình Phật đạo. Từ đó, các Ngài thấy, hiểu và nhận được vô lượng vô biên công đức bất khả tư nghì. Vì các Ngài tu dưới dạng thể tánh, không thấy bằng mắt bình thường; nhưng bên trong tròn đủ hạnh Bồ tát, nên đem so với Thanh văn, công đức thù thắng hơn nhiều.

Tuy nhiên, việc thọ trì nhân hạnh quả đức kinh Pháp Hoa không đơn giản. Vì khó làm, nên Phật triển khai thành bốn việc làm của Pháp sưđọc tụng, biên chép, suy tư, giảng dạy. Bốn công việc này là phương tiện, hành giả phải thực hành để đạt đến cứu cánh quả vị Phật.

Trước hết, thọ trì phải phát xuất từ đọc tụng, vì nếu không, ta biết gì để thọ trìcăn cứ vào đâu để thọ trì. Hành giả đọc tụng lời Phật dạy trong kinh, biên chép, trầm mình trong giáo lý Phật, suy tư tìm nghĩa sâu xa bên trong. Rồi đem giảng nói, rọi giáo pháp Phật vào cuộc sống, để xem phản ứng của chúng sanh đối với ta thế nào và để chứng nghiệm xem ta nhận thức đúng hay sai.

Đọc tụng, biên chép, suy nghĩ, giảng nói, kiểm chứng lại, thấy chúng ta đã giữ gìn thành tựu pháp này trong cuộc sống một cách đúng đắn. Như vậy, hành giả đã trở lại ý nghĩa lúc ban đầu về thọ trì nhân hạnh quả đức kinh Pháp Hoa.

Sau Phật Niết bàn, mỗi vị Pháp sư giảng dạy, hiểu về Phật một cách khác nhau, vì đối tượng quần chúng nghe pháp không giống nhau, thời đại không giống nhau. Tất cả những kiến giải, giảng dạy này không phải của bậc Toàn Giác, nên tương đối đúng, giống Phật một phần nào thôi.

Tuy nhiên, việc làm của các Pháp sư Pháp Hoa là những vị Thánh Tăng như Long Thọ, Thế Thân, Đạo Sanh, Trí Giả, Nhật Liên, Tối Trừng, v.v… đều tác dụng hữu ích cho cuộc sống đương thời và còn ảnh hưởng đến trăm ngàn năm sau cho chúng ta.

Như vậy Pháp sư thọ trì kinh Pháp Hoa đúng chánh pháp, trải qua những chặng đường triển khai kinh, là đọc tụng, biên chép, suy tư, diễn nói, đem ứng dụng vào cuộc sống của bản thânchỉ đạo mọi người lợi lạc an vui giải thoát. Tùy mức độ hiểu kinh, áp dụng kinh, thọ trì kinh đến đâu, công đức theo đó sanh ra và tầm ảnh hưởng truyền bá sâu rộng đến đó.

Theo Phật, Pháp sư trì kinh Pháp Hoa có 800 công đức nơi mắt, 1.200 công đức nơi tai, 800 công đức nơi mũi, 1.200 công đức nơi lưỡi, 800 công đức nơi thân, 1.200 công đức nơi ý.

Trên bước đường tu hành, chúng ta thường gặp chướng duyên, vì trang bị sáu giác quan bằng phiền não nhiễm ô, tội lỗi. Vì thế, người thấy ta, nghe ta nói, không chấp nhận được. Ngược lại, Pháp sư như pháp tu hành, sáu căn trang nghiêm bằng công đức, người nhìn vào không có điểm nào không ưa thích.

Trong phẩm này, Phật chia ra các vị Bồ tát thấy được, nghe được, nhận được công đức đến mức nào. Nghĩa là Ngài xác định vị trí của các Bồ tát trên lộ trình tiến đến Phật quả.

1 - 800 công đức nơi mắt

Mắt hành giả trang bị bằng 800 công đức khiến người nhìn vào ánh mắt hành giả liền phát tâm. Thành tựu 800 công đức nơi mắt, hành giả thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới từ địa ngục A tỳ đến Trời Sắc cứu cánh. Đây là cái thấy nương vào ánh quang Phật, được diễn tả trong phẩm Tựa rằng thấy sáu đường chúng sanh trong ba đời như thấy việc trước mắt. A la hán, Bồ tát không thấy như vậy, mà người trì kinh Pháp Hoa lại thấy, cho nên Phật nói pháp này khó tin, khó hiểu, khó vào.

Hành giả thực sự không biết được căn tánh hành nghiệp chúng sanh, chỉ làm dưới sự điều động của Như Lai. Cái thấy của hành giả Pháp Hoa bằng với Như Lai, mà thực hành giả không phải là Như Lai. Trí Giả gọi đó là tương tợ vị, nghĩa là địa vị tương tợ Như Lai, không phải Như Lai. Mượn trí tuệ Như Lai làm trí tuệ mình, mượn công đức kinh làm công đức mình, nên thấy được bao la dường ấy.

Chúng sanh đến với hành giả, bằng linh giác hành giả biết được họ nghĩ gì, tu gì và chỉ dạy cho họ đều đúng. Tuy còn là phàm phu với ngũ ấm thân nhưng nhờ trì kinh, có được nhãn lực hết sức linh hoạt. Điều này cũng dễ hiểu, ví như nhìn qua viễn vọng kính, chúng ta thấy được vũ trụ bao la hay nhìn vào kính hiển vi, ta thấy rõ ràng những vi trùng cực nhỏ. Bỏ hai kính quan sát này ra, mắt chúng ta trở lại phạm vi bình thường, không thấy quá đường chân trời.

Tầm nhìn của người trì kinh Pháp Hoa được 800 công đức nơi mắt, thấy được tất cả vũ trụ chính xác đồng với Như Lai. Nhưng trở lại con người bình thường, hành giả không hư nhãn căn, mới hành Bồ tát đạo được.

Trái lại, A la hán, tập luyện đến độ thấy tất cả vật đều KHÔNG hoàn toàn. Thấy dưới dạng thể, nên các Ngài không cần quan tâm gì đến chúng sanh. Và khi trở về địa vị con người, nhãn căn bị hư hoại. Giống như Ngài A Na Luật chứng được thiên nhãn xong, lại trở thành người mù trên thực tế.

Hành giả trì kinh Pháp Hoa, quan sát bằng Phật nhãn, thấy căn tánh hành nghiệp chúng sanh, chỉ dạy họ tu hành thành Vô thượng bồ đề, nhưng họ không bị hư nhãn căn. Điều này thể hiện rõ trong việc làm của Ngài Ca Diếp được nói trong phẩm Tín Giải. Ca Diếp bày tỏ với Phật rằng ông mang giáo lý của Phật dạy cho người, họ tu hành trở thành Bồ tát. Trong khi thực tế Ca Diếp vẫn là Thanh văn. Ca Diếp đã mượn trí tuệ đồng với Như Lai, mới giáo hóa được Bồ tát. Nếu Ngài vẫn giữ nguyên địa vị Thanh văn, làm thế nào giáo hóa được Bồ tát. Ngài vẫn khất thực bình thường, nhưng lúc đó nương trí tuệ Như Lai, được tương tợ vị Như Lai, thì Ngài có khả năng giảng pháp bí yếuthành tựu điều bất khả tư nghì.

Hành giả dùng công đức vô lậu của Như Lai trang bị cho mình, thì chỉ tu một niệm, sanh được công đức so với công đức thế gian hoàn toàn cách nhau một trời một vực. Đứng dưới dạng thật tướng các pháp, hành giả chuyển vật đồng với Như Lai và đem kết quả này mà dùng để hưởng phước theo phàm phu, tất nhiên không bao giờ hết được.

Tùy công đức, mắt hành giả thấy rõ phần nghiệp thiện hay ác của chúng sanh khác nhau. Trọn được 800 công đức, nghĩa là thấy 800 cách khác nhau, hành giả luôn luôn thấy chính xác không bao giờ sai lầm.

2 - 1.200 công đức nơi tai

Tai linh hoạt hơn mắt nên có 1.200 công đức, vì tai vẫn nghe được khi đối tượng bị ngăn cách và khi không có ánh sáng. Công đức của hành giả trang bị trên tai thanh tịnh, nên có khả năng nghe và hiểu biết khác hẳn bình thường. Tai thanh tịnh nghe không sót tiếng nói của tất cả loài hữu tình bằng bất cứ ngôn ngữ nào trong pháp giới. Thường Bất Khinh Bồ tát thành tựu pháp này, nghe được 20 ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương.

Tai thanh tịnh nghe được ngôn ngữ muôn loài, trở về thực tế hành giả không bị hư hoại nhĩ căn. Đây là pháp tu Đốn giáo, quả vị của hành giả đồng với Như Lai, nhưng thực sự nghiệp lực bên trong chưa diệt sạch.

Vì vậy, rời công đức lực Như Lai, hành giả cũng trở thành xác xơ như bướm rụng cánh. Mượn công đức Như Lai biến thành công đức mình, phước báo sẽ vô cùng tận. Bấy giờ, có mọi phương tiện vật chất thuận lợi đầy đủ, tâm hành giả vẫn không sanh nhiễm trước. Tròn đủ 1.200 công đức, hành giả mới có khả năng giáo hóa tất cả loài chúng sanh trong sáu đường.

3 - 800 công đức nơi mũi

Hành giả phân biệt tất cả mùi vị dù xa hay gần. Biết được mùi hương của Phật, Bồ tát, A la hán, Trời Phạm Thiên, cho đến tất cả loài súc sanh, ngạ quỷ, A tu la tới với hành giả. Hành giả nghe mùi đều biết được những chúng sanh này từ đâu tới và dùng pháp tương ưng để dạy chúng tu hành có kết quả.

Sức nghe mùi của hành giả chẳng những không sai lầm, lại hết sức linh hoạt, biết rõ cả phục tàng của báu trong lòng đất. Tất cả nhận biết này đều thuộc huệ Như Lai, do trì kinh Pháp Hoa, mượn lực Như Lai có được. Và trở về thực tế, hành giả cũng không bị hư tỷ căn.

4 - 1.200 công đức nơi lưỡi

Thành tựu 1.200 công đức của lưỡi, bất cứ vị nào ở trên lưỡi của hành giả đều biến thành cam lồ. Ngoài ra, hành giả nói pháp bí tàng của Như Lai, khiến mọi người nghe đều phát tâm. Dù chúng sanh có nhiều trăm ngàn muôn ức, mỗi người nghe đều cảm nhận ý của Pháp sư như nói riêng cho chính họ. Hành giả nói bất cứ lời gì đều không chống trái thật tướng các pháp, cũng không chống trái hành nghiệp chúng sanh.

Công đức đặc biệt này hàng Nhị thừa không có được. Hàng Nhị thừa khuyên người xa rời năm món dục, bỏ tục xuất gia, tu hành được giải thoát. Nhưng nếu khuyên người làm việc thế sự sẽ bị nhiễm ô.

Trái lại, tướng lưỡi của Như Lai, dù nói việc thế gian cũng không trái đạo Vô thượng đẳng giác. Phù Vân Quốc sư được công đức lưỡi, Ngài khuyên vua Trần Thái Tôn trở về làm vua cứu dân cứu nước để thực hiện đạo Vô thượng đẳng giác. Quả thật vua Trần Thái Tôn cảm đức Ngài, lãnh đạo nước, thắng được giặc Mông Cổ. Tuy làm vua trị nước an dân giỏi, nhưng tư chất giải thoát sáng suốt của hành giả Pháp Hoa vẫn sáng rỡ nơi Ngài, thể hiện qua nhiều tác phẩm để lại cho chúng ta.

Trang bị bằng huệ Như Lai, hành giả có được thiệt căn công đức, nói ra những lời khó tin, khó hiểu, khó làm, mà người vẫn tin, hiểu và làm theo, được thành công.

5 - 800 công đức nơi thân

Khi mới có một phần thân công đức, dùng thân thanh tịnh để lễ bái, tụng niệm, người nhìn thấy thân hành giả, họ hết khổ. Căn tánh hành nghiệp của người hiện vào thân hành giả, nên hành giả biết rõ và tùy theo đó giải quyết. Bấy giờ hành giả không ở lập trường riêng của mình đem dạy họ, vì dễ mang đến phiền não. Hành giả đứng ở lập trường chúng sanh cứu độ chúng sanh, mới có kết quả, không chống trái với nghiệp của họ và cũng không đi ngược lại đạo Vô thượng đẳng giác. Pháp này khó hiểu đối với Thanh văn chuyên phân biệt dứt khoát, đứng một trong hai lập trường hoặc Chân đế hoặc Tục đế, hoặc phải hoặc trái.

Thành tựu đầy đủ 800 công đức, thân hành giả như lưu ly, khắp pháp giới đều hiện vào thân, hành giả đồng với Như Lai. Không một loài nào, việc nào, tánh nào mà hành giả không quan sát thấu suốt.

6 - 1.200 công đức nơi ý

Đầy đủ 1.200 công đức của ý, tất cả việc hành giả nghĩ ra đều có lợi cho muôn loài, vẫn không trái đạo Vô thượng đẳng giác. Pháp tu này khác với pháp của Thanh văn. Thanh văn tu phải gạn lọc từng điều một, luôn luôn gạn tâm xem thanh tịnh chỗ nào, nhiễm ô phần nào. Thanh văn thường xuyên gạn lọc tội lỗi, đem pháp lành vào tâm để không nhiễm ô.

Ngược lại, hành giả trì kinh Pháp Hoa, làm mọi việc bình thường, nhưng tất cả loài xung quanh đều nương nhờ giải thoát, giống như sự xuất hiện lợi lạc của Phật Thích Ca trên thế gian vậy.

Điểm này chúng ta cần lưu ý, nếu thành tựu sáu công đức trên, sáu căn sẽ được thanh tịnh bằng Như Lai, nhưng chính ta cũng không biết. Nếu hành giả thấy thực mình bằng với Như Lai trong khi giáo hóa chúng sanh, hành giả đã rơi vào tăng thượng mạn.

Do ý căn thanh tịnh, biết được tương quan tương duyên giữa các loài và vận dụng nghĩa lý sâu xa của kinh để thuyết giảng, hành giả thành tựu được sự thuyết pháp vô cùng tận. Chỉ một câu kệ, hành giả triển khai nghĩa lý từ một tháng đến một năm. Người nghe thâm nhập ý đạo, vấn đề thế gian của họ cũng tự động được giải quyết dễ dàng.

Ngày nay, chúng ta thọ trì kinh Pháp Hoa không thành tựu công đức vì tu sai pháp. Thí dụ ta vừa làm được một việc nhỏ, liền khởi lên niệm sai trái, tức thì công đức cũng biến mất ngay. Được ý căn thanh tịnh, hành giả tu hành không cần dụng tâm. Chỉ duy nhất có một niệm luôn luôn nhớ nghĩ Như Laigiữ gìn tạng pháp Như Lai mà thành tựu công đức không nghĩ bàn.

Trong phẩm Dược thảo dụ, Phật nói rõ tất cả những người tu hành nương theo huệ Như Lai, đều được lợi lạc giải thoát, giống như trận mưa tuôn xuống thì tất cả cỏ cây tùy sức hấp thụ được.

Chúng sanh học pháp Như Lai cũng vậy, không tự biết căn tánh thượng trung hạ của mình, không biết dùng pháp gì để tu và được pháp gì. Duy chỉ có Như Lai biết rõ chúng sanh. Ta nương theo huệ Như Lai làm lợi ích muôn loài mà không hay biết. Nếu có dụng ý, chúng ta đã rớt qua Tục đế, chưa đạt tới Nhị thừa, làm gì đến Phật huệ của Như Lai được.

Việc tu hành của chúng ta không kết quả, chỉ vì chẳng hiểu đúng, làm đúng điều Như Lai dạy. Đức Như Lai không bao giờ hư dối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33130)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6520)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11240)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7962)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12158)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12230)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12780)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34710)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9827)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10722)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10491)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10444)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16231)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21806)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9594)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7100)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10370)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12713)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12760)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16205)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16507)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16559)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12095)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14302)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11729)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16278)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14326)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16185)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12682)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12060)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11784)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15642)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11495)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12606)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14973)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11943)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13106)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14510)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20654)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13187)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10924)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20668)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20341)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17626)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13998)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31842)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12004)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant