Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

18. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 7414)
18. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Chương Thứ Mười Tám

Phẩm TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà 

 

Tùy là theo, hỷ là vui cho nên tùy hỷ là khi thấy người làm việc lành, việc thiện thì chúng ta khởi tâm vui theo. Ở chương trước, đức Phật đã so sánh công đức của người tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa. Đến phẩm này, đức Phật lại nói công đức của người tùy hỷ khi thấy người thọ trì, giảng nói kinh Pháp Hoa.

Lúc bấy giờ Bồ-tát Di Lặc bạch Phật:“ Thế Tôn ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh Pháp Hoa mà lòng vui đẹp ( tùy hỉ) thì những người ấy được bao nhiêu phước đức?”

Phật bảo Bồ-tát Di Lặc:

-A-dật-đa ! Sau Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng hạng người trí khác, nghe kinh này mà lòng vui đẹp, rồi từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại nơi chư Tăng ở, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng rẫy, đem điều đã nghe, tùy sứcdiễn thuyết cho cha mẹ, họ hàng, thiện hữu cùng nghe, rồi những người này nghe xong dạy cho người khác. Những người khác nghe xong, dạy cho những người khác nữa, như vậy cho tới người thứ năm mươi.

-Này A-dật-đa ! Công đức nghe kinh vui đẹp của hàng thiện nam tử, nữ nhân thứ năm muơi đó sẽ được như lời ta sắp nói đây, ông hãy lắng nghe.

-Nếu có người làm hạnh bố thí, ban cấp những thứ cần dùng ngọc ngà, châu báu, voi ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác cho vô lượng chúng sanh trong vô số thế giới, suốt một thời gian là 80 năm. Tài thí như vậy xong rồi, vị thí chủ ấy lại nghĩ đến việc đem Phật pháp ra mà dạy dỗ dìu dắt chúng sanh lúc ấy đã già suy, tuổi quá 80, tóc bạc mặt nhăn, không bao lâu sẽ chết. Vị thí chủ ấy liền nhóm chúng sanh giáo hoá, khiến chứng đặng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm hoặc A-la-hán. Ý ông nghĩ sao? Công đức của vị đại thí chủ đó có nhiều chăng?

Đức Phật đưa ra thí dụ về hạnh bố thí. Bình thường chúng sinh chỉ bố thí những gì mình thừa dư để tạo thêm phước đức cho tương lai. Nhưng ở đây đức Phật ví có người đem cả ngọc ngà, voi ngựa, xe cộ, nhà cửa, tiền bạc ra bố thí cho vô lượng chúng sinh trong vô vàn thế giới trong suốt cuộc đời của ông ta thì dĩ nhiên phước đức của người này quá lớn. Chẳng những ông thực hành hạnh tài thí mà ông còn nguyện đem Phật pháp ra giảng dạy khiến cho nhiều người trở thành Thánh giả thì hạnh pháp thí của ông quả rộng lớn vô cùng, không thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Di Lặc bạch Phật:“ Thế Tôn ! Công đức của người ấy nhiều vô lượng vô biên. Chỉ việc tài thí thôi đã là vô lượng rồi, hà huống còn pháp thí đến đặng quả A-la-hán”.

Phật bảo Bồ-tát Di Lặc:

-Ta rành nói ngươi nghe nhé ! Công đức của vị thí chủ ấy không bằng một trong trăm ngàn muôn ức phần công đức của người thứ năm mươi nghe Kinh Pháp Hoa mà lòng vui đẹp.

-Này A-dật-đa ! Người nghe kinh Pháp Hoa thứ 50 mà còn được công đức tùy hỉ vô lượng vô biên như thế, huống hồ hạng người nghe kinh lúc ban sơ ngay trong Pháp hội.

Để trả lời cho Bồ Tát Di Lặc về công đức của người nghe kinh Pháp Hoa với lòng hoan hỉ, đức Phật bắt đầu làm cuộc so sánh. Trước hết, đức Phật nói rằng đời sau nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thiện nam hay Tín nữ sau khi nghe kinh Pháp Hoa với tấm lòng hoan hỷ rồi sau đó đem kinh này truyền lại cho cha mẹ, họ hàng, thiện hữu. Những người này nghe xong lại dạy cho người khác cho đến khi truyền tới người thứ 50 thì công đức của người thứ 50 này có thù thắng hơn công đức của vị thí chủ bố thí cả tài thí lẫn pháp thí ở trên không?

Ở đây đức Phật muốn nhấn mạnh rằng người nghe kinh Pháp Hoa thứ 50 là do biết bao người khác giảng lại thì chất lượng không thể nào sánh bằng người đang nghe Phật thuyết trong pháp hội này. Thế mà công đức của người này còn xa hơn so với vị thí chủ bố thí lẫn tài thípháp thí ở trên. Tại sao vậy? Trên thế gian việc bố thí cúng dường là làm việc phước đức thuộc về pháp hữu lậu sinh diệt nên cái phước đức đó có giới hạn mặc dầu nó rất lớn. Ngay cả dạy người tu chứng Thánh quả Nhị thừa thì họ chỉ đạt được hóa thành Niết bàn chớ chưa đạt đến Bảo sở Niết bàn được. Nhắc lại,vua Lương Võ Đế từng đắp cà sa, tự giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã, cất chùa độ tăng và được người đời tôn là vị vua có tâm Phật. Nhà vua cùng với pháp sư Lâu Ước luận bàn về chân đế, tục đế. Tục đế thì biện minh cái “phi vô” tức là cái chẳng phải không, còn chân đế biện minh cái “phi hữu” tức là cái chẳng phải có. Sau cùng chân-tục chẳng phải “Hai” tức là thánh đế đệ nhất nghĩa đế. Theo nhà vua đây chính là chỗ cực diệu cùng huyền của hàng giáo gia. Nhưng do vọng mới có chơn cho nên “chơn, vọng” là hai phạm trù đối đãi vừa đối lập vừa tồn tại bất khả phân ly, nhưng tự tánh thì thường hắng bất biến, biết mà không thể nói được. Vì thế khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào yết kiến, vua Lương Võ Đế bèn tự đắc mà hỏi Tổ rằng:”Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa đế?”. Tổ đáp:”Quách nhiên vô thánh” nghĩa là tuyệt nhiên rỗng rang không thánh. Chân lý thì làm sao trả lời được mà nhà vua lại hỏi! Không hài lòng về câu trả lởi của Tổ, nhà vua bèn khoe với Tổ rằng công đức xây chùa và độ Tăng của nhà vua có lớn không? Tổ đáp lại rằng “Chẳng có công đức gì hết”. Câu hỏi đó chứng tỏ nhà vua chỉ tu Phật theo hình tướng nên muốn ai cũng phải ca ngợi, đề cao bản ngã của mình. Tuy có học Bát Nhã, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo nên nhà vua không thấy chỗ khác nhau giữa “Tướng” với “Tánh” hay “phước đức” với “công đức”. Tổ trả lời nhát gường khiến nhà vuacảm thấy như bị Tổ tạt vào mặt một thau nước lạnh tê tái cả lòng. Sau đó, Tổ lẳng lặng sang sông qua đất Ngụy, đi thẳng lên núi Thiếu Thất ngồi quay mặt vào tường trong chín năm không nói một lời.

Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì quả vị A la hán là tiểu Niết bàn, là Niết bàn tạm thời. Còn Niết bàn của Phật mới là Vô thượng tức là Bảo sở. Phật giáo Đại thừa luôn khuyến khích chúng sinh hành Bồ Tát đạo, vì người quên mình nên họ luôn chống đối lối thực hành của hàng Thanh Văn là xa lánh cuộc đời, sợ phải bị ô nhiễm.

Người nghe kinh Pháp Hoa thứ 50 với tâm hoan hỷ nghĩa là người này tin nhận Tri Kiến Phật của mình. Đây chính là Phật nhân và từ cái nhân Phật này họ sẽ huân tu để tiến đến Phật quả tức là thành Phật. Vì thế cho dù có bố thí tài thípháp thí vô cùng vô tận thì cũng chỉ tạo phước đức hữu lậu sinh diệt, còn người nghe được kinh Pháp Hoa tuy không thể nghe trực tiếp từ đức Thế Tôn thì công đức của họ rộng lớn vô cùng rộng lớn, không thể nghĩ bàn bởi vì nhờ nghe kinh Pháp Hoa, người đó có niềm tin vững chắc nơi Tri Kiến Phật của chính mình và dựa vào cái Tri Kiến Phật đó họ sẽ thành Vô thượng Bồ Đề. Trong khi đó các vị định tánh A la hán bằng lòng với quả vị của mình nên không tiến tu để thành Phật cho nên công đức không thể sánh bằng người nghe kinh Pháp Hoa thứ 50 được. Nói phước đức, công đức chỉ là cách nói chớ thực ra phước đức, công đức không có tự tánh nên đừng nghĩ làm việc gì mình có rất nhiều phước đức hay công đức như vua Lương Vỏ Đế. Đối với Phật giáo Đại thừa thì Như Lai nói phước đức hay công đức nhưng kỳ thật khôngphước đức hay công đức gì hết mà gọi là có phước đức hay công đức vậy thôi. Bởi vì phước đức hay công đức là những gì không đi ngược lại với chơn tánh của mình chớ thật ra chẳng có phước đức gì hết cho nên người càng tạo nhiều phước đức thì có nhiều hạnh phúc và vun bồi nhiều công đức thì càng có an lạc thanh tịnh Niết bàn. Nói cách khác phước đức, công đức đưa con người tiến gần đến chơn tánh của họ tức là sống gần với hạnh phúc, thanh thoát an vui tự tại vốn đã có sẵn trong ta rồi nghĩa là hết phiền não thì có Niết bàn.

-Này A-dật-đa ! Nếu có người vì lòng muốn nghe kinh nầy mà đến chùa, hoặc ngồi, hoặc đứng, dầu trong chốc lát để nghe nhận lời, người ấy có những công đức nhờ đó mà sẽ tái sanh trong cảnh giàu có rồi sau lại lên thiên cung.

Giàu dựa theo cái nhìn của đạo Phật không có nghĩa là phải có tiền rừng bạc biển vì đó là sự sinh diệt nay có mai không nên cho dầu là giàu đến đâu đi chăng nữa thì chưa chắc đã thật sự có hạnh phúc. Còn cái giàu theo tinh thần đạo Phật là giàu đạo đức, biết tri túc thiểu dục, giảm bớt sự tham muốn chạy theo ái dục thái quá thì người đó tuy không có nhiều tiền, nhưng tâm tự tại, gia đình hạnh phúc, con cái nên người. Vì thế người biết nghe kinh Phật tức là biết sống với chân lý thì cuộc sống sẽ thay đổi ngay tức là tái sinh vào cảnh giới an lành trong lúc còn đang sống chớ đâu cần đợi đến chết mới cầu sanh về thế giới an lành. Sanh lên thiên cung không phải là chết sẽ sinh vào cõi trời để hưởng phước lạc mà thâm ý của kinh là tuy người đó vẫn sống và hoạt động bình thườngthế gian này, nhưng tâm hồn vô cùng sung sướng, không đau khổ lo lắng buồn phiền như những người nhiều tiền lắm của nên họ tuy ở thế giantâm hồn như ở trên thiên cung, lúc nào cũng tràn đầy hạnh phúc. Do đó con người có thể lên thiên cung hay chui vào địa ngục tùy theo cách biết sống của mình. Vì thế cái tuyệt vời của đạo Phậtđức Thế Tôn chỉ rõ cho chúng sinh biết đâu là con đường hạnh phúccon đường nào dẫn ta vào chốn trầm luân cho nên nếu biết sống trong tỉnh thức, giữ vững chánh niệm để kiểm soát thân khẩu ý thì cuộc đời này làm gì còn khổ. Không khổ là có an lạc Niết bàn rồi chớ còn tìm cõi cực lạc ở đâu nữa? Do đó tôn chỉ của đạo Phật là không làm khổ mình, khổ người tức là mình có an lạc và người cũng có an lạc Niết bàn.

-Còn người nào, trong chỗ giảng kinh mà biết khuyên người đến sau ngồi nghe, hoặc chia chỗ ngồi thì người ấy, khi chuyển thân, đặng chỗ ngồi của Đế Thích, Phạm Vương hay Chuyển Luân Thánh Vương.

Tinh thần bình đẳng là một đức hạnh cao quý được xiễn dương cao độ trong Phật giáo bởi vì một khi chúng sinh còn tranh chấp, đố kỵ là vì họ nhìn đời thiếu tinh thần bình đẳng. Vì thế trước khi thành chánh giác thì đức Phật phải thành chánh đẳng để không nhìn đời qua lăng kính đối đãi nhị nguyên. Do đó nếu người không có tâm kỳ thị, đố kỵ hay tranh chấp nên họ sống bằng tâm trạng của các vị trời tức là đang hưởng rất nhiều phúc lạc.

-A-dật-đa ! Nếu lại có người giới thiệu và khuyến khích người khác nghe giảng kinh Pháp Hoa, và người được khuyên nhận lời đến nghe, dầu trong chốt lát, thì người giới thiệu và khuyến khích đặng công đức, khi chuyển thân, cùng sanh một nơi với hàng Bồ-tát, đầy đủ “ tổng trì”, căn tánh bén nhạy, có trí tuệ, trăm ngàn muôn đời chẳng hề ngọng câm, miệng lưỡi không hôi thối, môi răng tốt đẹp, mặt mày đoan trang, mũi lớn cao thẳng.

Thật vậy, người giới thiệu và khuyến khích kẻ khác nghe và thọ trì kinh Pháp Hoa là người có tâm lành, tánh tốt, muốn ai cũng đều có lợi lạc như mình, không có ý lòng ích kỷ. Người như thế là người tốt, lúc nào cũng nói lời chân thật nên làm gì còn chuyện câm ngọng. Ngược lại có người không nói đúng chân lý, thiên bên này bỏ bên kia nên lời nói đó làm cho nhiều người không muốn nghe hoặc nghe chói lỗ tai chẳng khác chi tiếng nói của người câm ngọng. Có người nói ra nghe mát mẻ êm đềm ai cũng thương cũng mến, ngược lại nếu có người nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời độc ác thì cũng như miệng lưỡi hôi thối. Trong thế gian có rất nhiều người đoan trang hiền hậu, dung mạo hiền hòa vì họ là những người có đức hạnh, sống đúng đạo lý nên không có lăng xăng, cộc cằn vì “cái nết đánh chết cái đẹp”. Ngày xưa lúc đức Phật còn tại thế, hoàng hậu Mallika có hỏi đức Phật về nguyên nhân nào để được sanh ra đẹp xấu. Đức Phật trả lời rằng:” Người có tâm nhu hòa, nhẫn nhục sẽ được đẹp đẽ và kẻ có tâm sân hận sẽ chịu xấu xí”. Theo quan niệm của đức Phật thì nét đẹp được tạo nên từ một tâm lý đạo đức lúc nào cũng có giá trị hơn là chỉ có cái đẹp bên ngoài mà không có một giá trị đạo đức bên trong. Dựa theo Luật Nghiệp Quả thì chúng ta có thể gây ra nhiều nghiệp nhân khác nhau để cuối cùng nhận được một quả báo xinh đẹp. Nhưng sắc đẹp nầy chưa chắc là một nét đẹp chân thật, hiền hòa. Trong lịch sử nhân loại từ Đông qua Tây chúng ta thấy rất nhiều những người đàn bà tuyệt đẹp với nhiều thủ đoạn độc ác để chiếm đoạt quyền hành và gây sóng gió khắp nơi. Cái phước xinh đẹp được gây từ nhiều nhân tốt mà thiếu mất cái nhân đạo đức chân thật, vì vậy từ nơi cái phước xinh đẹp họ đạt được đỉnh vinh quang mà cũng gieo rắc đau khổ cho nhiều người khác. Vì sự giả dối, tạm bợ và không bền chắc của sắc đẹp nên đức Phật luôn luôn khuyên chúng sinh nên vun bồi cái đạo đức bên trong thì nó sẽ là nên móng căn bản cho sắc đẹp bên ngoài và đây mới chính thật là một sắc đẹp nhận hậu và bền vững. Mỹ nhân trên thế gian nầy thì có đủ hạng. Có nét đẹp gây nên sự quý mến kính trọng trong sạch và cũng có nét đẹp gây nên sự ham muốn chiếm đoạt thấp hèn. Đôi khi chúng ta thấy có nét đẹp bày tỏ sự cao thượng từ tốn thì ngược lại cũng có nét đẹp lộ ra sự kiêu hãnh tự phụ. Có cô thì đẹp kín đáo và cũng có cô thì đẹp lẳng lơ. Phật dạy sở dĩ có sự khác nhau giữa các nét đẹp như thế bởi vì mỗi người đã gieo cho mình trong tiền kiếp những nghiệp nhân khác nhau. Nếu tự mình khéo gieo nhân, thì người ấy cũng có thể tạo cho mình một quả báo để có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng nét đẹp đó không liên quan gì tới đạo đức. Do đó họ có thể là tuyệt thế mỹ nhân nhưng họ vẫn có thể là người ác. Gần đây nhiều bác sĩ tâm lý học đã đưa ra nhận xét là một người càng chú trọng tới việc trang điểm cá nhân nhiều chừng nào thì tâm địa càng hẹp hòi chừng ấy. Còn người đứng đắn là người chỉnh tề, vừa phải và không se xua chưng diện quá đáng. Sau cùng họ kết luận rằng một người có đôi mắt lẳng lơ cũng là người có tính tình độc ác hung dữ. Vì thế thói lẳng lơ hoa nguyệt với tính hung ác thường đi chung với nhau. Đối với quan niệm của Đông phương thì chữ đẹp thường đi đôi với chữ duyên lý do là dầu cho người đó có đẹp cách mấy thì sắc đẹp đó chỉ có thể thu hút kẻ khác những lúc ban đầu nhưng không giữ được tình cảm lâu bền vì không có duyên. Chữ duyên nói lên cái gì ẩn dấu kín đáo bên trong mà làm cho người khác phải xiêu lòng vì thế người có duyên mới là người giữ được tình cảm tốt của người khác một cách bền bĩ lâu dài. Người có duyên hiểu theo tinh thần đạo Phật là người đã từng kiên trì giữ giới hạnh, sắc son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn bè, hiếu để với cha mẹ, trung hậu với chủ nhân và luôn cúng dường bố thí…Chính những cái phước duyên nầy đã kết tập để tạo cho họ một cái duyên ở đời sau làm cho mọi người quý mến họ mãi mãi. Do đó hầu hết các mệnh phụ phu nhân đều thuộc về hạng người có duyên nầy, còn các kỷ nữ thì phần lớn thuộc về loại đẹp mà vô duyên. Nếu có những người tính tình hay thay đổi, lòng dạ không thủy chung, hiếu để chẳng tròn, chữ tín không giữ ngay cả phát tâm làm phước rồi bỏ cuộc nửa chừng sẽ cảm nhận quả báo vô duyênđời sau. Vì vậy dù sắc đẹp lộng lẫy đi chăng nữa, họ cũng chỉ chiếm đoạt được cảm tình của người khác trong thời gian ngắn mà thôi. Cái duyên nó thường tiềm ẩn bên trong ánh mắt, làn da và phảng phất qua tiếng nói giọng cười vì vậy người vừa đẹp mà có duyên thì dĩ nhiên vừa được cảm tình của người mà còn được người quý mến.

-A-dật-đa ! Ông thử xem: khuyên một người đi nghe Pháp mà được công đức như thế, hà huống một lòng nghe, nói, đọc, tụng Kinh Pháp Hoa, lại trong đám đông vì người giải thíchtu hành đúng như lời nói trong kinh.

Khuyên người nghe kinh Pháp Hoa và khuyến khích họ nhận thấy được Tri Kiến Phật của mình thì công đức vô cùng to lớn không thể nghĩ bàn bởi vì người đó một khi đã tin nhận Tri Kiến Phật rồi tinh tấn nỗ lực tu thành Phật thì dĩ nhiên không còn công đức nào bằng. Nhưng đạo Phật là đạo tự giác mới giác tha nghĩa là chính mình phải tin nhận Tri Kiến Phật sẵn có nơi mình và từ đó làm Phật nhân để tu thành Phật thì chính mình mới thực hành đúng theo lời dạy của kinh Pháp Hoa.

Tóm lại, trong cuộc sống khi thấy người hạnh phúc, chúng ta vui mừng, thấy người vui chúng ta cũng vui theo. Nhưng ở đây tùy hỷ dựa theo tinh thần Pháp Hoavui mừng hoan hỷ chấp nhận tư tưởng tối thượng thừa, là giáo lý của hệ tư tưởng Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa tức là Tri Kiến Phật làm nền tảng tức là Phật nhân để tiến tucuối cùng đạt đến cứu cánh tối thượng là đạt thành Phật quả tức là thành Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11537)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15191)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12332)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10511)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16420)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11876)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17886)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8994)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14152)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10592)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant