Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

14. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức: Nhóm Thiền

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9411)
14. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức: Nhóm Thiền

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

XIV

MƯỜI CĂN BẢN CỦA

HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC

 

PHẦN BA: NHÓM THIỀN (BHAVANA)

NỘI DUNG

  1. Điều Kỳ Diệu Của Năng Lực Giáo Pháp
  2. Sự Truyền Dạy Giáo Pháp (Dhamma-desana)
  3. Sự Truyền Dạy Giáo Pháp Bởi Cư Sĩ & Những Ích Lợi
  4. Lắng Nghe Giáo Pháp (Dhamma-savana)
  5. Cách Thức Đúng Đắn Để Lắng Nghe Giáo Pháp & Những Ích Lợi
  6. Chỉnh Lý Quan Điểm, Niềm TinChánh Tín (Ditthijukamma)
  7. Những Loại Tà Kiến
  8. Những Ích Lợi Của Việc Chỉnh Lý Quan Điểm, Củng Cố Niềm Tin
  9. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

 

 

 

1. Sự Kỳ Diệu Của Năng Lực Giáo Pháp (Dhamma)

 

Vào một lần nọ, khi Đức Phật đang cư ngụ ở vùng Nalanda trong khu Vườn Xoài của thí chủ Pavarika, thì có một Phật tử tại gia, tên là Kevaddha, đến xin gặp Phật và thỉnh cầu Phật cử một Tỳ kheo biểu diễn những thần thông kỳ diệu để cho những người dân ở thành Nalanda càng thêm tin tưởng vào Đức Phậtvì vậy, nhiều người sẽ trở thành Phật tử. Tuy nhiên, Đức Phật đã từ chối lời thỉnh cầu này. Đức Phật bảo rằng, Người cũng chưa bao giờ dạy Giáo Pháp (Dhamma) cho những Tỳ kheo là: “Này Tỳ kheo, hãy ra ngoài biểu diễn thần thông biến hóa cho những cư sĩ áo trắng xem”.

 

Đức Phật đã trả lời y hệt như vậy, khi người đó tiếp tục thỉnh cầu lần thứ hai. Đến lần thứ ba, Đức Phật bắt đầu chỉ cho ông ta về 3 điều kỳ diệuĐức Phật đã biết được và giác ngộ được bằng trí tuệ bên trong của bản thân mình.

 

Đầu tiên là những năng lực thần thông (iddhi patihariya) bao gồm một số khả năng siêu phàmtrở thành nhiều người cùng một lúc, thường gọi là nhân đôi, nhân ba và khả năng đi xuyên qua tường, bay trên không trung và đi trên mặt nước, và thậm chí có thể lên thăm cõi trời Phạm Thiên. Thần thông này bị Đức Phật từ chối, vì nó giống như những huyền thuật Gandhari (Kiện-đà-lê). Điều kỳ diệu thứ hai là khả năng đọc tâm (adesana patihariya) của người khác, cũng không được Đức Phật tán đồng bởi vì nó có thể được hiểu nhầm là thông thuật được gọi là “viên ngọc của ý nghĩ” (cintamani) hay huyền thuật Manika. Đức Phật khuyến khích điều kỳ diệu thứ ba, đó là của sự Giáo huấn, Truyền dạy (anusasani patihariya) vì nó đưa đến sự tu dưỡng Giới Hạnh Đạo Đức, Chánh ĐịnhTrí Tuệ để cuối cùng dẫn đến diệt trừ những ô nhiễm (Asavakkhaya Nana) và sự giác ngộ Niết-bàn (Nibbana), chấm dứt đau khổ. Điều kỳ diệu lớn nhất chỉ có thể tồn tại trong khi có chân lý Phật Pháp (Buddha sasana).

 

 

 

 

2. Việc Truyền Dạy Giáo Pháp (Dhamma-desana)

 

Trong quyển Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasalini), định nghĩa về sự truyền đạt Giáo Pháp được ghi như sau:

 

“Từ mong muốn có được hay suy nghĩ rằng “Như vậy họ sẽ biết được ta là một người thuyết pháp”, một số người sẽ thuyết giảng bài pháp. Bài thuyết pháp đó không mang lại kết quả. Người đã thoát khỏi động cơ chính đó, không còn làm vì danh lợi, và giảng dạy Giáo Pháo mà mình đã thông thuộc - đó là căn bản của hành động công đức của việc truyền dạy”.

 

 

 

(a) Cách Thức Thanh TịnhĐúng Đắn Khi Truyền Dạy Giáo Pháp

Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta ii, 199), Đức Phật đã phân biệt 2 loại thầy (đạo sư) với 2 cách thức thuyết pháp, đó là:

 

  • Cách thức thuyết pháp không thanh tịnh và không đúng đắn, là tư cách của loại đạo sư với suy nghĩ là: “Mỗi người sẽ thỏa mãn với những lời ta dạy và sẽ vâng theo lời ta và sẽ ủng hộ ta”.

 

  • Cách thức thuyết pháp thanh tịnhđúng đắn, là tư cách của những người thầy với suy nghĩ là: “Sau khi họ nghe mình thuyết giảng, họ sẽ hiểu biếttrân trọng Giáo Pháp (Dhamma) và bắt đầu thực hành những giới hạnh, định tâmtrí tuệ theo con đường “Bát Chánh Đạo”, vì thế họ có khả năng được giải thoát khỏi đau khổ”. Vì vậy, những vị thầy này giảng dạy Giáo Pháp cho người khác vì Giáo Pháp dẫn đến sự giải thoát và bởi vì lòng bi mẫn của người thuyết giảng dành cho họ.

 

 

(b) Câu Chuyện về con Cá Vàng Với Hơi Thở Hôi Thối

 

Việc thuyết giảng để có được danh và được những thứ khác là hành động dẫn đến đau khổ như trong trường hợp thầy Tỳ kheo trong lịch sử tên là Kapila đã được nói đến trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada 334-337). Trong Phật kiếp của Đức Phật Kassapa (Ca-Diếp), có hai anh em đều trở thành Tỳ kheo. Người anh lớn thì lo tu tạo thiền hànhchứng ngộ thành một A-la-hán. Người em tên là Kapila miệt mài nghiên cứu Tam Tạng Kinh (Tipitaka) và trở thành một giảng sư thông thuộc kiến thức kinh điển và có rất nhiều đệ tửvì vậy cũng rất nhiều người cúng dường. Vì vậy Kapila trở nên rất tự phụ về kiến thức của mình đến nỗi vị ấy luôn tuyên bố lời nói của bất cứ ai là sai hay đúng, mặc dù sự thật thì những lời nói đó là ngược lại.

 

Nhiều Tỳ kheo tốt bụng đã nhắc nhở vị thầy đó nên trung thành và trích dẫn đúng trong Giáo PhápGiới Luật, nhưng vị thầy Kapila thì quá say sưa với kiến thức của mình, thậm chí còn quay lại chê bai và hạ nhục những vị Tỳ kheo đã có lòng nhắc nhở mình. Cứ theo cách này, vị thầy Kapila đã rơi vào con đường bất thiện và đã làm chậm trễ tiến trình truyền Pháp của Đức Phật Kassapa. Khi vị thầy đó chết, vị đó đã bị đọa xuống tận địa ngục A-tỳ (Avici) chịu đày đọađau khổ muôn kiếp. Và vì những tà pháp mà ông đã truyền giảng vẫn còn là nghiệp ác chưa trả hết, nên đến tận Phật kiếp này, ông sinh ra thành một con Cá Vàng sống trong sông Aciravati ở Savatthi (Xá-Vệ). Con cá vàng bị bắt và người ta đem đến trước Đức Phật (Thích Ca). Ngay khi con cá vàng mở miệng ra, một mùi hôi thối bốc lên làm tanh tưởi cả nơi đó. Lúc đó, Đức Phật đã kể lại về kiếp quá khứ của con cá là Tỳ kheo Kapila. Bởi vì, dù gì vị này cũng nghiên cứu và truyền dạy và tán dương đề tài là Phật pháp nên vị ấy còn được sắc vàng trên da mình, nhưng vị ấy giảng dạy không theo cách thức thanh tịnh đúng đắn, thậm chí còn phỉ báng những vị Tỳ kheo tốt nhắc nhở, nên bây giờ mở miệng ra là bay mùi hôi thối. Sau đó, con cá vàng chết lại tiếp tục bị tái sinh vào địa ngục A-tỳ.  

 

 

 

 

3. Việc Truyền Dạy Giáo Pháp bởi Những Phật Tử Cư Sĩ và Những Ích Lợi

 

Mặc dù những Phật tử tại gia không thông suốt Giáo Pháp bằng các tu sĩ, các sư thầy, nhưng các cư sĩ vẫn có thể giảng dạy Giáo Pháp cho những Phật Tử khác trong hay ngoài đạo tràng của mình, theo sự khuyến khích của Đức Phật được ghi chép lại trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara iv, 219). Và nếu thành công, người truyền dạy có thể làm cho những Phật tử khác hiểu biết Phật Pháp cùng trình độ hiểu biết mà mình có được.

 

  • Như vậy, khi một người có được Lòng Tin của mình vào Phật, Pháp, Tăng, người đó cũng có thể truyền tải lòng tin đó cho những người khác.
  • Khi một người cố giữ gìn được Giới Hạnh cho mình, thì người đó cũng có thể truyền dạy cho người khác việc tuân giữ giới hạnh đạo đức.

 

  • Khi một người chứng đạt được sự Giải Thoát cho mình, người ấy cũng có thể truyền dạy người khác tu tập để có được sự giải thoát tương tự.

 

  • Khi một người luôn mong ước chính mình gặp được thánh Tăng, mong ước được nghe Chánh Pháp; luôn giữ tâm của mình chánh niệm về Giáo Pháp (Dhamma); luôn giữ mình chánh niệm về Giáo Pháp mình đã nghe học được; quán chiếu những ý nghĩa của Giáo Pháp; hiểu biết về khía cạnh ngữ nghĩa và khía cạnh tâm linh đích thực của Giáo Pháp; và bước đi đúng theo con đường đó; và phấn đấu truyền tải lại cho những Phật tử khác, thì người cư sĩ đó đã làm tăng ích lợi cho bản thân mình cũng như ích lợi cho những người khác.

 

 

▪ Ích Lợi Của Việc Tuyền Dạy Giáo Pháp:

 

  • Trong cách thức đúng đắnthanh tịnh, một người mong muốn truyền dạy giáo pháp cho những người khác, thì bản thân mình thường xuyên thực hành giáo pháp (Dhamma) để thấy được lợi ích trước khi người đó thành thục để truyền dạy cho người khác. Bằng cách đó, người đó càng tiến bộ về mặt giáo pháp (Dhamma). Kết quả của hành động hay quá trình truyền dạy giáo pháp một cách thanh tịnhđúng đắn chính là sự thành công trong công việc chứng đạt trên con đường thánh Đạochứng đắc thánh đạo Quả, bởi vì Giáo Pháp (Dhamma) là nguyên nhân tạo ra quả “thành công”.
  • Trong tất cả những quà tặng, bố thí, thì sự truyền dạy, bố thí Pháp (Dhamma) là cao quý nhất. Vì vậy, những ai có những kiến thức, tiến bộ về giáo pháp (Dhamma) và cống hiến công sức và thời gian để truyền thụ lại cho những người lớn và trẻ em trong các trường học thì xứng đáng được khen ngợi là người truyền bá chánh pháp của Đức Phật, trong bối cảnh con người đang chìm ngập trong chủ nghĩa vật chấttà kiến. Những người thầy chịu khó như vậy sẽ được tôn trọng trong những cộng đồng Phật giáo.

 

 

 

 

4. Lắng Nghe Giáo Pháp

 

Quyển Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasalini) định nghĩa biết lắng nghe Giáo Pháp như sau:

 

“Những ai lắng nghe giáo pháp, và nghĩ rằng: “Vì việc nghe pháp này, họ sẽ cho rằng mình là một người sùng đạo”- thì không đem lại nhiều nhỏi kết quả gì. Người khác thì bằng sự nhẹ nhàng trong lòng, tràn đầy lòng thiện tốt, lắng nghe giáo pháp và nghĩ rằng: “Sẽ mang lại nhiều kết quả cho mình!”. Đây chính là lắng nghe Giáo Pháp”.

 

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara i, 129), Đức Phật mô tả ba loại người nghe Pháp, đó là:

 

  • Loại người nghe Pháp với tâm trí không tập trung, nghe mà chẳng hiểu gì, như nước đổ lá môn. Người đó cũng được so sánh như một cái bát úp lại, dù đổ bao nhiêu nước cũng chảy ra hết.

 

  • Loại nghe Pháp với tâm trí bị phân tán, tức là loại người nghe từ đầu đến cuối, cũng có thể hiểu, nhưng không bao giờ thèm nhớ một điều gì, bị phân tán. Như một đống đồ ăn để trên đùi chân, khi đứng dậy, tất cả đồ ăn đều đổ xuống đất hết, vì họ chẳng bao giờ chú tâm hay ghi nhớ điều gì.

 

  • Người lắng nghe Pháp với tâm trí hiểu biết, bao quát và chú tâm, và sau khi đứng dậy, người đó vẫn còn ghi nhớ những lời dạy của Giáo Pháp. Người đó được so sánh như một cái bát để ngửa, nước rớt vào không bị chảy ra.

 

 

 

Câu Chuyện Về Một Thiên Thần (deva) Bị Xao Lãng Trong Lúc Nghe Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật

 

Chú Tâm hoàn toàn khi lắng nghe Giáo Pháp (Dhamma) là điều kiện Tối Ưu cần thiết nếu một người muốn có được lợi lạc từ buổi nghe thuyết pháp. Điều này được minh họa trong Bài Thuyết Giảng của thiền sư Mahasi Sayadaw về Kinh Hemavata Sutta nói về một thiên thần tên là Satagiri. Khi Đức Phật đến khai giảng bài Thuyết Pháp Đầu TiênVườn Nai, Isipatana 2 tháng sau khi Người Giác Ngộ thành Phật, thì thiên thần Satagiri cũng có mặt cùng hàng triệu những thiên thần để nghe thuyết giảng. Nhưng thay vì lắng nghe Giáo Pháp, thiên thần này chỉ lo tìm bạn mình là thiên thần Hemavata từ trong số những người đến nghe bài Pháp. Sau khi kết thúc bài Pháp, ngài Kondanna (Kiều-Trần-Như) và hàng triệu thiên thầntrời Phạm Thiên đều chứng đắc thánh quả Nhập Lưu (Sotapanna), nhưng Satagiri thì không, vì đã xao lãng tâm trí vào việc khác.

 

Sau đó, thiên thần tìm gặp được bạn của mình là Hemavata ở bên trên thành Vương Xá (Rajagaha) và cả hai cùng nói chuyện về Đức Phật. Một cô gái tên là Kali, con của một thương nhân tình cờ nghe được câu chuyện của hai thiên thần và đã chú tâm lắng nghe thiên thần Satagiri đang nói về những đức hạnh của Đức Phật. Trong quá trình lắng nghe chăm chú này thì cô gái chứng đắc được quả nhập lưu (Sotapanna). Trong số những nữ Phật tử tại gia thời đó, Đức Phật gọi cô gái này là người trưởng nữ trong số những người chứng ngộ lòng tin bất thối chuyển đó, thậm chí khi lắng nghe người khác một cách chú tâm như vậy.

 

(Nếu đã là chân lý, đạo lý đúng đắn, thì nó được nói ra từ ai không quan trọng, nhưng quan trọng là ở người biết lắng nghe và hiểu biết. -ND).

 

Còn về hai thiên thần đó, họ cùng bay đến, cùng với những tùy tùng của họ, tôn kính Đức Phật lúc bấy giờ đang ngụ tại khu Rừng Uruvela. Ở đó, thiên thần đã đặt những câu hỏi xin Đức Phật giảng giải. Ngay sau khi lắng nghe Đức Phật giảng giải cả hai thiên thần cùng 1.000 người tùy tùng của họ đều chứng đắc thánh quả Nhập Lưu (Sotapannas).

 

 

 

 

5. Cách Thức Đúng Đắn Để Lắng Nghe Giảng Pháp & Lợi Ích

 

Cách thức để chú tâm khi nghe giảng giáo pháp được mô tả trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta ii, 220), nói về ngài Kassapa (Ca-Diếp), như sau:

 

  • Một bài thuyết pháp khi được giảng phải được lắng nghe sao cho người nghe có được ích lợi. Từ thái độ đúng đắn này thì người nghe mới chú tâm hoàn toàn đến những gì được thuyết giảng, và vì vậy không để sót một từ ngữ nào, để hiểu đúng, hiểu đầy đủ ý nghĩa của bài thuyết pháp. Người nghe nên chú tâm vào từng chữ của bài Giáo Pháp và những từ ngữ được nghe một cách đúng đắn này sẽ được áp dụng vào trong việc thực hành Giáo Pháp.

 

  • Bằng cách tập trung vào bài thuyết giảng, tâm của người sẽ trở nên tĩnh lặng và thấm nhuần vào bài thuyết giảng; người đó sẽ không còn bị bên ngoài tác động, và vì vậy, tâm được thanh tịnh. Kinh Điển đã ghi lại nhiều trường hợp thính giả trong lịch sử đã giác ngộ bằng cách chú tâm lắng nghe Đức Phật hay A-la-hán giảng giải Giáo Pháp.

 

  • Theo những luận giảng, những người vừa nghe xong một bài thuyết giảng giáo pháp chứng đắc được những tầng thánh Quả thứ nhất hay cao hơn không còn tồn tại trong thời mạt pháp này nữa. Tuy nhiên, mọi người đều nên chú tâm lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp từ những bậc thánh nhân, hiền trí một khi tự mình không thể lý giải hết ý nghĩa Giáo Pháp. Khi lắng nghe thuyết giảng như vậy, chúng ta có được kiến thức hay trí thông qua việc nghe học (Sutamaya Panna), còn gọi là Văn trí; trong khi đó kiến thức do tự mình tư duy, tự học, tự chứng thấy được gọi là kiến thức hay trí thông qua tư duy (Cintamaya Panna), còn gọi là Tư trí; Và kiến thức hay trí có được từ sự chứng ngộ bên trong, minh sát tuệ thông qua tu tập, hành thiền thì được gọi là trí do Thiền tập (Bhavanamaya Panna), còn gọi là Tu trí.

 

Kinh Hạnh Phúc hay Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) có ghi chép rằng: “Gần gũi người trí hiền, Là Phúc Lành Cao Nhất”, bởi vì khi chúng ta lắng nghe những bậc hiền trí, những thánh nhân giảng giải giáo pháp, chúng ta đạt được những trí tuệ từ họ. Và trí tuệ giác ngộ là phúc lành cao thượng nhất.

 

  • (Ba loại trí trên gọi tắt là Văn,, Tu. Hai loại trí đầu tiên còn được gọi là “trí hữu sư”, tức còn phải tùy thuộc vào người giảng giáo pháp và sự suy luận, hiểu biết thông qua giáo pháp như người thầy. Còn loại trí cuối cùng được gọi là “trí vô sư”, trí do tự mình tu tập, thiền tập mà có được, chứng ngộ được. ND).

 

  • Nói theo ngôn ngữ của thế gianthực tế cuộc sống, hai loại kiến thức hay trí đầu tiên là Cintamaya PannaSutamaya Panna thì hiển hiện rất nhiều. Tất cả những ngành nghệ thuật và khoa học mà chúng ta học ở các trường và các Đại Học chẳng hạn, kiến thức có được là do nghe học và đó là loại trí Sutamaya Panna. Nhiều ngành nghề đòi hỏi những nỗ lực, suy nghiệm hay năng khiếu cá nhân hay do tự bản thân mình nghiên cứu, chứ không phải do nghe học là làm được, thì thuộc về loại trí do tư duy của mình (Cintamaya Panna). Cho nên ngay cả trong đời sống thực tế, nếu bạn muốn có một kiến thức và một nghề nghiệp đàng hoàng để ổn định cuộc sống, thì hai thứ cần thiết phải có là phải chú tâm nghe học tự tư duy, nghiên cứu cho bản thân mình về một đề tài, một khoa học, một nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào đó. Việc tu tập cũng vậy, hai phẩm chất này rất quan trọng để trang bị những tri kiếntrí tuệ cần thiết trên con đường đi tìm trí tuệ minh sát thông qua việc hành thiền.

 

 

 

6. Chỉnh Lý Quan Điểm, Niềm Tin Của Mình – Chánh Tín (Ditthijukamma)

 

Củng cố quan điểm hay niềm tin của mình là một hành vi đạo đức nhằm sửa chửa, chỉnh đốn lại những quan điểm sai trái của mình để xác lập sự hiểu biết đúng đắn hay chánh tri kiến (samma-ditthi) về Mười Vấn Đề, Quy Luật Nghiệp (Kamma), Trí Tuệ Nhìn Thấu Suốt hay Trí Tuệ Minh Sát (Vipassana) và kiến thức xuất thế gian về Tứ Diệu Đế. (Xem thêm, phần “Chánh Tri Kiến” trong Chương III, “Bát Chánh Đạo”).

 

 

 

 

7. Những Dạng Tà Kiến (Miccha-ditthi)

 

Tà là nghiêng, là lệch, là không ngay thẳng. Tà kiến là những tri kiến, những quan điểm sai lầm, sai trái.(ND).

 

Trong Kinh Phạm Võng (Brahmajala Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), Đức Phật đã nêu ra 62 loại tà kiến, mà tất cả chúng đều có thể được xếp vào những dạng sau:

 

a) Niềm tin vào linh hồn bất biệt, một bản ngã trường tồn;

b) Sự lẫn tránh hay lươn lẹo;

c) Niềm tin vào những sự vật khởi sinh khôngnguyên nhân;

d) Niềm tin rằng những cảnh giới phúc lành, lạc cảnh tương ứng với những tầng thiền định (jhanic) là những cảnh giới hạnh phúc cao nhất.

 

Trong những loại tà kiến trên, Đức Phật nhấn mạnh 3 loại tà kiếncon người thường hay nắm giữ, và thường dẫn đến những cực đoan và họ trở thành những người mang quan điểm là hành động không tạo ra nghiệp quả, không có gì tạo nguyên nhân cho những sự việc khác, còn gọi là Vô Hành Kiến hay Vô nhân kiến (akiriya-ditthi). Những loại tà kiến đó là:

 

 

i) Quan Điểm Chỉ Tin Nguyên Nhân Tiền Định (Pubbekata-hetu ditthi)

Quan điểm này cho rằng tất cả những cảm thọ của chúng sinh trong kiếp này đều là do nhân và duyên của kiếp trước và chỉ tạo ra bởi duy nhất những hành động có ý chí (ý hành) trong kiếp quá khứ. Đây là dạng quan điểm chỉ tin vào Nghiệp của kiếp quá khứ mà thôi.

 

 

ii) Quan Điểm cho Nguyên Nhân là do Đấng Siêu Nhiên Hay Đấng Tạo Hóa (Issaranimma-hetu ditthi)

Quan điểm này cho rằng tất cả những cảm thọ của chúng sinh trong kiếp này đều là do một thế lực siêu nhiên hay một đấng tạo hóa tạo ra.

 

 

iii) Quan Điểm cho mọi Nguyên Nhân là do Ngẫu Nhiên (Ahetu-apaccaya ditthi)

Quan điểm này cho rằng tất cả những cảm thọ của chúng sinh trong kiếp này đều là do tự chúng khởi sinh một cách ngẫu nhiên, không có nguyên nhân hay điều kiện hay duyên nào tạo ra hết. Nên, quan điểm này còn được gọi là Vô Nhân Vô Duyên Luận.

 

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara i, 173), Đức Phật đã bác bỏ những tà kiến, lập luận trên như sau:

 

  • Có những người, do những hành vi ý chí (nghiệp) trong quá khứ của họ, sẽ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời vu khống, nói lời cay nghiệt, nói chuyện tầm phào, vô ích, tham lam, sân hận, và nắm giữ tà kiến. Đó là do họ không tin vào hiệu lực của những hành động hiện tại, hay Nghiệp hiện tại. Vì vậy, họ không có mong muốn (chanda) hay nỗ lực (viriya) để phân biệt những hành động nào nên làm và những hành động nào nên tránh. Đối với những người như vậy, không thể có được những niềm tin đúng đắn để dẫn đến chấm dứt ô nhiễm.

 

  • Cũng như vậy, những người tin vào Thượng Đế sáng tạo  hay những người tin thuyết mọi sự vật khởi sinh không có nhân và duyên sẽ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, v.v… Đó là do họ không tin vào hiệu lực của những hành động hiện tại hay Nghiệp hiện tại. Vì vậy, họ không có mong muốn (chanda) hay nỗ lực (viriya) để phân biệt những hành động nào nên làm và những hành động nào nên tránh. Đối với những người như vậy, không thể có được những niềm tin đúng đắn để dẫn đến chấm dứt ô nhiễm.

 

  • Trên thế gian này, chỉ có những việc như “nghe học từ những bậc hiền trí thuyết giảng” (Văn) và “xem xét hay tư duy một cách khôn khéo” (Tư) là những điều kiện để một người trở thành khôn ngoan và đức hạnh. Nếu 3 quan điểm [i), ii), iii)] cực đoan trên đây không chấp nhận những nguyên nhân hiện tại là đúng, vậy thì những việc như “nghe học từ những bậc hiền trí thuyết giảng” (Văn) và “xem xét hay tư duy một cách khôn khéo” (Tư) sẽ trở thành vô ích và không mang lại kết quả gì, bởi vì những loại người trên cho rằng “để trở thành một người khôn hay một kẻ ngu” chỉ đơn giản là do nghiệp quá khứ, hoặc do đấng tạo hóa, hoặc không do nhân duyên nào cả, chỉ là ngẫu nhiên. Tuy nhiên, chúng ta biết rõ những quan điểm cực đoan đó là sai trái.

 

 

 

 

8. Những Ích Lợi Của Việc Chỉnh Lý Quan Điểm Hay Củng Cố Chánh Tính

 

Bằng cách chỉnh lý quan điểm của mình, một người có được Chánh Tri Kiến, dẫn đến những cảnh giới phúc lành và Niết-bàn (Nibbana), trong khi đó những tà kiến thì dẫn dắt người đến những cảnh giới đau khổ. Cũng giống như những sự vật do duyên tạo ra (tức những pháp hữu vi), Chánh Kiến có được cũng do những nguyên nhânđiều kiện (duyên), đó là:

 

a) Sự lắng nghe (nghe học) một cách chú tâm những giáo lý, hướng dẫn và những pháp thoại về chân lý đúng với lẽ thật đó là “Tứ Diệu Đế”.

 

b) Sự chú tâm, chánh niệm một cách khôn khéo bằng cách quán chiếu hay xem xét những chân lý với lẽ thật trên đời:

i) Những thứ vô thườngvô thường.

ii) Khổ là khổ, không sung sướng, khoái lạc

iii) Vô ngã vô ngã, không có bản ngã nào

iv) Xấu là xấu, không phải là đẹp.

 

c) Ba (3) loại Chánh Tri Kiến phải được hiểu rõ, đó là:

i) Sự Hiểu Biết rõ về Mười Vấn Đề (Xem phần “Chánh Tri Kiến”, Chương III, “Bát Chánh Đạo”).

ii) Sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc về Quy Luật của Nghiệp (Kamma), đó là: “Mọi chúng sinh là chủ nhân của nghiệp của mình, tức là những hành động trong quá khứhiện tại, sẽ tạo ra những (nghiệp) quả tương ứng”.

iii) Sự hiểu biết đúng đắn về bản chất đích thực của những tiến trình vật chấttâm linh (danh sắc), quan hệ nhân & quả, Trí Tuệ Nhìn Thấu Suốt hay Trí Tuệ Minh Sát (Vipassana) và những kiến thức xuất thế gian của Tứ Diệu Đế.

 

Hai loại hiểu biết đầu có thể có được bằng cách nghe, học, nhưng loại hiểu biết cuối cùng chỉ được thông qua việc thực hành Thiền Minh Sát Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Vipassana). Về vấn đề Thiền Phật Giáo, là một phần quan trọng trong Nhóm Thiền (của Mười Căn bản của Hành Động Công Đức), sẽ được bàn luận trong Chương tiếp theo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

9. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

 

1) “The Expositor” (Chú Giải Bộ Pháp Tụ – “Atthasalini”), bản dịch của Pe Maung Tin, Hội Kinh Điển Pali (PTS), London.

 

2) “Câu Chuyện Về Con Cá Vàng Với Hơi Thở Hôi Thối”, trong “Buddhist Legend” (Giai Thoại Phật Giáo, Phần 3), tác giả Eugene Watson Burlingame, Hội Kinh Điển Pali (PTS), London.

 

3) “Bài Thuyết Giảng về Kinh Hemavata Sutta” của Thiền Sư Mahasi Sayadaw, Miến Điện.

 

4) “Sammaditthi Dipani” – “The Manual of Right Views” (Cẩm Nang về Chánh Tri Kiến), tác giả Đại Trưởng Lão Mahathera Ledi Sayadaw, Aggamahapandita.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12473)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10343)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11622)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28779)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52988)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35468)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21362)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10665)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26008)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13302)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13714)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17549)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11599)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11583)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14488)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20437)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18957)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18615)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12171)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13831)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14992)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13972)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11380)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17156)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14955)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20169)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14601)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13822)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11691)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15035)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22843)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14539)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11639)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13146)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15827)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12862)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18885)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18407)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant