Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 4: Kết Luận

10 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 6279)
Chương 4: Kết Luận

A HÀM
MƯA PHÁP CHUYỂN HÓA PHIỀN NÃO
Thích Nữ Giới Hương
(Trọn Bộ Hai Tập)
Nhà xuất bản Hồng Đức 2012

TẬP 2

Chương 4
Kết Luận

 

Vì lòng từ bi thương chúng sanh đau khổcõi ta bà, Đức Phật Thích Ca đã thuyết minh bốn bộ A-hàm như Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm gồm có 2.086 bài pháp thoại với một mục đích duy nhấtchỉ đường đi để cho chúng sanh chấm dứt đau khổ. Những giáo lý căn bản và những pháp số thường được đề cập trong bốn bộ A-hàm như Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát chánh đạo, Tam học, Bốn pháp ấn, Sáu cõi luân hồi, Mười hai nhân duyên, Nghiệp cảm luân hồi, Sanh tử, Niết bàn,Tứ thiền, Chín định, Tam minh, Ngũ ấm, Năm độn sử, Năm lợi sử vv… để chúng ta hiểu được đường lối của tội phước, chân ngụy, chánh tà để chúng ta tỉnh ra, biết tránh đường mê mà đi đường lành, thoát khổ luân hồi.

Trong A-hàm, Đức Phật nhấn mạnh về lý Tứ đếTứ niệm xứ. Đây là Khổ đế chúng ta phải biết, là Tập đế chúng ta phải diệt, là Diệt đế chúng ta sẽ đạt, là Đạo đế chúng ta phải thực hành. Chúng ta phải quan sát những nỗi khổ của sáu đạo chúng sanh như nỗi khổ của kiếp người, nỗi khổ của loài súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ, A-tu-la và cõi trời, để đừng tạo nghiệp sanh tử nữa và phát sanh trí tuệ về Tứ đế tức là trí tuệ của các bậc thánh biết nhân quả chắc chắc không sai chạy của thế gianxuất thế gian.

Tứ niệm xứ đứng đầu trong 37 Phẩm trợ đạo, chúng ta học A-hàm và thật ra A-hàm không có ra ngoài Tứ niệm xứ. Đức Phật giảng 2.086 bài pháp thoại và bao nhiêu pháp số phong phú chung quy chỉ là giảng Tứ niệm xứ cho chúng ta thôi. Tu Tứ niệm xứ tức hàng ngày chúng ta phải chuyên chú đem hết tinh thần vào các pháp quán thân, thọ, tâm, pháp là khổ, vô thường, vô ngã để chúng ta an định tinh thần lại, không rông rỡ bên ngoài nữa. Tinh thần A-hàm là tinh thần Tứ niệm xứ, nếu chúng ta không thật quán Tứ niệm xứ thì dù tu tập có lâu, chúng ta vẫn sâu kết phiền não, gồng gánh trọn đời, rồi lại lễ bái, cầu khẩn chư Phật, Thánh hiền tăng thương xót nhưng các ngài không thể cứu giúp cho nghiệp lực của chúng ta được. Tự chúng ta quán Tứ niệm xứ khai mở trí tuệ, có cái nhìn chân chánh, suy nghĩ tương ứng với chân lý thì mới có thể giải thoát vô minh. Ngoài ánh sáng trí tuệ này, không một thần lực nào khác có thể phá được bóng tối.

Đức Phật trình bày 2086 bài pháp thoại trong nhiều cách này cách kia nhưng thật ra cả bốn bộ A-hàm không ra ngoài Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứcon đường thanh tịnh để diệt tham ưu trong đời cho nên chúng ta phải quán tỉ mỉ thân, thọ, tâm, pháp để nhận chân nghĩa thâm thúy này. Đức Phật khuyên không nên học nhiều sách mà điều chủ yếu là chúng ta nên để tâm đi sâu nhận nghĩa thực sự của A-hàm, thực hành nơi mình thì chúng ta mới có bản kinh nơi tâm chúng ta, mới hưởng được tất cả các ý vị chân thật an vui từ kinh A-hàm.

Y theo căn bản mưa pháp A-hàm này thì mê nhiều kiếp liền tỉnh, tà chánh khó phân cũng được tỏ ngộ hiển nhiên như đêm ngày. Việc báo ứng tuy khó nhận nhưng chắc chắn sẽ xảy ra như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Số kiếp tựa xa vời mà gần kề với chúng ta như tối liền đến sáng, sáng liền đến tối. Sáu cõi bao la hiện ra trước mắt mà A-hàm này là ánh sáng vĩ đại cho đêm dài sanh tử. Kinh này ban mắt tuệ cho chúng ta, những người lạc lối không biết đường đi.

Hễ chúng ta đượm nhuần được mưa pháp A-hàm thì chúng ta sẽ giác tỉnhphân minh được thiện hạnh, tà hạnh, điều phải, điều trái, người hiền kẻ ngu, sáu đạo luân hồiquả vị giải thoát rõ ràng như ban ngày là thấy sáng, ban đêm thì thấy tối. Cho nên, việc thiết yếu là chúng ta phải quay về soi mình, phải biết, phải thấy chúng ta có những chỗ sai chỗ phải, chỗ hay chỗ dở, rồi sữa trị mình, làm chủ được mình, ấy là gốc của sự bình an và gốc của các bậc hiền thánh quân tử. Các bậc hiền nhân quân tử đã làm những việc lành, giữ tâm mình trong sáng, không theo đường mê, sống nương tựa vào mình, không bận lòng đến cảnh bên ngoài, cho nên thành công trong sự nghiệp tu hành tốt đẹp của mình.

Vui khổ là động cơ sinh hoạt của loài người, chẳng những loài người mà tất cả muôn loài. Tất cả sáu đạo chúng sanh đều lấy khổ vui làm động cơ. Ai cũng lo tránh khổ, ai cũng mong cầu sự an vui. Vì vậy, trong A-hàm Đức Phật dạy chúng ta phải quán tỉ mĩ để làm chủ hai sự khổ vui này. Chúng ta đừng để cho khổ vui chi phối, làm chủ được tức là làm chủ được đời sống của mình; còn nếu chúng ta để cho hai sự khổ vui này chi phối thì chúng ta mất quyền tự chủ, chúng ta sẽ như người sống vật vờ để cho ngoại cảnh kiểm soát. Rất nhiều phương pháp tu trong A-hàm như Tứ niệm xứ, Thất giác chi, Bát chánh đạo, Tứ Chánh cần, Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo, Tứ pháp ấn, Tam lậu học, vv… đều dạy chúng ta phải quay về mình, học ngay mình để làm thế nào cho chúng ta đỡ khổ và được an vui. Không những khổ, vui trong hiện tại mà còn tránh những nguy kịch trong tương lai và hưởng sự an vui vĩnh viễn. Người giác tỉnh thì đêm ngày thận trọng trọn vẹn hướng tâm về đạo pháp không để khổ vui chi phối, cho nên A-hàm chính là liều thuốc, là mưa pháp bớt khổ đem vui. Thế gian ai cũng đều mong cầu thoát khổ được vui, tất cả tôn giáo cũng hướng về việc ấy và Đức Phật cũng chỉ có một mục đích duy nhất là chỉ cho chúng ta cơn mưa pháp A-hàm thanh lương để rửa sạch những bụi trần đau khổ này đi. Kinh dạy:

Thân người khó được

Phật pháp khó nghe

Một phen mất thân người

Muôn đời khó trở lại.

Như rùa mù tìm bộng cây trong bể cả

Làm thân người sáu căn đầy đủ là khó

Được gặp Tam bảo lại càng khó hơn.

Chúng ta có phước được theo học Phật nên chúng ta đỡ khổ vô cùng. Còn nếu không được học Phật thì chúng ta sẽ khổ mà khổ vô ích, vô lý và uổng phí thời gian một kiếp người. Đức Phật khuyên chúng ta để ý, đừng sống một cách bừa bãi, xô bồ hư vọng. Bây giờ chỉ cần dừng tâm lại, tỉnh ra một chút là nhận ngay, thấy những sự khổ, không, vô ngã, vô thường này để đỡ khổ một cách vô ích mà đỡ phí thời gian, luống sống một trăm năm đi qua mà rốt cuộc chẳng được giác tỉnh tí nào.

 Đức Phật từ bi nhắc chúng ta cách đây đã 2.600 năm rồi và bây giờ vẫn còn nhắc nhỡ nữa tức chứng tỏ chúng ta vẫn còn mê. Chúng ta khổ vì chúng ta không biết sự thật, không chịu để ý nhận ra sự thật vô ngã, vô thường, khổ, không ở cuộc đời này. Nếu không được gặp Phật, không được học kinh sách, mê muội tối tăm thì về sau đi về làm loài súc sanh như chó, mèo, gà, vịt rồi đời sống cứ thế ngàn vạn năm ở trong sự tối tăm, ở trong sự xấu xa độc ác, như thế đáng sợ biết ngần nào. Thế cho nên chúng ta được ở chỗ Phật pháp tăng là chỗ rất tốt, rất lợi, không có lợi nào khác tốt hơn nữa.

Nhờ nhiều kiếp sâu trồng căn lành, nên đời nay chúng ta được dự trong hàng đệ tử Phật, được sống trong ngôi nhà chánh pháp, lại được thọ học kinh A-hàm và phương pháp thiền quán Tứ niệm xứ, soi hơi thở, giác tỉnh trở về mình để thoát sáu nẽo luân hồi mênh mông. Đây là những thắng duyên diễm phúc khó gặp mà dễ qua; hãy nắm lấy những cơ hội hiếm có này để giải thoát. Những lời Phật dạy trong bốn bộ A-hàm như những thánh ngôn, những kim chỉ nam giữa thế gian, như kho tàng pháp bảo vô giá khó tìm, còn chúng ta như những người đứng ngoài cổng bị những đau khổ nghèo đói của cuộc đời làm điêu đứng, bị tám khổ (sanh, già, bịnh, chết, ghét phải gặp, yêu phải xa, cầu không được như ýngũ ấm xí thịnh) chi phối.

Chúng ta vẫn khổ vì sanh già bịnh chết và vì nghèo nàn phước báo, trí tuệ. Nghiệp thức mơ màng, ngoại cảnh khổ vui chi phối, vọng tình chưa hết, làm sao ra khỏi luân hồi. Những tập khí tham sân si mạn nghi tà kiến, những thói quen buông lung phóng túng của tám vạn bốn ngàn phiền não từ vô thủy đến bây giờ đang chi phối chúng ta rất mạnh. Đó là những đường luân hồiĐức Phật muốn chúng ta phải ra khỏi. Chúng sanh trong sáu đạo chỉ có cõi trờicõi người là tạm đỡ khổ, có khả năng tu đạo xuất thế, cho nên Phật dạy giữ năm giới để bảo vệ, trở lại thân người thuộc nhân thừa; dạy thập thiện, bốn định, bốn vô lượng tâm để được lên cõi trời thuộc thiên thừa mà cũng là nấc thang xuất thế.

 Bây giờ chúng ta phải quay về, sáng suốt tu tập thì ngày mai mới ra khỏi được luân hồi sanh tử. Khi chúng ta dứt khoát lìa thì sợi dây si mê này phải đứt, các thứ tham sân si mạn phải chìm xuống, cho nên gọi là mưa pháp A-hàm để rửa sạch những trói buộc, gở những nút kết thì chúng ta sẽ được thoát, được bình yên, trong sáng, sạch sẽ. Phải thực hành những gì đã học ở A-hàm, phải chí nguyện tha thiết, công hạnh chuyên cần thì sẽ đạt được kết quả như vậy.

Mục đích của 8 chương trong 2 tập sách ‘A-hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não’ là tóm gọn lại hành trình đường đi từ phàm phu lên ngôi vị hiền thánh. Chúng ta niệm tâm từ để diệt trừ sự ác độc, niệm tâm bi để diệt trừ sự tàn nhẫn, niệm tâm hỷ để diệt trừ sự phiền hận và niệm tâm xả để diệt trừ sự thù oán. Chúng ta quán bất tịnh để tiêu ba độc tham sân si, quán vô thường để giải thoát ngã mạn tự ái, quán hơi thở để điều hòa cả thân và tâm. Chúng ta chuyển hóa những tham sân si mạn nghi mà tu tập tâm từ bi hỉ xả, vô lượng vị tha thì hiện đời ai cũng kính nễ, quý mến chúng tachúng ta sẽ đổi ngay cảnh đọa lạc hiện tại thành cõi trời sắc giới rực rỡ tưng bừng, sung sướng an vui, sống lâu cả ngàn vạn kiếp.

Chúng ta chỉ cần chuyển hóa những ngũ ấm, ngũ uẩn, mười kiết sử vi tế, triền cái trói buộc thành tứ thiền, chín định, tam minh thì chúng ta nhẹ nhàng ra khỏi sáu cõi trầm luân và ra khỏi cả cõi trời sắc giớivô sắc giới, từ nay tự tại giải thoát du hóa muôn phương. Như vậy chỉ đổi tâm niệm mà có thể đổi hẳn cả một cuộc đời, một cảnh giới mà không phải một cuộc đờimãi mãi nhiều cuộc đời về sau. Chỉ cần chuyển hóa tâm niệm của chúng ta một chút mà đổi hẳn cảnh giới cả ngàn vạn kiếp vị lai, như vậy, mưa pháp A-hàm thật là thanh lương vi diệu, thật là tịnh tất cả lậu. Học A-hàm, thực hành chuyên cần, chuyển hóa phiền não như thế thì chúng ta sẽ có con đường giải thoát đi ra thì chúng ta sẽ liễu đạt được đại sự. Có sáng được việc lớn này thì chúng ta mới đáp ứng được bản hoài độ sanh của Phật tổ, mới xứng đáng là người con Phật. Có sáng được chân ý nghĩa của A-hàm thì đạo Phật sẽ trở thành vô vàn ý nghĩa giữa thế gian này.

Đức Phật Thích Ca là bậc thế gian giải, nghĩa là có trí tuệ biết tất cả các pháp của thế gian và ngài đã ra khỏi cảnh thế gian. Thế cho nên bây giờ ngài dạy chúng ta về việc thế gian thì nhất nhất ngài phải nói những lời chân thật, vậy chúng ta nên một lòng tin bất động với ngôi Tam bảo, Phật pháp tăng. Chúng ta theo gót Đức vô thượng sư tức là đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta cố gắng sống viễn ly tịch tĩnh, trong tự mình tỉnh ra và mượn ánh sáng giác tỉnh của ngài, của A-hàm mà tự soi sáng, tự tỉnh dậy, cùng nhau lên bờ kia giải thoát. Cứ như thế, chúng ta tinh tấn gạt cho sạch những vô minh thì lúc bấy giờ minh hiện lên. Khi minh hiện thì có trí tuệcông năng thật của tâm chúng ta mới hiển lộ.

Đạo là con đường, Phật là sáng suốt. Nhờ Đức Phật nói những con đường tâm linh sáng suốt mà ngài đã chứng nghiệm, rồi trong nhiều thế kỷ qua chư Tổ thực hành thấy hiệu nghiệm nên tiếp nối truyền lại, cho đến ngày nay chúng ta mới được tiếp nhận tu học theo. Thế là Đức Phật vạch một con đường cho chúng ta đi, con đường sáng suốt, con đường đi vào trí tuệ cho nên gọi là Đạo Phật. Chúng ta khổ vì không biết sự thật, chúng ta không chịu để ý nhận ra sự thật. Sự si mê của chúng ta che lấp trí tuệ khiến cho chúng ta không thấy được sự thật. Nhờ học A-hàm, chúng ta mới biết mình còn mê và mê ở chỗ nào để mà gỡ. Cho nên, A-hàm đã chỉ ra một con đường, con đường từ mê đến tỉnh, từ khổ đến an vui, từ phàm phu lên hiền thánh, rồi chúng ta mới một lòng đi con đường này để hiển lộ đạo. Vì thế, chúng ta phải phát tâm học và hành theo A-hàm. Đây là những gì Đức Phật thuyết giảng sau khi ngài giác ngộ dưới cội cây Bồ-đề, bên dòng sông Ni-liên, Ấn độ.

 Mưa pháp A-hàm là những gì như Tổ Thiên Thai nói là Đức Phật thuyết giảng trong 12 năm đầu trong sự nghiệp thuyết pháp lợi sanh của ngài. Chính mưa pháp A-hàm tưới mát bình đẳng cho muôn loài vạn vật, không phân biệt chủng loại, tôn giáo, giới tính, hay già trẻ này mới đáp ứng được tất cả những nhu cầu tâm linh và những hướng dẫn tu tập căn bản để chúng ta rửa sạch để không còn một vết gì trong đường sanh già bịnh chết, ra khỏi luân hồi, xa lìa phàm phu và cất bước đi lên nấc thang thánh vị. Phải khai thác trí tuệ của mình thì mới gọi là người theo đạo Phật. Còn cứ nhắm mắt ai nói sao chúng ta làm vậy thì không phải là đạo Phật. Lối học kiểu ấy không phải là học Phật. Phải theo những phương pháp trong A-hàm để chúng ta làm hiền làm thánh. Chúng ta sống với vọng tưởng nên khổ nạn triền miên, nghiệp báo trói buộc chúng ta trong vạn nẻo luân hồi, tưởng như không có cách nào thoát khỏi. Nào ngờ mưa pháp A-hàm vừa ban xuống thì bụi mê muội vụt tan biến, không còn dấu vết.

Xưa kia chúng ta mỗi người, mỗi con đường lang thang trong sáu đạo như cây thiếu nước khiến khô héo và đang chết dần chết mòn. Nay nhờ mưa pháp A-hàm tưới nhuần thấm đẫm đến tận gốc rễ khiến các cây cối không cằn cỗi nữa mà sum suê, tươi tốt vươn thẳng lên trời cao cùng mây xanh gió mát, đứng hùng dũng reo vui cùng với núi sông. Những chiếc lá vui sướng reo mừng chào đón pháp vũ A-hàm. Mưa càng nhiều thì càng tốt bởi lẽ nếu không có mưa pháp đan dệt tưới mát thì làm sao có cây xanh trái tốt đơm hoa kết nụ tỏa hương trang nghiêm lợi ích thế gian. Chúng ta từ mười phương, mười hướng nhưng chung một tấm lòng cùng nhau năm vóc sát đất quỳ mọp đãnh lễ tri ân Đức Phật đã thương tưởng ban bố mưa pháp A hàm - cái phao giải thoát này - cho chúng ta. Lời không thể nói ra hết, chữ không thể viết xuống hết nổi lòng biết ân và tri ân của chúng ta đối với Tam bảo.

Cỗi cành tươi tốt vì đã thấm nhuần mưa pháp

Thể chất thanh cao nhờ cậy mây từ che phủ

Hương này lấy ở rừng thiền

Trồng trong tuệ uyển thiên nhiên ngọt ngào.

 

Giáo giới góp thành núi cao

Đốt lò tâm nguyện kính dâng cúng dường

Hoa xanh nở màu tốt tươi

Mùi thơm sực nức hoa trời kém xa.

 

Kính Phật con dâng đoá hoa

Muôn thu gió nghiệp chẳng hề động lay.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh.


 

MỤC LỤC CHI TIẾT

Mục Lục Chương 1

NHỮNG LỜI PHẬT DẠY TRONG TẠP A HÀM

  1. A la hán
  2. Ác khẩu
  3. Ai bố thí nhiều nhất
  4. Ái hỷ là sắc
  5. Ái kết
  6. Ái kết không dứt
  7. Ái lìa vì như ung nhọt
  8. A-la-hán tỳ kheo
  9. An trú không quên
  10. An trụ tịch diệt
  11. Ăn uống chừng mực
  12. An vui là Niết-bàn
  13. A-na-hàm và A-la-hán
  14. A-na-luật bịnh
  15. Ánh sáng ban đầu
  16. Ánh sánh của Phật là hơn hết
  17. Ba hạng người tự làm khổ chính mình
  18. Ba hạng thích hưởng dục lạc
  19. Ba hương thơm
  20. Ba kiến
  21. Ba lậu
  22. Ba loại đựng nước
  23. Ba pháp an tâm đối với người bệnh
  24. Ba pháp chưa đoạn
  25. Ba pháp không yêu thích
  26. Ba thời vô thường 
  27. Ba thứ sợ hãi của người con mất mẹ
  28. Ba Tôn sư
  29. Bàn tay sạch
  30. Bất hại
  31. Bất thiện như trăng cuối tháng
  32. Bảy đứa con bị chết
  33. Bảy thân
  34. Bảy thọ
  35. Bị sân giận thì chớ lấy sân giận đáp lại
  36. Bị ma chi phối
  37. Biên tế của hữu thân
  38. Biên tế của khổ
  39. Biên tế diệt tận hữu thân
  40. Biên tế tập khởi của hữu thân
  41. Biến tri
  42. Biết đủ
  43. Biết như thật về tưởng
  44. Biết về sắc
  45. Bốn bất hoại tịnh
  46. Bốn hạng người trong chánh pháp
  47. Bốn loại thức ăn
  48. Bốn loại thức ăn an lạc
  49. Bốn lực của ngựa tốt
  50. Bốn niệm xứ
  51. Bốn pháp giúp người tại gia lợi ích hiện tại
  52. Bốn pháp lợi ích đời sau
  53. Bỏn sẻn
  54. Bốn thủ
  55. Búi tóc
  56. Buông bỏ sẽ được an vui lâu dài
  57. Cái gì khó trong đạo hiền thánh?
  58. Cái gì số lượng nhiều?
  59. Cảm thọ tịch tĩnh
  60. Căn định
  61. Căn niệm
  62. Căn tín
  63. Căn tinh tấn
  64. Căn tuệ
  65. Cành nhánh lá vô thường
  66. Cắt dòng
  67. Cắt đứt dòng ma
  68. Cây đàn
  69. Cây ngả hướng nào?
  70. Cha mẹ nhiều như số thẻ tre
  71. Chánh niệm
  72. Chánh quán sát
  73. Chánh tư duy
  74. Chánh tuệ
  75. Chấp pháp mất
  76. Chết
  77. Cho là ta thấy ta biết
  78. Chỗ sai khác giữa phàm phu và người trí
  79. Chớ sợ hãi
  80. Chớ xem thường bốn thứ
  81. Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng
  82. Chúng sanh
  83. Chứng Tu-đà-hoàn
  84. Chuyên cần tu tập
  85. Chuyện rắn độc
  86. Chuyển vần theo sắc
  87. Có cái này mới có cái kia
  88. Có sanh nên có trói buộc 
  89. Cõi trời sáu xúc nhập xứ
  90. Con đường đưa đến diệt tận hành
  91. Con đường đưa đến diệt tận sắc
  92. Con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân
  93. Con đường đưa đến sự diệt tận của thức
  94. Công đức tăng trưởng
  95. Của cải năm nhà
  96. Cứu cánh giải thoát
  97. Cứu cánh khổ biên
  98. Cứu lửa cháy trên đầu
  99. Đại hại
  100. Đại thọ
  101. Đại trượng phu
  102. Đắm nhiễm sắc sanh sắc vị lai
  103. Đẳng chánh giác là đệ nhất
  104. Đẳng giác gọi là Phật
  105. Dáng nằm sư tử
  106. Đạo lộ dứt ba thọ
  107. Đạt Bát-niết-bàn khi bị bò đá
  108. Đất trên móng tay
  109. Dấu chân voi
  110. Đãy da thịt của thân thể
  111. Dây leo rừng rậm
  112. Đệ nhất nghĩa không
  113. Đệ tử của người đồ tể
  114. Đêm dài không lo lắng
  115. Đến bờ kia
  116. Địa ngục sáu xúc nhập xứ
  117. Diệt tận của hành
  118. Diệt tận của thức
  119. Diệt tận hữu thân
  120. Diệt tận hữu thân và khổ 
  121. Điều phục trượng phu
  122. Do chấp thủ nên đắm trước
  123. Do nhân duyên gì mà gọi là năm ấm?
  124. Do phong trệ mà không giải thoát
  125. Đồ tể giết trâu
  126. Đoạn hữu lậu
  127. Đoạn tuyệt dâm dục
  128. Độc nhất trụ
  129. Độc trụ
  130. Độn căn
  131. Dục
  132. Dục ái triền cái
  133. Dục ái, sắc ái, vô sắc ái
  134. Dục định
  135. Dục đoạn, sắc đoạn
  136. Dục nào hơn cả
  137. Đức Phật
  138. Đức Phật cày ruộng
  139. Dục tham đoạn trừ
  140. Dục tham kết buộc
  141. Dục thiêu đốt
  142. Dục tưởng
  143. Được giàu sang
  144. Được mười điều lợi ở cõi người và trời
  145. Dưới cội bồ đề
  146. Đường đi
  147. Đường đi của phàm phu
  148. Dứt các điều ác
  149. Dứt kiêu mạn
  150. Dứt mọi hồ nghi
  151. Duyên tự tâmgiác ngộ 
  152. Gánh nặng
  153. Già chết bức bách
  154. Giã lúa
  155. Giác tri
  156. Giải thoát khỏi thủ
  157. Giải thoát tịnh đoạn
  158. Giới hương
  159. Giới thanh tịnh
  160. Giữ luật nghi của mắt
  161. Hai chỗ đoan nghiêm
  162. Hai con đường
  163. Hàng phục ma oán
  164. Hành thọ ấm
  165. Hành vốn không chắc như bẹ chuối
  166. Hảo tâm cúng dường
  167. Hạt giống đắng
  168. Hãy dứt ái dục
  169. Hệ phược 
  170. Hiển hiện như thật
  171. Hiện hữu của thức
  172. Hiếu kính cha mẹ
  173. Hộ nhãn căn
  174. Hộ nhĩ căn
  175. Hộ thân căn
  176. Hộ tỵ căn
  177. Hoa sen không dính nước
  178. Hơn thua đều không yên
  179. Huệ thí
  180. Hướng đến diệt tận
  181. Hữu học lậu tận
  182. Hữu lưuhữu lưu diệt
  183. Hỷ giác chi
  184. Keo kiệt
  185. Kết quả khi nghe pháp
  186. Khai thị vô thường
  187. Khắp thí
  188. Khéo điều phục
  189. Khéo thể nhập
  190. Khéo thuyết pháp
  191. Khó dò
  192. Khổ-tập-tận-đạo
  193. Khổ vì bịnh
  194. Khổ vô lượng
  195. Không ai không chết
  196. Không buông lung
  197. Không chấp hình tướng xấu
  198. Không chấp thủ mong cầu
  199. Không có gì chấp trước
  200. Không còn đời khác
  201. Không để thất niệm
  202. Không khủng bố chúng sanh
  203. Không ngã mạn
  204. Không rời khỏi sắc
  205. Không rơi vào đường ác
  206. Không sanh nên không trói buộc
  207. Không sanh nhiễm trước
  208. Không tham lam
  209. Không tham luyến ngũ dục
  210. Không thủ thì không đắm
  211. Không tri không kiến
  212. Không ưa thích
  213. Không, vô tướng, vô sở hữu
  214. Kiếm bén
  215. Kiên cố chịu đựng
  216. Kiến tịnh đoạn
  217. Kiếp hoại
  218. Kiếp số nhiều như hạt cải
  219. Kiếp trước của vua A-dục
  220. Kiết sử trói buộc
  221. Kiêu mạn
  222. Kinh sáu ái thân
  223. Lậu tận 
  224. Lậu và vô lậu
  225. Lấy dù che đèn
  226. Loại người từ sáng vào sáng
  227. Loại người từ sáng vào tối
  228. Loại người từ tối vào sáng
  229. Loại người từ tối vào tối
  230. Lời chân chánh
  231. Lòng tín
  232. Lùa bò khỏe qua dòng nước
  233. Lùa bò yếu ở cuối dòng nước
  234. Lùa nghé qua sông
  235. Luận thuyết
  236. Luật nghibất luật nghi
  237. Lực định
  238. Lưới ái
  239. Lưu
  240. Luyện vàng
  241. Ly dục tham
  242. Ly dục thì giải thoát
  243. Ly hỉ tham
  244. Ma nữ
  245. Mặc tĩnh các căn
  246. Mê ngủ
  247. Minh
  248. Minh khởi
  249. Minh sư
  250. Móc câu của ma
  251. Mong manh dễ vỡ 
  252. Một ngày ở cõi trời Hóa-lạc và nhân gian
  253. Mười một điều của người chăn bò
  254. Mười sáu pháp thành tựu
  255. Mười tịnh nghiệp
  256. Năm ấm lấy gì làm gốc?
  257. Năm công năng của dục
  258. Năm điều khiến chánh pháp không hoại
  259. Năm dục quá khứ
  260. Năm loại hạt giống
  261. Năm pháp lợi ích
  262. Năm thọ ấm vô ngã, không có gì để đắm trước
  263. Ngã chánh đoạn
  264. Ngã mạn
  265. Ngã ngã sở
  266. Ngã tận
  267. Ngày đêm đổi dời
  268. Ngày trai giới
  269. Nghe pháp để giải thoát
  270. Nghèo nhưng tín tâm đối với Tam bảo
  271. Nghi ngờ triền cái
  272. Nghiệp đạo
  273. Ngộ lạc Niết-bàn 
  274. Ngoại đạo khâm phục Thế-tôn
  275. Ngũ trược
  276. Người có minh 
  277. Người đang gánh nặng
  278. Nguyên nhân khiến tiền của được tích tụ
  279. Nhàm chán ngủ uẩn 
  280. Nhàm chán xa lìa vô minh
  281. Nhân duyên lẫn nhau
  282. Nhanh nhẹn, đủ sắc và hình tướng
  283. Nhất tâm
  284. Nhất thừa đạo
  285. Nhị thiền
  286. Nhiếp tâm
  287. Như-lai biết như thật
  288. Niệm giác phần 
  289. Niết-bàn
  290. Niết-bàn trong hiện tại
  291. Niết-bàn vắng lặng
  292. Nơi an lạc
  293. Nơi chứng quả
  294. Nói dối
  295. Nước sông 
  296. Nương tựa chính mình
  297. Nương uế tạp dứt uế tạp
  298. Phàm phu bị trói buộc
  299. Pháp an lạc
  300. Pháp cam lồ
  301. Pháp chết
  302. Pháp hoại và bất hoại 
  303. Pháp khổ não
  304. Pháp không bị đốt cháy
  305. Pháp không có chung cùng
  306. Pháp sanh diệt
  307. Pháp sư
  308. Pháp thế gian ở trong thế gian
  309. Pháp thoại chói sáng
  310. Phật
  311. Phong
  312. Phước lợi từ sự nghe pháp thoại
  313. Qua bờ kia
  314. Qua dòng sâu
  315. Quá khứ đương đoạn 
  316. Quá khứ và tương lai
  317. Quả từ năm căn
  318. Quán
  319. Quan điểm về thế giới 
  320. Quán sát nữ nhân
  321. Quy y Tam-bảo
  322. Quyến thuộc lẫn nhau
  323. Rơi vào bẫy ma
  324. Ruộng phước của thế gian
  325. Ruộng phước nào lớn
  326. Sắc bịnh, khổ sanh
  327. Sắc hệ lụy
  328. Sắc khởi, khổ khởi
  329. Sắc là gai nhọn làm tổn thương
  330. Sắc là khổ
  331. Sắc là pháp biến dịch
  332. Sắc là vọng tưởng 
  333. Sắc như giọt nước
  334. Sắc thân Như-lai
  335. Sắc thị ngã
  336. Sắc thọ ấm
  337. Sắc, lực và nhanh nhẹn
  338. Sám hối
  339. Sân nhuế triền cái
  340. Sanh cõi lành
  341. Sanh cõi trời
  342. Sanh hỷ 
  343. Sanh tử định lượng
  344. Sanh tử lưu chuyển
  345. Sanh tử từ vô thủy
  346. Sanh về đâu?
  347. Sát sanh
  348. Sáu căn không điều phục
  349. Sáu căn là biển cả của con người
  350. Sáu căn mỏng mãnh như cây chuối
  351. Sáu hỷ hành
  352. Sáu loài chúng sanh
  353. Sáu thắng nhập xứ
  354. Sáu thứ che đậy
  355. Sáu thứ luyến nhớ
  356. Sáu thường hành
  357. Sáu xả hành
  358. Số cát nhiều như cha mẹ của chúng ta
  359. Sơ thiền
  360. Sống cung kính
  361. Sống đơn độc một mình
  362. Sống ở đời nhờ bốn loại thức ăn
  363. Sử
  364. Sự khác biệt giữa Như-lai và A-la-hán
  365. Sự nghỉ ngơi tối thượng
  366. Sự tai hại của sắc
  367. Sự tập khởi của sắc
  368. Sự xuất ly của sắc
  369. Tà hạnh
  370. Ta là Phật
  371. Tác giáo
  372. Tai hại của hành
  373. Tai hại của thức
  374. Tài lợi
  375. Tám đức của bậc hiền sĩ
  376. Tâm giải thoát
  377. Tam giới
  378. Tâm lìa điên đảo
  379. Tám lỗi như con ngựa dữ
  380. Tâm não nên chúng sanh não
  381. Tâm như cùi hủi
  382. Tàm quý
  383. Tam thiền
  384. Tâm thức chuyển dịch xe
  385. Tâm tịnh đoạn
  386. Tâm tĩnh lặng 
  387. Tâm ý như khỉ
  388. Tận dục ái hỷ
  389. Tán thán Như-lai
  390. Tạo nghiệp
  391. Tập cận ái
  392. Tập khởi của già chết
  393. Tập khởi của hành
  394. Tập khởi của hữu thân và khổ
  395. Tập khởi của thức
  396. Tất cả dục cần phải đoạn trừ
  397. Tha-hóa-tự-tại thiên và cõi người
  398. Thà hủy thân chứ không buông lung
  399. Tham sân si 
  400. Tham ưu thế gian không lọt vào tâm
  401. Thân bị bịnh khổtâm không bị bịnh khổ 
  402. Thần lực
  403. Thân quán trụ
  404. Thắng xuất
  405. Thanh lương
  406. Thanh lương bậc thượng
  407. Thánh pháp ấn
  408. Thành quách trên cát
  409. Thành tựu một pháp
  410. Thế gian là gì?
  411. Thế gian trống không 
  412. Thí cam lồ
  413. Thị hiện giáo giới
  414. Thị hiện tha tâm thông
  415. Thị hiện thần túc thông
  416. Thiền định tư duy
  417. Thiện như trăng đầu tháng
  418. Thiện tri thức
  419. Thiền tư
  420. Thiện và ác hạnh
  421. Thọ như bong bóng
  422. Thọ thọ ấm
  423. Thoái chuyển và không thoái chuyển
  424. Thoát biên tế của khổ
  425. Thoát khỏi sợ hãi về sanh già bịnh chết
  426. Thoát lưới ma
  427. Thoát năm dục
  428. Thời gian khác nhau giữa cõi trời Đâu-suấtcõi người
  429. Thủ
  430. Thủ gánh nặng
  431. Thú vui
  432. Thức ăn của năm triền cái
  433. Thức ăn của Thất giác chi
  434. Thức không chỗ trụ
  435. Thức như ảo hóa
  436. Thức thọ ấm
  437. Thương yêu mình
  438. Thùy miên triền cái
  439. Tiền tài
  440. Tìm cầu đã qua rồi
  441. Tín căn
  442. Tín lực 
  443. Tín tâm tu tập 
  444. Tinh cần tư duy
  445. Tịnh tín
  446. Tộc bản
  447. Tôn trọng giới hạnh
  448. Tôn ty trật tự
  449. Trái am-la rơi rụng
  450. Trăng mới mọc
  451. Trăng trong sáng
  452. Trạo hối triền cái
  453. Trí
  454. Trí giả 
  455. Trí quả
  456. Trói buộc của sử
  457. Trói buộc vào sắc
  458. Trộm cắp
  459. Trừ hạ phần kết sử
  460. Tu chánh kiến
  461. Tư duy ba tướng
  462. Tử hậu đoạn hoại
  463. Tử ma
  464. Tu phạm hạnh 
  465. Tứ phẩm pháp
  466. Tự phòng hộ
  467. Từ tâm với chim xí điểu
  468. Tu tập có thể phá tan tất cả
  469. Tứ thiền
  470. Tưởng như sóng nắng
  471. Tưởng thọ ấm
  472. Tưởng vô thường, vô ngã
  473. Tướng xấu
  474. Tùy thuận quán vô thường
  475. Vãng sanh
  476. mục đích Niết-bàn
  477. Vị ngọt của hành
  478. Vị ngọt của sắc
  479. Vị ngọt của sắc
  480. Vị ngọt của thức
  481. Vì tham mà chết
  482. vô thường nên có bịnh
  483. Vô lực 
  484. Vô minh
  485. Vô ngã, vô ngã sở
  486. Vô nhân vô duyên
  487. Vô sự
  488. Vô thường nên không ái lạc
  489. Vô tri
  490. Voi và rễ cây
  491. Vọng ngữ
  492. Vượt các dòng
  493. Vượt thế gian
  494. Xả gánh nặng
  495. Xả giác chi
  496. Xả ly tất cả hữu dư
  497. Xả năm thọ ấm
  498. Xuất gia để dứt khổ
  499. Xuất ly của hành
  500. Xuất ly của thức
  501. Xuôi dòng chảy
  502. Ý tưởng
  503. Yểm ly
  504. Yêu thích khổ

 

Mục Lục Chương 2

NHỮNG LỜI PHẬT DẠY TRONG TĂNG NHẤT A HÀM

  1. Ác quả ác báo
  2. Ác tri thức
  3. An bang
  4. Ăn uống tiết độ
  5. Ánh sáng xuất hiện
  6. A-tu-la, mặt trờimặt trăng
  7. Ba bịnh lớn
  8. Ba chánh và tà tụ
  9. Ba chỗ không di động
  10. Ba hành vi ác
  11. Ba kết do thân tà
  12. Ba loại hương bay ngược gió
  13. Ba nghiệp đạo thanh tịnh
  14. Ba người xứng đáng được cúng dường
  15. Ba nhân duyên thọ thai
  16. Ba pháp không đáng mến yêu
  17. Ba pháp không được thấy nghe
  18. Ba pháp không nên gần gũi
  19. Ba pháp không thể trông cậy
  20. Ba pháp mến yêu
  21. Ba phước nghiệp
  22. Ba phương pháp giáo hóa của Thế Tôn
  23. Ba sự cần niệm tưởng
  24. Ba sự hiện tiền
  25. Ba tam muội
  26. Ba thiện căn không thể cùng tận
  27. Ba thiện và bất thiện căn
  28. Ba thứ không chắc thật
  29. Ba trí
  30. Ba tướng hữu vi của hữu vi
  31. Bậc thánh xuất hiện
  32. Bần tiện và phú quý
  33. Báo đáp thâm ân
  34. Bát quan trai giới
  35. Bảy báu xuất hiện
  36. Bảy hạng người đáng kính
  37. Bảy pháp bảo vệ khỏi ma ba-tuần
  38. Bảy sự kiện tăng ích
  39. Bảy sử trói buộc chúng sanh
  40. Bảy thí dụ về nước và người
  41. Bảy trụ xứ của thức
  42. Bị người trí bỏ rơi
  43. Bích-chi phật và a-la-hán
  44. Biết gốc của dục
  45. Biết gốc ngọn của thủ uẩn
  46. Bố thí bình đẳng
  47. Bố thí đúng thời
  48. Bố thí pháp bình đẳng
  49. Bố thí pháp không mệt mõi
  50. Bố thí sanh thiên
  51. Bố thí tối thượng
  52. Bốn biện tài
  53. Bốn bộc lưu
  54. Bốn chỗ ngồi
  55. Bốn chủng tánh 
  56. Bốn giới
  57. Bốn hạng người đáng quý
  58. Bốn hạng người đệ nhất
  59. Bốn hành tích
  60. Bốn khu vườn
  61. Bốn loài chim
  62. Bốn bậc sa môn
  63. Bốn loài sinh
  64. Bốn loại thức ăn nuôi lớn chúng sanh
  65. Bốn loại trái cây
  66. Bốn pháp bổn sớm thành chánh giác
  67. Bốn pháp đưa vào địa ngục
  68. Bốn pháp đưa về cõi lành
  69. Bốn pháp được sanh vào loài người
  70. Bốn pháp được thế gian không ái kính
  71. Bốn pháp dứt sanh tử
  72. Bốn pháp mang lợi ích nhiều
  73. Bốn pháp niệm xứ
  74. Bốn pháp thiện tăng trưởng
  75. Bốn sợ hãi lớn
  76. Bốn sự che khuất
  77. Bốn sự công đức
  78. Bốn thủ
  79. Bốn vị tằng hữu
  80. Bốn vô sở úy
  81. Buông gánh xuống
  82. Buông lung như con lừa
  83. Các căn tịch tịnh
  84. Các nam phật tử nổi bật vào thời Đức phật
  85. Các nữ phật tử nổi bật vào thời Đức phật
  86. Cách xử thế của Như-lai
  87. Cai trị dân phi pháp bị đọa địa ngục
  88. Căn cơ chúng sanh không đồng
  89. Cẩn thận ba nghiệp thân khẩu ý
  90. Chăn trâu
  91. Che khuất thì tốt
  92. Chỉ có tinh tấn là hạnh không đồng giữa các Như-lai
  93. Chỉ và quán
  94. Chim và rồng
  95. Chín hạng người lìa khổ
  96. Chín hạng người qua lại
  97. Chín nơi ở của chúng sanh
  98. Chín pháp ác
  99. Chín pháp hoàn tất những điều cần làm
  100. Chín vũ khí của người nữ trói buộc người nam
  101. Chịu tội không kể xiết
  102. Chớ bỏ nơi có thể tu phạm hạnh được
  103. Chỗ hướng đến của thiện trí thức như mặt trăng tròn đầy
  104. Chớ tham đắm vào lợi dưỡng
  105. Chồng đối với vợ có bốn việc
  106. Chúng sanh bị xoay chuyển theo tám pháp
  107. Chúng sanh, thế giới, rồng và Phật không thể nghĩ bàn
  108. Chuyện học không thể nhớ của Châu-lợi-bàn-đặc
  109. Chuyện người đục núi
  110. Chuyên tinh niệm thân
  111. Có hai người khó có được trên đời
  112. Có sanh ắt có tử
  113. Có thân có khổ
  114. Con đường dẫn đến địa ngục
  115. Con đường đưa đến ngạ quỷ
  116. Con đường đưa đến súc sanh
  117. Con đường Tám nhánh và pháp Bảy chi
  118. Cống cao
  119. Công đức thọ Bát quan trai giới
  120. Công đức Ca-diếp và A-nan
  121. Công đức chánh pháp
  122. Công đức của bố thí
  123. Công đức của giới
  124. Công đức của tịch tĩnh
  125. Công đức của Như-lai
  126. Cúng dường Đức Phật
  127. Cung kính Như Lai
  128. Cùng một sắc da
  129. Đại đệ tử của Thế Tôn
  130. Đại đệ tử ni của Thế Tôn
  131. Đại kiếp, tiểu kiếp
  132. Đàn việt thí chủ
  133. Đạo phẩm
  134. Đây dứt kia dứt, đoạn sanh tử
  135. Di lặc hạ sanh
  136. Địa ngục do chính mình tạo
  137. Đích nghĩa của sa môn
  138. Diệt tận
  139. Diệt tham dục
  140. Điều tai ương trong đời là do mình tạo
  141. Đố kỵ
  142. Đọa địa ngục
  143. Đoạn năm hạ phần kiết sử
  144. Dùng hoa điểm trang
  145. Đuốc sáng
  146. Già chết
  147. Giàu sang là do bố thí
  148. Gió lốc xoáy và người hoàn tục
  149. Giới
  150. Giữ giới thân, định thân, huệ thân
  151. Gốc của tất cả các pháp
  152. Gốc rễ tạo ác
  153. Gốc tham dục
  154. Hai ân
  155. Hai hạng nên được cúng dường
  156. Hai hạng người dễ thuyết pháp cho nghe
  157. Hai hạng người khó gặp
  158. Hai hạng người không sợ điện chớp và sấm gầm
  159. Hai hạng người phỉ báng Như Lai
  160. Hai kiến
  161. Hai loại kiến hữu và vô
  162. Hai lực
  163. Hai mươi mốt kết
  164. Hai nghiệp
  165. Hai người không thế báo ân hết được
  166. Hai nhân khởi chánh kiến
  167. Hai Niết-bàn
  168. Hai pháp
  169. Hai pháp không biết chán đủ: dâm và rượu
  170. Hai pháp không mong đợi
  171. Hai pháp: tà và chánh
  172. Hai thí
  173. Hai tướng để nhận
  174. Hàng phục bốn pháp
  175. Hạnh của tỳ kheo
  176. Hành dâm dục như con heo
  177. Hành nào nặng nhất
  178. Hành tâm từ vô lượng
  179. Hiển lộ thì tốt
  180. Hộ trì một
  181. Hóa độ voi dữ
  182. Hoa ưu đàm nở
  183. Hương thí là đệ nhất
  184. Hữu lậu được đoạn
  185. Hữu lậu được đoạn bằng oai nghi
  186. Hưu tức
  187. Kham nhẫn đoạn trừ lậu
  188. Khéo tu phạm hạnh
  189. Khổ đế
  190. Khó kềm lòng trước sắc dục
  191. Khổ vui
  192. Khoảng khắc là sanh lên cõi trời
  193. Không biết chán đủ mà mạng chung
  194. Không đắc đạo vì mười một lý do
  195. Không đủ giới hạnh
  196. Không du hành có năm công đức
  197. Không khởi ý đắm trước
  198. Không luận bàn chính trị
  199. Không mạn
  200. Không nên gần gũi
  201. Không nói dối
  202. Không phá hoại thánh chúng
  203. Không phóng dật
  204. Không phóng dật và tu bốn Chánh đoạn
  205. Không phóng dật nơi thiện pháp
  206. Không tà dâm vợ người
  207. Không tam-muội
  208. Không thoát thần chết dù có trốn ở đâu
  209. Không tìm được lõi cây
  210. Không tranh luận chuyện thị phi
  211. Không uống rượu
  212. Khúc gỗ không vướng bờ
  213. Kiến đoạn trừ hữu lậu
  214. Kiếp số lâu dài
  215. La-hầu-la chứng a-la-hán
  216. Lạc thọsứ giả của ái dục
  217. Làm ngạ quỷ là do tà dâm
  218. Làm sao sanh làm người trở lại?
  219. Làm sao sanh lên cõi trời?
  220. Lậu được đoạn bằng thân cận
  221. Lậu được đoạn bằng tư duy
  222. Lạy Phật được năm công đức
  223. Lễ tháp Như Lai có mười pháp
  224. Lìa dục
  225. Loài ngườichư thiên không ai sánh kịp
  226. Lợi dưỡng
  227. Lời phật dạy căn bản
  228. Lực và vô úy
  229. Lười biếng là khổ
  230. Lưới vây của nữ sắc
  231. Ma trói buộc
  232. Mất thân mạng chứ hộ sáu căn
  233. Máu của sanh tử thì nhiều hơn nước sông hằng
  234. Một thời tiết mà người phạm hạnh có thể tu tập
  235. Mưa tham
  236. Mười công đức
  237. Mười điều đưa vào cõi dữ và lành
  238. Mười một pháp quán tâm
  239. Mười một phước báo của tâm giải thoát
  240. Mười niệm đoạn tận sắc ái
  241. Mười niệm đưa đến Niết-bàn
  242. Mười niệm được quả báo lớn
  243. Mười nơi cư trú của thánh nhân
  244. Mười pháp thiết yếu
  245. Mười tưởng diệt tận các lậu
  246. Muốn thoát chết nên tư duy bốn pháp bổn
  247. Năm căn đối năm trần
  248. Năm căn là pháp tụ thiện
  249. Năm công đức
  250. Năm điều giúp cây đại thọ tăng trưởng
  251. Năm điều phi pháp
  252. Năm dục
  253. Năm bậc trượng phu dũng kiện
  254. Năm hạng người không thể chữa trị
  255. Năm huệ thí
  256. Năm loại thí
  257. Năm lý do để Đức Phật xuất hiện ở đời
  258. Năm pháp khiến bịnh mau lành
  259. Năm pháp hủy nhục
  260. Năm sự cực kỳ không thể đạt được
  261. Năm triền cái là tụ bất thiện
  262. Năm trường hợp không nên lễ người
  263. Năm tụ tà và chánh
  264. Năm tướng báo dân trời sắp mạng chung
  265. Năm tưởng dục
  266. Năm uẩn như huyễn
  267. Nếm vị dục
  268. Nếu Thế-tôn xuất hiện thì vô minh liền trừ
  269. Nghe pháp thoại có năm công đức
  270. Nghèo túng là do trộm cắp
  271. Ngu si
  272. Người cống cao không sợ như chó hung dữ
  273. Người mang gánh nặng
  274. Người nữ có năm điều bất thiện
  275. Người tối ưu và thấp hèn
  276. Nhàm chán sanh tử
  277. Nhờ giới mà muốn sanh về cõi nào cũng được
  278. Nhớ mười một điều trước khi lễ tăng
  279. Nhớ mười một điều trước khi lễ tháp
  280. Như-lai biết đường đi của sanh tử
  281. Như-lai biết rõ các gốc đọa lạc
  282. Như-lai là đệ nhất ở cõi này
  283. Như-lai ra đời
  284. Như-lai thành tựu mười lực
  285. Như-lai tối thượng
  286. Những ngày trai giới
  287. Niệm Tam bảo tiêu sợ hãi
  288. Niện diệt gốc khổ
  289. Niết bàn
  290. Nước mắt sanh tử nhiều hơn nước sông hằng
  291. Nuốt sắt nóng chứ không nhận của tín thí
  292. Phạm giới sẽ đọa địa ngục
  293. Pháp 
  294. Pháp chân thật
  295. Pháp còn bỏ huống chi phi pháp
  296. Pháp như chiếc bè
  297. Pháp tăng trưởng
  298. Pháp thân Như-lai vẫn tồn tại
  299. Pháp thủ hộ thế gian
  300. Phật
  301. Phát nguyện hồi hướng
  302. Phát nguyện trì bát quan trai giới
  303. Phước báo khó lường
  304. Phước và tội vô lượng
  305. Phương thuốc đối trị bảy sử
  306. Quả báo xấu của mười điều
  307. Quán bất tịnh đối trị nữ sắc
  308. Quán nữ sắc
  309. Quán sổ tức
  310. Quán sổ tứctừ bi
  311. Quán mạng căn đoạn tuyệt
  312. Quán tưởng về chết
  313. Quét đất có năm việc thành tựu
  314. Quét tháp thành tựu công đức
  315. Quốc vương thành tựu mười pháp
  316. Rời bỏ nơi không lợi ích
  317. Ruộng phước thế gian
  318. Sa môn tập hành
  319. Sa môn thệ nguyện
  320. Sa môn, bà-la-môn
  321. Sắc đẹp của nữ nhân
  322. Sám hối
  323. Sân giận
  324. Sáng, trưa, chiều có ba sự quấn chặt tâm ý
  325. Sanh thiên
  326. Sanh tửniết bàn
  327. Sát sanh liền đọa địa ngục
  328. Sáu công đức của Như lai
  329. Sáu loại sức mạnh
  330. Sáu phước của vua Ba-tư-nặc
  331. Sáu sự đưa đến công đức
  332. Sáu trọng pháp
  333. Sáu xứ là đường dữ
  334. Sáu xúc tình
  335. Sự chết
  336. Sức mạnh của nữ giới
  337. Sức nặng của tín thí
  338. Suy niệm tu hành
  339. Suy tầm
  340. Tà hạnh giống như quạ ăn đồ bất tịnh
  341. Tà kiến tiêu diệt
  342. Tai họa của dục
  343. Tái sanh trong tay ta
  344. Tài thí
  345. Tâm
  346. Tám bậc thánh lưu chuyển mà không trụ sanh tử
  347. Tám chúng
  348. Tám địa ngục
  349. Tám điều suy niệm của bậc đại nhân
  350. Tám khổ
  351. Tâm là gốc các pháp
  352. Tám nạn không được tu tập
  353. Tám nguyên nhân khiến trái đất chấn động
  354. Tám nơi bố thí
  355. Tám pháp hiếm có
  356. Tam quy
  357. Tâm ý như khỉ chuyền cành
  358. Tán thán hạnh đầu-đà
  359. Tán thán tấm y
  360. Tăng
  361. Tất cả pháp do ăn mà tồn tại
  362. Thà cắt lưỡi chứ không nói lời hung dữ
  363. Thà lấy sắt nóng áp người chứ không nhận y phục
  364. Thà nhảy vào lửa chứ không cùng người nữ giao du
  365. Tham đắm lợi dưỡng
  366. Thân cõi trời
  367. Thân năm ấn
  368. Thân tâm an vui
  369. Thân vô thường
  370. Thánh chúng
  371. Thành hoại của kiếp sống hiện tại
  372. Thành tựu chín pháp
  373. Thành tựu đạo phẩm hiền thánh
  374. Thành tựu sáu pháp
  375. Thành tựu sở nguyện
  376. Thánh vương cai trị
  377. Thảo luận chánh pháp
  378. Thấy pháp là thấy Như-lai
  379. Thế gian có bốn loại người như bốn loại mây và sấm
  380. Thế giới thành hoại
  381. Thế-tôn xuất hiện với ba mươi bảy phẩm trợ đạo
  382. Theo pháp cúng dường
  383. Thí
  384. Thí chủ có năm công đức
  385. Thí có phước và thí không có phước
  386. Thiên
  387. Thiền hành
  388. Thiên nhân sư
  389. Thiện tri thức
  390. Thiện tri thức là bậc phạm hạnh
  391. Thiện và bất thiện
  392. Thọ mạng ngắn ngủi, đau khổ
  393. Thọ phước thí
  394. Thọ, ái, thủ và hữu
  395. Thừa tự pháp
  396. Thực phẩm của từng loài
  397. Thuốc hay của bảy Giác chi
  398. Thượng nhân quán bảy xứ thiện
  399. Thuyết pháp khó đúng căn cơ
  400. Tịch tĩnhan lạc
  401. Tiếng sư tử rống của Như-lai
  402. Tối tôn nhất
  403. Trị dân đúng pháp
  404. Trì giới đầy đủ
  405. Trí tuệ
  406. Trói buộc trong lao ngục
  407. Trời người mất bóng che
  408. Tứ sự cúng dường
  409. Tứ thần túc
  410. Tụng bốn bộ A-hàm
  411. Tương ưng thiện ác
  412. Tưởng vô thường đưa đến Niết-bàn
  413. Tùy thời nghe pháp có năm công đức
  414. Tỳ kheo hiền thiện như chim khổng tước
  415. Tỳ kheo thành tựu bảy pháp
  416. Tỳ kheo thành tựu mười thiện pháp
  417. Ước mơ thành tựu do Bát quan trai giới
  418. Vào địa ngục
  419. Vị của thọ
  420. Vị ngọt của dục
  421. Vì sao ngu si?
  422. Vì sao sanh vào biên địa?
  423. Viễn ly đoạn trừ lậu hoặc
  424. Vô lậu
  425. Vượt nạn sanh tử
  426. Xả bịnh ba đời
  427. Xả ly lợi dưỡng
  428. Xả ly thọ
  429. Xả năm triền cái
  430. Xan tham
  431. Xét đức hạnh mình để nhận của cúng dường
  432. Xin quy y với Đức Phật
  433. Xuất giatối thắng trong nhiều loại chúng sanh

 

Mục Lục Chương 3

NHỮNG CHỦ ĐỀ CHUNG TRONG A-HÀM

  1. Ba khổ, ba thọ
  2. Ba minh và chín định
  3. Ba thừa : nhân thừa, thiên thừaThanh văn thừa
  4. Bảy điểm quan yếu khiến ngôi Tam bảo được hưng long
  5. Bốn vô lượng tâm gỡ những lầm mê cho mọi người
  6. Cây bồ đề hoàn mãn của Bảy giác chi
  7. Chánh niệm quán tâm
  8. Chúng sanh cõi trời
  9. trí tuệ mới biết sám hối, quy ytrì giới
  10. Cúng dường bố thí
  11. Đại bi tâm
  12. Đất nước gió lửa là vô ngã, vô thưởng, khổ
  13. Giáo giới thông
  14. Giới hạnh hơn khổ hạnh
  15. Giới hạnhtrí tuệ
  16. Giới luật
  17. Khen gợi Tam bảo
  18. Khổ hạnh không phải là điều an vui trong chánh pháp
  19. Không phóng dậttinh tấn
  20. Luân hồi
  21. Mười hai nhân duyên
  22. Mười kiết sử và tám mươi bốn ngàn đọa lạc
  23. Mười sáu lễ phẩm và ba pháp tế tự
  24. Năm triển cái
  25. Ngũ ấm xí thạnh
  26. Nhân duyên vì sao có thân người?
  27. Phạm hạnh của cõi trời phạm thiên và các tỳ kheo
  28. Pháp vô ngã
  29. Quán sắc thọ tưởng hành thức vô ngã
  30. Sát hại, trộm cắp là thú vui bại hoại
  31. Sáu căn đối với sáu trần
  32. Sáu căn và sáu thức
  33. Tám loại gió không lay chuyển
  34. Tâm vô thường
  35. Tập khởi, đoạn diệt, vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly thọ
  36. Tha tâm thông
  37. Thái độ khi nghe ai chê bai hay khen gợi Phật pháp
  38. Thanh tịnh
  39. Thất giác chi thay cho khổ hạnh
  40. Thế gian giải
  41. Thoát luân hồi sanh tử
  42. Tinh tấn tu tập đền ơn tín thí
  43. Trí tuệ là kết quả của những người chuyên tu
  44. Trụ tâm nơi thiện, thích hợp với xả
  45. Từ bi quán
  46. Tự che dấu công đức và tự bày tỏ lỗi lầm
  47. Tứ đế
  48. Tự mãn tai hại
  49. Tự lực
  50. Tứ niệm xứ
  51. Tứ thiền
  52. Vua A-dục thành mãng xà vương
  53. Xẻn pháp và bố thí pháp

 

 

PHƯƠNG DANH ẤN TỐNG

Sư Cô Thông Hoa $50, Viên Bảo Chân $100, Viên Bảo Sen & VB Hương $100, Viên Bảo Bi & gia đình $200, Viên Bảo Giác $100, Nhật Quang $30, Nhật Dũng $40, Viên Bảo Thi $40, Diệu Liên $50, Thiện Duyên & Mỹ Ngọc $115, Diệu Nguyên $50, Diệu Quảng $50, Viên Bảo Mãn $5, Viên Bảo Cát $20, Liễu $5, Diệu Thảo $5, Phạm Ngọc Tôn $25, Cao Thị Biên $25, Phạm Thế Hùng $25, Phạm Thế Johnson $25, Phạm Phương Mai (Diệu Ngọc) $25, Phan Hữu Quang $25, Phan Phương Thư (Diệu Đào) $25, Phan Hữu Phúc $25, Viên Bảo Tịnh & Viên Bảo Biện $60, Diệu Thanh & Minh Đức $150, Mr. Thông & Viên Bảo Nha $50, Viên Bảo Hỉ $100, Viên Bảo Tú $5, Viên Bảo Huyền $5, Phương Tú Trân $100, Lê Thị Nhu $20, Giang Kim Úa $100, Nguyễn T Kim Hoa $40, Đỗ Trung Thành $20, Võ T kim Chi $20, Long Tài (Viên Bảo Thanh) $50, Viên Bảo Diệp) & Trí Hiện $50, Kim Qui $10, Vô Danh $20, Đỗ Hiển $20, Hai Hạnh $20, Nguyễn T Y Vân $20, Lê Bạch Tuyết $10, Vũ Quỳnh Dao $15, Lai Hinh $10, Julie Vũ $10, Nga Vũ $10, Trần Kim Thạnh $20, Hạnh Châu $20, Tịnh Đạo $20, Diệu Đài $20, Lê Hữu Liêm $20, Lê Hữu Tài $20, Diệu Thắng $10, Võ Hống Xinh $10, Diệu Cát $20, Trang Thân $20, Dương Lâm $20, Khánh Hanh $20, Giác Tuyết $20, Nina Lê $10, Diệu Châu $30, Phổ Chiếu $20, Đỗ Thu $10, Mai Ngô $10, Kim Janney $20, Diệu Châu $20, Minh Tam Duong $200 Sư cô Huệ Chơn $20, Vô danh $20, Tâm Thành $20, Như Khiết $20, Kent Khoa Bùi $50, Lê Bạch Tuyết $20, Lê T Xuân Lan $20, Vô danh $20, Tuệ Tâm $20, Diệu Lạc & Nga Lê $20, Chau Quyên $20, Pháp Chân $50, Mai & Minh Thành $100, Diệu Hồng $50, Thiện Hiếu $50, Vien Bảo Hối $30, Trần Minh (Thiện Thanh) $100.00, Dung Van Thai $300, Chánh Phan $20, David Au $50, Kim Khanh Tran $50, Diệu Hạnh và Hỉ $100, Hiền Tạ& Hạnh Tạ$100, Lạp Phạm & Diep Doan $50, Đức Nguyễn & Bửu Nguyễn $100, Liêm Hữu Lê $ 40, Minh Thanh Chung $100, Tặng Nguyễn (Diệu Thường) $100, Phạm Kim Dung (Diệu Ngôn) $100, Linda Nguyễn $50, Andy Ngoc Tran $100, Trúc Trần, Chúc Hải, Chúc Kính cùng gia đình $250, Tran $200, Quan Minh Khuat $50, HL: Tăng Phát Minh $300, HL Trần T Nguyệt $100, Hà Thu Lê (Tịnh Thủy) $40, HL Nguyen T Tư và HL Trinh Ngoc Anh $50, Hạnh Trần $50.

 

 


 

TỦ SÁCH BẢO ANH LẠC

  1. Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions, Delhi-7: Eastern Book Linkers, 1st print 2004, 2nd reprint 2005 & Vietnam Buddhist University: 3rd reprint.
  2. Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali va Đại Thừa, Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005; Tái bản lần hai, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2008.
  3. Ban Mai Xứ Ấn (3 tập), Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005; và tái bản lần hai năm 2006; Tái bản lần ba, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2008.
  4. Vườn Nai – Chiếc Nôi Phật Giáo, Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005; Tái bản lần hai, NXB Phương Đông, 2008.
  5. Xá Lợi Của Đức Phật, Tham Weng Yew, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005 và tái bản lần hai tại Delhi 2006; Tái bản lần ba, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2008.
  6. Quy Y Tam BảoNăm Giới, Thích Nữ Giới Hương, Tủ Sách Bảo Anh Lạc, Wisconsin, USA, 2008.
  1. Vòng Luân Hồi, Thích Nữ Giới Hương, NXB Phương Đông: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008.
  2. Hoa Tuyết Milwaukee, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008.
  3. Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần thứ 2, 2012.

10. Nghi Thức Hộ Niệm Cầu Siêu, Thích Nữ Giới Hương biên soạn, Delhi-7: Eastern Book Linkers, 2008.

11. Sen Nở Nơi Chốn Tử Tù, Nhiều tác giả, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010.

12. Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ, (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010; tái bản lần 2 năm 2011.

13. Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2012.

14. A-Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não, (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2012.

 

 

Tập 2
Thích nữ Giới Hương
 
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI VIỆT BẮC
 
Biên tập: Thế Vinh
Sửa bản in: Quỳnh Trang
Bìa & Trình bày: Quảng Tâm
 
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
A2 - 261 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội
ĐT: 08044806 - Fax: 08043538
 
In lần thứ nhất 1000 quyển, khổ 14x20 cm, tại Xí nghiệp In Fahasa, 177 Trường Chinh, Tân Bình, TP.HCM.
Giấy phép xuất bản số: 70-2012/CXB/146-01/ HĐ, cấp ngày 13 tháng 02 năm 2012. In xong và nộp lưu chiểu tháng 05 năm 2012.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10668)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17864)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12268)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14212)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11999)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10508)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12561)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13022)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13407)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11521)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12092)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19531)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant