Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức - Dẫn Nhập

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9823)
11. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức - Dẫn Nhập

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

XI

MƯỜI CĂN BẢN CỦA

HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC

(DASA PUNNA-KIRIYA VATTHU)

 

DẪN NHẬP

    NỘI DUNG 

    1. Những Căn Thiện & Căn Bất Thiện (Akusala Kusala Hetu)
    2. Hành Động Công Đức (Punna-kiriya)
    3. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức (Dasa Punna-kiriya Vatthu)
    4. Những Loại Nghiệp Thiện (Kusala Kamma)
    5. Phân Loại Con Người (Puggala-bheda)
    6. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

     

     

    1. Những Căn Thiện & Căn Bất Thiện (Akusala Kusala Hetu)

     

    Căn ở đây nghĩa là “gốc rễ”, “căn cơ”, “bản chất”, chứ không phải căn theo nghĩa là “giác quan” trong trường hợp khác.

     

    Có 3 căn xấu ác hay 3 căn bất thiện, mà Đức Phật đã nói đến, là nguồn gốc, nguyên nhân của tất cả mọi đau khổ. Đó là:

     

    • Tham dục (Lobha),
    • Sân hận (Dosa), và
    • Si mê (Moha)

     

    Ba loại gốc rễ hay bản chất này bao gồm tất cả mọi phạm vi bất thiện, dù chúng thể hiện một cách mờ nhạt hay thể hiện một cách thô thiển nhất.

     

    Ngược lại, có 3 căn tốt hay căn thiện, đó là:

     

    • Không Tham dục (Alobha) = Không ích kỷ, rộng lượng, hào hiệp, buông bỏ, không tham chấp
    • Không Sân hận (Adosa) = Thương yêu, từ ái, nhẫn nhục và bi mẫn
    • Không Si mê (Amoha) = Hiểu biết, tri kiến, trí tuệ

     

     

     

     

    2. Những Hành Động Công Đức (Punna-kiriya)

     

    Tất cả mọi hành động đều xuất phát từ tâm, do tâm điều khiển, do tâm tạo tác. Thân và lời nói chỉ là những “cánh cửa” để cho tâm thể hiện, biểu hiện hành vi của mình mà thôi.

     

    Người xưa định nghĩa từ  punna (công đức, phước đức) như là: “công đức rửa sạch hay làm trong sạch tâm”. Từ định nghĩa về những căn thiện tạo điều tốt lành và những căn bất thiện tạo ra đau khổ, chúng ta có thể suy ra được chính những căn thiện là nguyên nhân, gốc rễ để tạo ra công đức.

     

    Những hành động công đức là những hành động do ý chí, do tâm chỉ đạo, là những tâm “Hành” được đi kèm bởi 3 căn thiện, đó là Không Tham, Không Sân, Không Si .

     

    Ngược lại, những hành động đáng trách hay làm tổn hại công đức là những hành động do ý chí, do tâm chỉ đạo, là những tâm “Hành” được đi kèm bởi 3 căn bất thiệnTham, Sân, Si.

     

    Nói tóm lại một cách đơn giản, những căn thiện hay bất thiện tạo ra những nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện.

     

    Theo “Vi Diệu Pháp” tạng (Abhidhamma), có tám (8) loại Thức thiện (sobhana citta)[1] tương ứng với việc tái sinh về cõi Dục Giới (Kamavacara). Bốn (4) loại Thức trong số này chỉ chứa có 2 căn thiện là Không Tham & Không Sân, còn bốn (4) loại Thức còn lại thì chứa đầy đủ 3 loại căn thiện là Không Tham, Không Sân & Không Si (Trí Tuệ).

     

    Mỗi nhóm lại được phân chia ra thành nhiều loại khác, tùy thuộc vào chúng được trợ duyên hay không được trợ duyên tùy thuộc vào chúng có đi kèm với tâm Hỉ (hoan hỉ, vui vẻ) hay tâm Xả (vô tư, thản nhiên). Khi bàn về ý nghĩa tột cùng, 8 loại Thức thiện này bao gồm tất cả mọi hành động công đức hay tất cả mọi Nghiệp thiện tương ứng với cõi Dục Giới.

     

    Tám (8) loại Thức thiện theo danh sách dưới đây, đó là:

     

    a) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, trợ duyên, cùng trí tuệ

    b) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, trợ duyên, không trí tuệ.

    c) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, không trợ duyên, cùng trí tuệ.

    d) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, không trợ duyên, không trí tuệ.

     

    e) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, trợ duyên, cùng trí tuệ

    f) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, trợ duyên, không trí tuệ.

    g) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, không trợ duyên, cùng trí tuệ.

    h) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, không trợ duyên, không trí tuệ.

     

     

     

     

    3. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức (Dasa Punna-kiriya Vatthu

     

    Nếu một người thật sự muốn tích lũy nhiều nghiệp thiện trong đời sống này, thì có 10 căn bản hay 10 phương cách (Dasa vatthu) để thực hiện thành công công đức hay việc làm công đức (Punna-kiriya) để tạo ra nghiệp quả tốt lành, và điều quan trọng là hãy cố gắng làm hết sức mình và bằng mọi phương tiện, điều kiện mình có được để thực hiện việc công đức. Đó là những căn bản, nền tảng hay những cách hay những việc làm như sau:

     

    1) Dana: Việc Sự Bố Thí, cho tặng, sự rộng lượng, hào hiệp.

    2) Sila: Việc tuân giữ Giới Hạnh đạo đức, đó là Năm Giới căn bản, Tám Giới hay Mười Giới Thập Thiện…

    3) Bhavana: Thiền hành, cả thiền địnhthiền quán minh sát.

    4) Apacayana: Việc Tôn kính người lớn tuổi, bậc thánh nhân.

    5) Veyyavacca: Sốt sắng Phục vụ, giúp đỡ thực hiện những việc thiện.

    6) Pattidana: Việc Chia sẻ, hồi hướng công đức.

    7) Pattanumodana: Sự Hoan hỉ, vui mừng cho công đức của người khác, tùy hỷ công đức (HV).

    8) Dhamma-savana: Nghe học Giáo Pháp.

    9) Dhamma-desana: Truyền, dạy Giáo Pháp.

    10)Ditthijukamma: Chánh tín, cũng có niềm tin một cách ngay thẳng, chính trực, được dựa vào chánh kiến.

     

     

    Mười căn bản hay nền tảng của Hành động công đức được phân thành 3 nhóm khác nhau:

     

    • Dana: Nhóm Bố Thí, bao gồm việc Bố Thí, Hồi Hướng Công Đức & Tùy Hỷ Công Đức.
    • Sila: Nhóm Giới Hạnh, bao gồm Giới Hạnh, Tôn Kính & Phục Vụ
    • Bhavana: Nhóm Thiền Hành, bao gồm Thiền, Nghe học Giáo Pháp, Truyền Dạy Giáo Pháp & Củng Cố Chánh Kiến dựa vào chánh kiến

     

     

    (a) Nhóm Bố Thí (Dana) đại diện cho phẩm chất Không Tham (alobha), có nghĩa là cho, tặng, hào hiệp, không ích kỷ, buông bỏ. Nó đối nghĩa, đối nghịch với sự ghen tỵ, bủn xỉn hay ích kỷ.

     

    (b) Nhóm Giới Hạnh (Sila) đại diện cho phẩm chất Không Sân (adosa), có nghĩa là từ ái, thiện chí. Nó đối nghĩa, đối nghịch với Tham chấp (lobha) và Sân hận, thù ghét (dosa).

     

    (c) Nhóm Thiền Hành (Bhavana) đại diện cho phẩm chất Không Si (amoha), có nghĩa là trí tuệ hay sự hiểu biết. Nó đối nghĩa, đối nghịch với Si mê, ngu dốt và tà kiến, mù quáng.

     

    Mười căn bản hay mười chủ đề của hành động công đức được thực hiện cùng với tám (8) loại Thức thiện, trừ khi một người chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) hay giác ngộ Đạo thức (magga, Thức con đường Đạo) bằng phương pháp thiền. Vì thế, mười căn bản của hành động công đức này thường làm khởi sinh tạo ra những nghiệp thiện, tương ứng cõi trời Dục Giới

     

     

     

     

    4. Những Loại Nghiệp Thiện (Kusala Kamma)

     

    (a) Những Nghiệp Thiện 2-Căn và Nghiệp Thiện 3-Căn

     

    Nếu một người thực hiện những hành động thiện, việc thiện với kiến thức, hiểu biết về Nghiệp (Kamma) và những nghiệp quả, những thức thiện có đi kèm cùng trí tuệ hiểu biết. Tâm ý hay tâm Hành sẽ được đi kèm bởi 3 căn thiện: Không Tham, Không Sân, Không Si. Vì vậy nên tạo ra Nghiệp thiện 3-căn (tihetuka). Càng tốt hơn nữa, trong quá trình thực hiện những hành động thiện, một người có thể phát triển trí tuệ bên trong tức trí tuệ minh sát bằng cách lý giải mọi sự việc là vô thường, khổ và vô ngã. Nghiệp thiện tạo ra sẽ lại được đi kèm bởi ba căn thiện.

     

    Mặt khác, nếu một người thực hiện những hành động thiện mà không có trí tuệ, hiểu biết về Nghiệp (Kamma) và những nghiệp quả, thì người đó đang thực hiện hành động đó mà không có chút hiểu biết hay trí tuệ nào cả. Vì thế, tâm ý hay tâm Hành sẽ không được đi kèm với căn Không Si, mà chỉ có 2 căn Không Tham & Không Sân. Như vậy sẽ tạo ra Nghiệp thiện 2-căn (dvihetuka).

     

     

    (b) Nghiệp Thiện Ưu Việt & Nghiệp Thiện Thấp Kém

     

    Trong khi thực hành trên 10 căn bản của việc công đức, một người có tâm ý hay ý định trước và sau khi khi hành động công đức được thực hiện là rất quan trọng. Nếu một người phát triển Thức Thiện trước khi thực hiện một hành động công đức, thì tâm ý (hay tâm Hành) về đạo sau khi thực hiện sẽ được bao quanh bởi nhiều tâm ý thiện khác và hệ quả là tiềm năng thiện căn mạnh mẽ hơn nhiều. Nghiệp thiện được tạo ra như vậy được gọi là Nghiệp Thiện Ưu Việt (ukkatha).

     

    Để tạo được Nghiệp Thiện ưu việt này, một người luôn nghĩ về hành động công đức trước khi thực hiện nó và luôn cảm thấy vui mừng, hoan hỉ vì có được cơ hội để thực hiện hành động công đức đó. Và hơn nữa, sau khi đã thực hiện xong hành động công đức đó, một người nên quán chiếu về điều đó và luôn cảm thấy vui vẽ, mãn nguyện hay vui mừng về khía cạnh hướng thiện, về mặt tốt lành của hành động công đức đó.

     

    Mặt khác, nếu một người cảm thấy lười biếng hay ngập ngừng hay ghen tỵ hay bủn xỉn trước khi quyết định làm việc công đức, ví dụ như bố thí, và cảm thấy tiếc nuối sau khi hành động công đức đã được thực hiện, thì tâm ý (hay tâm Hành, ý Hành) về đạo đức này sẽ bị bao vây bởi những tâm ý bất thiện khác, và hệ quả là tiềm năng thiện sẽ bị suy yếu. Nghiệp thiện được tạo ra như vậy được gọi là Nghiệp Thiện thấp kém (omaka).

     

    Như vậy, có 4 loại Nghiệp thiện được tạo ra trong việc thực hiện những hành động hay những việc công đức, đó là:

     

    i) Nghiệp thiện ưu việt 3-căn

    ii) Nghiệp thiện thấp kém 3-căn

    iii) Nghiệp thiện ưu việt 2-căn

    iv) Nghiệp thiện thấp kém 2-căn

     

    Mỗi Nghiệp thiện trong 4 loại trên có thể được thực hiện cùng với tâm hoan Hỉ hay với tâm buông Xả, như vậy sẽ tạo ra tám (8) loại Thức thiện như đã nói.

     

    ▪ Trong bốn (4) loại Nghiệp thiện, loại (i) là tốt nhất, tối ưu việt. Nếu Nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, thì người đó sẽ được tái sinh với 3 căn thiện (tihetuka) vào cảnh giới phúc lành làm người hay làm thiên thần (devas) và sẽ sở hữu được khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) và Thức con đường Đạo (Magga).

     

    ▪ Loại Nghiệp thiện (ii) và (iii) gần như là tương đương với nhau. Nếu Nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, người đó sẽ được tái sinh với 2 căn thiện (dvihetuka) vào cảnh giới phúc lành để làm người hay làm thiên thần (devas). Những người ấy không sở hữu được khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) và Thức con đường đạo (Magga).

     

    ▪ Loại Nghiệp thiện (iv) là thấp kém nhất. Nếu nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, người đó cũng sẽ được tái sinh vào cảnh giới phúc lành (sugati), nhưng tiếc thay người đó không có được căn thiện nào (ahetuka) và sẽ làm người tật nguyền, dị dạng hoặc làm thần bị giáng xuống làm địa thần (TA: earth-bound degraded deva) ở cõi thấp kém hơn là cõi trời Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharajika), có thể làm những quỷ thần dị dạng.

     

     

     

     

    5. Phân Loại Con Người (Puggala-bheda)

     

    Con Người (Puggala) có nghĩa là một cá nhân, một người. Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), con người được phân thành 12 loại, trong đó bao gồm 4 loại người phàm tục (puthujjana, world-lings) và 8 loại người thánh thiện hay thánh nhân (ariya-puggala). Mười hai (12) loại người đó lần lượt là:

     

     

    1) Loại Người Phàm Phu Không Có Căn Thiện ở Cõi Xấu (Duggati ahetuka puggala)

    Đây là những hạng người bị sinh vào cõi xấu đó là: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, quỷ thần. Những hạng người này không có được một căn thiện (Không Tham, Không Sân, Không Si) nào. Vì thế được gọi là hạng người Vô Thiện Căn (Duggati: Cõi xấu, ahetuka: không có căn thiện, puggala: phàm phu).

     

    2) Loại Người Phàm Phu Không Có Căn Thiện ở Cõi Phúc Lành (Sugati ahetuka puggala)

    Đây là những hạng người được sinh ra với thân hình tật nguyền hay dị dạngcõi người hay cõi trời thấp của Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharajika), nhưng họ không có được một căn thiện nào. Người vô thiện căn.

     

    3) Loại Người Phàm Phu 2-Căn Thiện (Dvihetuka puggala)

    Đây là loại người và những thiên thần (devas) được tái sinh chỉ có 2-căn thiện là: Không Tham, Không Sân. Những loại người này không có khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) trong kiếp sống này, nhưng đa số họ đều cố gắng tu tập.

     

    Tuy nhiên, họ có thể trở thành loại người phàm phu có 3-căn thiện (tihetuka puggala) trong kiếp sau nếu họ nỗ lực hành thiền trong kiếp này, và họ sẽ chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) nếu họ tiếp tục hành thiền trong kiếp sống sau.

     

    4) Loại Người Phàm Phu 3-Căn Thiện (Tiihetuka puggala) -

    Đây là loại người và thiên thần (devas) được tái sinh với 3-căn thiện là: Không Tham, Không Sân và Không Si. Những người này có khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) trong kiếp sống này nếu họ nỗ lực, tinh tấn thực hành Thiền Định, và Thiền Quán Trí Tuệ bên trong (Thiền Minh Sát). Những người phàm phu có 3-căn thiện có thể chứng ngộ những tầng Thánh quả khác nhau bằng cách thực hành Thiền Minh Sát (Vipassana).

     

    Hạng người 3-căn thiện này, nếu nỗ lực tu tập thực hành Thiền Quán Minh Sát, thì có thể sẽ lần lượt chứng ngộ được Thức con đường Đạo (magga)[2] và Thức Đạo Quả (phala) của bốn (4) Thánh Đạo & Quả, để trở thành 8 loại người thánh thiện hay 8 bậc Thánh nhân, như sau:

     

    5) Thức Hướng Nhập Lưu (Sotapatti maggattha) [= đang hướng Thức con đường Đạo hay tầng Nhập Lưu, tầng thánh thứ nhất].

    6) Thức Quả Nhập Lưu (Sotapatti phala) [= khi chứng được Quả Nhập Lưu, tầng thánh thứ nhất].

    7) Thức Hướng Nhất Lai (Sakadagami magga), tầng thánh thứ hai.

    8) Thức Quả Nhất Lai (Sakadagami phala), tầng thánh thứ hai.

    9) Thức Hướng Bất Lai (Anagami magga), tầng thánh thứ ba.

    10)Thức Quả Nhất Lai (Anagami phala), tầng thánh thứ ba.

    11)Thức Hướng A-la-hán (Arahatta magga), tầng thánh cuối cùng.

    12)Thức Hướng Quả A-la-hán (Arahatta phala), tầng thánh cuối cùng.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    6. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

     

    1) “The Roots of Good and Evil” (Những Căn Tốt và Căn Xấu), tác giả Trưởng Lão Nyanaponika Thera, số phát hành “The Wheel No. 251/253”.

     

    2) “The Essence of Buddha Abhidhamma” (Cốt Lõi Vi Diệu Pháp của Đức Phật), tác giả Tiến Sĩ Mehm Tin Mon.



    [1] Lưu ý, theo “Vi Diệu Pháp”, thì lúc này khái niệm Thức và Tâm (Citta) là đồng nghĩa nhau. Vì thế có người gọi là Thức thiện, có người gọi là Tâm thiện – ND

    [2] Tức là đã vào giai đoạn hay chặng của tầng Thánh và đang tu tập hướng đến Thánh Quả của tầng Thánh đó -ND)

     

     


    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    (Xem: 22298)
    Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
    (Xem: 16026)
    Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
    (Xem: 15034)
    Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
    (Xem: 18962)
    Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
    (Xem: 14452)
    Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
    (Xem: 18633)
    Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
    (Xem: 14431)
    Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
    (Xem: 13589)
    Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
    (Xem: 13556)
    Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
    (Xem: 11822)
    Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
    (Xem: 13262)
    Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
    (Xem: 13666)
    Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
    (Xem: 13940)
    công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
    (Xem: 13252)
    Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
    (Xem: 15026)
    Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
    (Xem: 16166)
    Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
    (Xem: 11085)
    Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
    (Xem: 16457)
    Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
    (Xem: 11908)
    Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
    (Xem: 17601)
    Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
    (Xem: 12880)
    Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
    (Xem: 13717)
    Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
    (Xem: 12865)
    Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
    (Xem: 14861)
    Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
    (Xem: 16393)
    Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
    (Xem: 13133)
    Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
    (Xem: 12093)
    Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
    (Xem: 12775)
    Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
    (Xem: 12919)
    Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
    (Xem: 12792)
    Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
    (Xem: 14179)
    Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
    (Xem: 14125)
    Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
    (Xem: 16481)
    Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
    (Xem: 12381)
    Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
    (Xem: 14390)
    Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
    (Xem: 11334)
    Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
    (Xem: 11037)
    Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
    (Xem: 13195)
    Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
    (Xem: 13896)
    Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
    (Xem: 13166)
    Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
    (Xem: 13007)
    Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
    (Xem: 13512)
    Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
    (Xem: 12739)
    Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
    (Xem: 10235)
    Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
    (Xem: 13970)
    Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
    (Xem: 10238)
    Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
    (Xem: 13706)
    Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
    (Xem: 16271)
    Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
    (Xem: 11969)
    Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
    (Xem: 12980)
    Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
    (Xem: 11662)
    Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
    (Xem: 12682)
    Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
    (Xem: 10800)
    Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
    (Xem: 11001)
    Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
    (Xem: 10946)
    Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
    (Xem: 11901)
    Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
    (Xem: 12770)
    Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
    (Xem: 11068)
    Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
    (Xem: 12622)
    Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
    (Xem: 11329)
    Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
    Quảng Cáo Bảo Trợ
    Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
    Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant