Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 24: Quán Về Tứ Đế

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 6705)
Phẩm 24: Quán Về Tứ Đế

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XXIV: QUÁN VỀ TỨ ĐẾ.

(Gồm 40 bài kệ)


Hỏi: Phá bốn điên đảo, thông đạt bốn đế, chứng được bốn quả Sa-môn 

1. Nếu hết thảy đều rốt ráo không, không sinh cũng không diệt, như vậy thời không có pháp bốn Thánh đế.

2. Vì không có bốn Thánh đế, nên các việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, và tu đạo đều không có.

3. Vì các việc ấy không có, nên không có bốn Thánh quả; vì không có bốn Thánh quả, nên người chứng đắc Thánh quả và người hướng đến chứng đắc Thánh quả, cũng không có.

4. Nếu không có tám bậc Hiền Thánh, thời không có Tăng bảo; vì không có bốn Thánh đế nên cũng không có Pháp bảo.

5. Vì không có Pháp bảo Tăng bảo, nên cũng không có Phật bảo. Như vậy, người nói không, là người phá hoại Tam Bảo ?

Nếu tất cả thế gian đều không, không có tính sở hữu, tức là không sinh không diệt, vì không sinh không diệt thời không có bốn Thánh đế, vì sao ? Vì từ tập đế sinh khổ đế. Tập đế là nhân, khổ đế là quả, diệt khổ tập đế thời gọi là diệt đế, pháp môn tu hành đưa đến diệt đế gọi là đạo đế. Đạo đế là nhân, diệt đế là quả, như vậy bốn đế có nhân có quả. Nếu không sinh không diệt thời không có bốn đế, bốn đế không có thời không có việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo. Việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo không có, thời không có bốn quả Sa-môn; bốn quả Sa-môn không có, thời không có bốn hướng bốn đắc quả. Nếu không có tám bậc Hiền Thánh ấy thời không có Tăng bảo. Lại vì bốn đế không có, thời Pháp bảo cũng không có. Nếu khôngPháp bảo, Tăng bảo thời làm sao có Phật bảo. Ngộ được pháp gọi là Phật, không có pháp thời đâu có Phật. Vậy ông nói các pháp đều không, thời phá hoại Tam Bảo.

Lại nữa,

6. Nói pháp rốt ráo không, là phá hoại nhân quả, tội phước, cũng phá hoại tất cả pháp tắc sự nghiệp của thế gian.

Nếu tín thọ pháp không, thời phá hoại tội phước và quả báo tội phước, cũng phá hoại pháp thế tục. Vì có các lỗi như vậy, nên các pháp không thể không ?

Đáp:

7. Hiện tại ông thật sự không hiểu tướng không, không hiểu nhân duyên vì sao mà không, và cũng không hiểu ý nghĩa không, nên mới tự sinh ra ưu não.

Ông không hiểu thế nào là tướng không, vì nhân duyên gì mà nói không, cũng không hiểu nghĩa không. Vì không thể như thật biết rõ nghĩa không, nên sinh ra nghi nạn như thế.

Lại nữa,

8. Vì chúng sinh, chư Phật nương theo hai đế để thuyết pháp: 1. Thế tục đế. 2. Đệ nhất nghĩa đế.

9. Nếu người đối với hai đế mà không biết, không phân biệt, thời không biết được nghĩa chơn thật của Phật pháp sâu xa.

Thế tục đế là hết thảy pháp tính không, mà vì thế gian điên đảo, nên sinh ra pháp hư dối, đối với thế gian thì cho pháp hư dối đó là thật, còn đối với các Hiền Thánh đã như thật biết tính điên đảo, nên biết tất cả pháp đều không, không sinh. Đối với Thánh nhân thì Đệ nhất nghĩa đế này là thật. Các đức Phật nương theo hai đế, vì chúng sinhthuyết pháp. Nếu người không thể đúng như thật phân biệt hai đế, thời không hiểu được thật nghĩa của Phật pháp sâu xa. Nếu bảo rằng hết thảy pháp chẳng sinh là Đệ nhất nghĩa đế, không cần đệ nhị tục đế, nói như vậy không đúng, vì sao ?

10. Nếu không nương theo tục đế, thời không được Đệ nhất nghĩa đế, không được Đệ nhất nghĩa đế, thời không được Niết-bàn.

Đệ nhất nghĩa đều nhân nơi ngôn thuyết, mà ngôn thuyếtthế tục, thế nên, nếu không nương thế tục đế thời không thể nói Đệ nhất nghĩa. Nếu không ngộ được Đệ nhất nghĩa, thời làm sao đến được Niết-bàn. Thế nên các pháp tuy không sinh mà có hai đế.

Lại nữa,

11. Vì căn tính ám độn không có khả năng chánh quán pháp không, nên tự hại, như người không giỏi chú thuật, không rành bắt rắn độc.

Nếu người căn tính ám độn không khéo hiểu pháp không, vì sai lầm đối với không, nên sinh ra tà kiến. Như vì lợi mà bắt rắn độc, nhưng không rành cách bắt, trở lại bị rắn hại. Lại như muốn sử dụng chú thuật mà không rành, trở lại bị chú thuật làm hại. Người căn tính ám độn quán pháp không, cũng như vậy.

Lại nữa,

12. Đức Thế Tôn biết rõ tướng pháp này rất sâu xavi diệu, chẳng phải người căn tính ám độn biết kịp, nên Ngài không muốn nói.

Đức Thế Tôn vì pháp sâu xa vi diệu, không phải là chỗ hiểu được của hàng căn tính ám độn, nên không muốn nói.

Lại nữa,

13. Ông cho rằng tôi chấp trước "không", nên vì tôi mà sinh ra lỗi lầm, nhưng những lỗi lầm mà ông đang nói đó, đối với không, hoàn toàn không có.

Ông cho rằng tôi chấp trước "không tính" nên vì tôi mà sinh ra lỗi lầm, song không tính mà tôi nói, thì không ấy cũng không, nên không có các lỗi như vậy.

Lại nữa,

14. Do có nghĩa không, nên tất cả các pháp được thành tựu, nếu khôngnghĩa không, thời tất cả các pháp không thành.

Vì có nghĩa không nên tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều thành tựu, nếu khôngnghĩa không, thời tất cả đều không thành tựu.

Lại nữa,

15. Hiện nay chính ông tự có lỗi mà lại đổ qua cho tôi, chẳng khác nào người cỡi ngựa, tự quên con ngựa mình đang cỡi.

Ông đối với pháp có, có lỗi mà không tự biết, lại thấy lỗi nơi pháp không tính, khác nào người cỡi ngựa mà quên mất con ngựa mình đang cỡi, vì sao?

16. Nếu ông thấy các pháp quyết địnhtự tính, tức là thấy các pháp không có nhân, cũng không có duyên.

Ông nói các pháp có định tính, nếu như vậy thời là thấy các pháp không nhân không duyên, vì sao ? Vì nếu pháp đã quyết địnhtự tính rồi, thời không sinh không diệt, như vậy đâu cần nhân duyên. Còn nếu các pháp từ nhân duyên sinh, thời không có tự tính, trái lại các pháp quyết địnhtự tính thời không từ nhân duyên sinh. Vậy nếu nói các pháp quyết địnhtự tính, là không đúng, vì sao ?

17. (Nếu các pháp có tự tính) như thế tức là phá hoại nhân quả, phá hoại việc làm, người làm, pháp làm. Lại cũng phá hoại tất cả sự sinh diệt của muôn vật.

Nếu các pháp có định tính thời không có nhân quả v.v… như kệ nói:

18. Pháp do các duyên sinh, ta nói tức là không, cũng là giả danh, và cũng là nghĩa trung đạo.

19. Chưa từng có một pháp nào mà không từ nhân duyên sinh. Thế nên hết thảy pháp, không pháp nào mà chẳng là không.

Pháp do nhân duyên sinh, Ta nói tức là không, vì sao ? Vì phải đầy đủ các duyên hòa hiệp thì pháp mới khởi, pháp ấy thuộc các nhân duyên, nên không có tự tính, vì không tự tính nên "không". Không cũng lại không, chỉ vì dắt dẫn chúng sinh nên mượn danh tự để nói (nên nó cũng là "giả danh"); lìa hai bên có, không, nên gọi là "trung đạo". Vì pháp ấy không có tự tính nên không được nói có, cũng vì không có "không" nên không được nói không có. Nếu pháp có tự tính tướng, thời không đợi các duyên mới có; nhưng nếu không đợi các duyên thời không có pháp. Thế nên không có pháp nào mà chẳng không. Trên kia ông cho rằng pháp "không" có lỗi, lỗi ấy nay trở lại nơi ông, vì sao ?

20. Nếu hết thảy pháp chẳng không (tức là có định tính), thời không có sinh diệt. Như vậy, thời cũng không có pháp bốn Thánh đế.

Nếu hết thảy pháp mỗi mỗi đều có tự tính chứ chẳng không, thời không có sinh diệt, vì không có sinh diệt, thời không có pháp tứ Thánh đế, vì sao ?

21. Nếu không từ duyên sinh, làm sao mà có khổ; vô thường nghĩa là khổ; nếu pháp quyết địnhtự tính, thì không có vô thường (tức là không có khổ đế).

Nếu không từ duyên sinh thời không có khổ, vì sao ? Vì kinh nói vô thường là khổ (không từ duyên sinh tức là không có vô thường, không có vô thường thời không có khổ). Trái lại nếu khổ có định tính thời làm sao có vô thường, vì nó không bỏ tính cố định của nó.

Lại nữa,

22. Nếu khổ đã có tính quyết định, thời vì cớ gì phải từ tập đế sinh, thế nên không có tập đế, vì đã phá hoại nghĩa không (hoặc dịch: vì phá hoại nghĩa không, nên cho khổ có định tánh, khổ đã có định tánh, thì vì sao lại phải từ tập đế sinh, thế nên không có tập đế).

Nếu khổ có tính nhất định thời không thể lại phát sinh, vì trước đã có rồi. Nếu khổ đã có như vậy, thời không có tập đế, vì phá hoại nghĩa không. (tức là cho khổ đã có định tính chứ chẳng phải không).

Lại nữa,

23. Khổ nếu có tính quyết định, thời không thể có tiêu diệt. Ông chấp trước khổ có định tính, tức là phá hoại diệt đế.

Khổ nếu có định tính thời không thể diệt, vì sao ? Vì định tính thời không biến mất.

Lại nữa,

24. Khổ mà có định tính, thời không có con đường tu (để dứt khổ), nếu có con đường có thể tu tập, thế tức là không có định tính.

Nếu các pháp nhất định thật có thời không có việc tu đạo, vì sao ? Vì pháp thật có thời là thường, thường thời không thể tăng thêm. Nếu Đạo có thể tu, thời Đạo không có định tính.

Lại nữa,

25. Nếu khôngkhổ đế, và không có tập đế, diệt đế, thời đạo đếthể diệt hết khổ, rốt ráo (cuối cùng) đưa đến chỗ nào.

Các pháp nếu trước đã có định tính, thời không có khổ, tập, diệt đế, vậy hiện tại con đường diệt khổ, cuối cùng đưa đến chỗ diệt khổ nào ?

Lại nữa,

26. Nếu khổ quyết địnhtự tính, từ trước lại đây đã không thấy được (tự tính khổ), thời nay làm sao lại thấy được, vì tính của khổ trước sau không đổi khác.

Nếu trước đây khi còn là phàm phu không thể thấy khổ đế, thì nay dẫu có tu đạo cũng không thế thấy, vì sao ? Vì cái tính khổ đế không thể thấy ấy đã quyết định rồi.

Lại nữa,

27. Giống như sự thấy khổ không hợp lý, sự chấm dứt nguồn gốc khổ, sự chứng đắc tịch diệt Niết-bàn, sự tu đạo và bốn quả vị Thanh văn cũng đều không hợp lý.

Như tính khổ đế trước khi tu không thể thấy, sau khi tu cũng không thể thấy, như vậy cũng không thể có việc dứt tập, chứng diệt, tu đạo, vì sao ? Vì cái tính của tập đế từ trước lại đây không dứt, nay cũng không thể dứt, vì tính nó cố định không thể dứt. Diệt đế từ trước lại đây không chứng, nay cũng không thể chứng; vì từ trước lại đây không chứng. Đạo từ trước lại đây không tu, nay cũng không thể tu, vì từ trước lại đây không tu. Thế nên bốn sự tu hành thấy, dứt, chứng, tu đối với bốn Thánh đế đều không thể có. Vì bốn hành không có, nên bốn đạo quả cũng không có, vì sao ?

28. Thể tính của bốn đạo quả ấy, từ trước lại đây chưa hề chứng đắc, thời nay làm sao lại có thể chứng đắc, vì nếu các pháp đã có thể tính nhất định.

Các pháp nếu có định tính, thời bốn quả Sa-môn từ trước lại đây không chứng được, nay làm sao chứng được, nếu có chứng được, thời biết các pháp không có tính quyết định.

Lại nữa,

29. Nếu không có bốn Thánh quả, thời không có người đắc quả và người hướng đến đắc quả. Như vậy, vì không có tám bậc quả Thánh thời không có Tăng bảo.

Vì không có bốn quả Sa-môn, thời không có người chứng đắc quả và người đang hướng đến chứng đắc quả, vì không có tám bậc Hiền Thánh như vậy, thời không có Tăng bảo. Song Kinh nói tám bậc Hiền Thánh là Tăng.

Lại nữa,

30. Vì không có bốn Thánh đế, nên cũng không có Pháp bảo, không có Pháp bảo, Tăng bảo, làm sao có Phật bảo.

Tu tập bốn Thánh đế chứng được Niết-bàn, nếu khôngbốn Thánh đế thời không có Pháp bảo. Nếu khôngTăng bảo Pháp bảo thời không có Phật bảo. Vậy ông lấy các lý do để nói rằng các pháp có định tính, là ông phá hoại Tam Bảo.

Hỏi: Tuy luận chủ phá đổ các pháp, nhưng đạo rốt ráoquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải có, nhân nơi đạo ấy nên gọi là Phật ?

Đáp:

31. Cứ theo như ông nói, không nhân nơi Bồ-đề tâm mà có Phật, cũng không nhân nơi Phật mà có Bồ-đề.

Ông nói các pháp có định tính, thời không nhân Bồ-đề tâm mà có Phật, không nhân Phật mà có Bồ-đề, vì hai tính Bồ-đề và Phật đã có định tính thường còn.

Lại nữa,

32. Tuy siêng năng tinh tấn tu hành đạo Bồ-đề. Nhưng nếu trước đó không có Phật tính (Bồ-đề tâm), thời không thể được thành Phật.

Vì trước không có định tính, như sắt không có tính vàng, thì dầu luyện nấu đến mấy cũng không thành vàng.

Lại nữa,

33. Các pháp nếu là chẳng không, thời không có người tạo tội phước, vì tính nó đã cố định chẳng không, thời đâu có tạo tác gì được nữa.

Nếu các pháp chẳng không, thời trọn không có người làm tội phước, vì sao ? Vì tính tội phước đã có sẵn rồi. Lại không có tác nghiệptác giả.

Lại nữa,

34. Ông cho rằng trong tội phước không sinh ra quả báo, thế thời lìa ngoài tội phước có các quả báo sao ?

Theo ông đối với nhân duyên tội phước không có quả báo, vậy có thể lìa ngoài nhân duyên tội phước có quả báo, vì sao ? Vì quả báo không đợi phải có nhân mới sinh ra.

Hỏi: Lìa ngoài tội phước có thể khôngquả báo thiện ác, nhưng từ tội phước mà có quả báo thiện ác ?

35. Nếu cho rằng từ tội phước sinh ra quả báo, như vậy quả báo từ tội phước xuất sinh, làm sao nói quả báo chẳng không (tức là quả báođịnh tính).

Nếu lìa ngoài tội phước thì không có quả báo thiện ác, nhưng từ tội phước mà có quả báo thiện ác, như vậy làm sao nói quả báo chẳng không. Thế nên ông nói các pháp chẳng không, là không đúng.

Lại nữa,

36. Ông phá đổ nghĩa không của tất cả pháp do nhân duyên sinh, thời đó là phá đổ tất cả những gì hiện có của thế tục.

Nếu ông phá Đệ nhất nghĩa không của pháp do nhân duyên sinh, thời phá hết thảy pháp thế tục, vì sao ?

37. Nếu phá đổ nghĩa không (tức cho pháp có định tính), tức có thể không có làm gì, tuy không làm mà vẫn có làm, chính cái không làm đó là tác giả.

Nếu phá nghĩa không, thời tất cả kết quả đều không có tạo tác, không có nguyên nhân. Lại không làm mà có làm. Lại tất cả tác giả đều là người không làm gì. Lại lìa ngoài tác giả có thể có nghiệp, có quả báo và có người thọ quả báo. Nhưng các việc ấy đều không đúng, thế nên không nên phá không (những gì thuộc nhân duyên sinh nhất định có tạo tác, những gì không có tạo tác tức là có tự tính, không do nhân duyên sinh. Nếu cho rằng các pháp thật có tự tính, tức là không tạo tác gì, mà lại thấy thế gian có làm phước, làm tội, như vậy là tự tính không tạo tác mà lại có tạo tác, chẳng khác nào người không làm tội mà là tác giả của tội, người không đi buôn mà là thương gia, người không làm phước là tác giả của phước v.v…, trái lại người không tạo phước lại hưởng quả phước v.v…).

Lại nữa,

38. Nếu cho pháp có tính quyết định, thời các tướng trạng thế gian chẳng sinh chẳng diệt, thường trú không biến hoại.

Nếu các pháp có định tính, thời mọi tướng trạng thế gian như trời, người, súc sinh, vạn vật đều chẳng sinh chẳng diệt, thường trú không hoại, vì sao ? Vì đã có thật tính không thể biến đổi sai khác. Nhưng hiện thấy vạn vật mỗi mỗi đều có tướng biến đổi, sinh diệt biến dịch. Thế nên các pháp không thể có định tính.

Lại nữa,

39. Nếu khôngnghĩa không, thời đạo quả chưa chứng đắc không thể chứng đắc, cũng không có sự dứt phiền não, cũng không có việc sạch hết khổ.

Nếu khôngpháp không tính, thời đối với các công đức của thế gianxuất thế gian, người chưa có được đều không thể có được, cũng không có người dứt phiền não, cũng không có sự khổ hết, vì sao ? Vì đã có định tính.

40. Thế nên trong kinh nói: Nếu thấy pháp nhân duyên, thời có thể thấy Phật và thấy khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.

Nếu người nào thấy hết thảy pháp từ các duyên sinh, thời người ấy có thể thấy Phật pháp thân, tăng thêm trí tuệ thấy bốn Thánh đế khổ, tập, diệt đạo, thấy bốn Thánh đế chứng được bốn Thánh quả, dứt các phiền não. Thế nên không nên phá nghĩa không; nếu phá nghĩa không thời phá pháp nhân duyên sinh, phá pháp nhân duyên sinh thời phá Tam Bảo, nếu phá Tam Bảo là tự phá mình.

*

Tóm tắt phẩm XXIV: Quán về Tứ đế.

Bốn đế là giáo lý cương yếu của Phật pháp, là chơn lý mà Như Lai chánh quán tu tập để diệt trừ bốn thứ điên đảophiền nãochứng đắc Niết-bàn. Bốn đế chỉ duyên khởi tính không, chứ không phải có thật tính như hàng Thanh văn chấp. Phẩm này cốt bàn rõ nghĩa đó.

Trong 27 phẩm của Trung luận, phẩm Tứ đếtrọng yếu nhất, còn các phẩm kia là tùy theo chỗ kiến chấp mà phá trừ, chứ không nhất định. Vì vậy nếu hiểu được Tứ đế là hiểu được toàn bộ giáo lý Phật. Phẩm này chủ yếu phá trừ vọng chấp các pháp thật có tự tính để chỉ bày các pháp tính không chân thật, thành lập các pháp chỉduyên khởi như huyễn. Có không tính mới thành duyên khởi ra các pháp, không có không tính thì không thành duyên khởi ra các pháp. Vì vậy khi thuyết minh về tính không, không có nghĩa là phá hoại hết thảy pháp mà chính hàm ý là thành lập hết thảy pháp, chứ không phải phủ định hết tất cả. Vì không khéo hiểu nghĩa không, nên mới vội cho rằng không tức là hư vô, là không có gì cả như lông rùa sừng thỏ. Đây là một thứ ác kiến rất nguy hiểm, rơi vào hố thẳm, hoài nghi luận, ngụy biện luận, khó giải thoát được. Phẩm này cốt nêu rõ pháp tính không tịch và bốn đế không đối lập nhau giữa Đại Tiểu thừa.

Phẩm này gồm có: 1. Trách luận chủ nói không có Tứ đế (kệ 1 đến kệ 5). 2. Trách luận chủ cho khôngnhân quả tội phước (kệ 6). 3. Luận chủ trách lại và chỉ rõ không tính (kệ7). 4. Chỉ bày Tông yếu của Phật pháp (kệ 8 đến kệ 10). 5. Nêu bày pháp tính không khó hiểu (kệ 11 đến kệ 14). 6. Chấp có thành sai (kệ 15 đến kệ 17). 7. Chứng thành nghĩa trung đạo (kệ 18,19). 8. Phá hoại Tứ đế (kệ 20 đến kệ 25). 9. Việc phá hoại Tứ đế (kệ 26 đến kệ 28). 10. Phá hoại Tam Bảo (kệ 29, 30). 11. Nêu riêng về Phật đạo không thành (kệ 31,32). 12. Phá hoại nhân quả tội phước (kệ 33 đến kệ 35). 13. Phá hoại hết thảy pháp thế tục (kệ 36 đến kệ 38). 14. Kết thành Phật pháp (kệ 39,40).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11929)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12902)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11344)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52697)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10589)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19097)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13210)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13628)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18817)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19421)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12106)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12190)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17021)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14938)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12893)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14476)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant