Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Ix: Phần Kết Các Kinh

01 Tháng Chín 201000:00(Xem: 7910)
Chương Ix: Phần Kết Các Kinh

SO SÁNH KINH TRUNG A HÀM CHỮ HÁN &
KINH TRUNG BỘ CHỮ PALI
HT. Thích Minh Châu (1961)
Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

Phần Hai - Những điểm đồng và dị giữa bản Hán tạng và bản Pàli

CHƯƠNG IX: PHẦN KẾT CÁC KINH

 

Cuối mỗi bài kinh trong bản C hay P thường thường có một phần kết để chứng tỏ bản kinh đã chấm dứt và để diễn tả sự vui mừng của những người lắng nghe bài kinh do Phật nói hay do một trong những đệ tử của Ngài nói. Một nghiên cứu tỷ giảo về phần kết trong 98 kinh cho thấy những điểm sau đây:

1) 36 kinh có phần kết giống nhau;
2) 26 kinh có phần kết hơi khác, trong đó bản C có thêm các Tỳ-kheo hoặc vài đệ tử hoặc vài nhân vật;
3) 13 kinh có phần kết không giống nhau;
4) 23 kinh trong bản P không có phần kết.

1. 36 kinh có phần kết giống nhau:

Những nghiên cứu tỷ giảo sau đây cho thấy các bản kinh có phần kết giống nhau:

NC 2, 5, 8, 9, 10, 12, 13, 14, từ 16-19, 21, 24, 26-29, 32-34, 44, 47, 49, 58, 65, 70, 71, 73-75, 84, 91-93, 95.

Trong NC2, phần kết như sau:

C10: Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời đức Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

P2: Đức Thế Tôn nói như vậy, các Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Trong NC12, chính Tôn giả Mục-liền-liên giảng pháp và các Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Mục-liền-liên.

Trong NC21, chính Tôn giả Xá-lợi-tử nói và các Tỳ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Xá-lợi-tử.

2. 26 kinh có phần kết hơi khác:

Những NC sau đây có phần kết hơi khác:

7, 11, 15, 22, 25, 40, 42, 43, 45, 50, 53, 55, 57, 60, 66, 67, 72, 76, 77, 80, 81, 83, 86, 87, 88 và 90.

Trong những kinh này, trong số những người vui mừng về lời dạy của Phật hay của một đệ tử Ngài, bản C thêm "những Tỳ-kheo ấy" hoặc một vài nhân vật. Như trong NC67, bản P chỉ nói Mahàcundo vui mừng về lời dạy của Phật, nhưng trong bản C tương đương, ngoài Tôn giả Đại Chu Na còn có các Tỳ-kheo khác nữa. Trong NC25, bản P chỉ nói Dìgho parajano yakkho vui mừng về lời dạy của đức Thế Tôn, bản C ngoài Trường Khổ Hạnh còn thêm "ba thiện gia nam tử". Trong NC57, bản P chỉ nói những Tỳ-kheo ấy, nhưng bản C thêm tên Tôn giả A Nan. Trong NC60, bản P chỉ nói những Tỳ-kheo ấy, bản C thêm Phạm Ma. Điều này hơi lạ, vì Phạm Ma đã được nói đã chết trong đoạn trước. Trong NC83, P nói chỉ có mình Tôn giả A Na Luật Đà hoan hỷ lời Thế Tôn, nhưng bản C thêm các Trưởng lão Nan ĐềKim Tỳ La.

3. 13 kinh không có phần kết giống nhau:

Các NC sau đây: 1, 3, 4, 20, 30, 31, 41, 78, 85, 94, 96, 97, 98.

Trong NC1, Phần kết như sau:

C106: Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

P1: Đức Thế Tôn dạy như vậy; các Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn (theo bản in Roman script).

Nhận xét: Theo truyền thống Tích Lan, và bản kinh Tích Lan, các Tỳ-kheo không hoan hỷ với bản kinh này, Na te bhikkhù Bhagavato bhàsitam abhinandunti. Bản kinh Miến Điện ấn hành trong kỳ kết tập thứ sáu cũng theo truyền thống Tích Lan. Kinh sớ (M.A.ii, 46 ff) nói 500 Tỳ-kheo không hoan hỷ khi nghe kinh này. Khi nhận thấy điều này, Phật đã giảng cho họ truyện tiền thân Mùlapariyàya jàtaka (Căn bản pháp môn). Nhờ vậy sự kiêu mạn của họ tiêu tan, và họ xin đức Thế Tôn một đề tài thiền quán. Về sau khi Phật ở Gotamacetiya tại Tỳ Xá Ly, Ngài giảng cho họ kinh Gotamakasuttam và họ đắc quả A-la-hán (D.P.P.N. ii, p.649).

Nhưng bản in của hội Văn bản Pàli và bản Hoa ngữ thì theo phần kết thông thường, đều nói các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy. Từ phần kết bất thường của bài kinh này, sự phân biệt giữa Như lai và A-la-hán, và tư tưởng không nên thủ trước cả đến Niết-bàn, phải chăng ta có thể xem kinh này, một bản kinh mang ít nhiều tinh thần đại thừa, là một trong những bản kinh hiếm hoi đã thoát khỏi sự xoi mói của các nhà biên tập thuộc truyền thống Thượng tọa bộ, và đã được đặt vào tạng Pàli có lẽ chỉ do sơ ý. Có thể đã có thêm chữ Na để đánh dấu loại bỏ kinh ấy ra khỏi tạng Pàli, nhưng những nhà biên tập kinh Pàli về sau đã quên làm việc này.

Trong NC3, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử hoan hỷ chấp nhận lời dạy của Thế Tôn, nhưng trong bản P nói những Tỳ-kheo hoan hỷ chấp nhận lời dạy của Tôn giả Xá Lợi Phất. Sự khác biệt này là do bản C có thêm một đoạn trong đó đức Phật khen Tôn giả Xá-lợi-tử và kết thúc bài kinh, trong khi ở bản P, chính Tôn giả Xá Lợi Phất kết thúc bản kinh.

Trong NC4, hai đoạn kết như sau:

C87: Hai vị Tôn giả ấy sau khi luận thuyếtca tụng nhau, đã từ chỗ ngồi đứng dậy. Tôn giả Xá-lợi-tử đã nói như vậy, Tôn giả Đại Mục-liền-liên cùng các Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ những lời Tôn giả Xá-lợi-tử đã nói.

P5: Như vậy hai vị đại long tượng ấy cùng nhau vui mừng về sự biện thuyết của họ.

Trong NC20, những đoạn kết như sau:

C9: Như vậy hai Tôn giả cùng nhau thảo luận, và sau khi ca tụng lẫn nhau, họ hoan hỷ tín thọ. Rồi họ đứng lên khỏi chỗ ngồi và trở về chỗ trú.

P24: Như vậy hai vị đại long tượng cùng nhau hoan hỷ về bài pháp.

Trong NC30, sự khác nhau giữa hai đoạn kết như sau:

C211: Như vậy hai vị Tôn giả ca tụng lẫn nhau, nói: "lành thay, lành thay", họ cùng nhau hoan hỷ tín thọ. Rồi họ từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

P43: Tôn giả Xá Lợi Phất đã nói như vậy. Tôn giả Ma Ha Câu Thi La hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Xá Lợi Phất nói.

Trong NC31, bản C nói đến Tỳ-kheo ni Pháp Lạc và các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy; còn bản P lại nói cư sĩ Visàkha hoan hỷ lời Thế Tôn dạy. Sự khác nhau này là do trong bản C, Tỳ-kheo ni Pháp Lạc thuật lại với đức Phật cuộc đàm thoại, còn trong bản P, nam cư sĩ Visàkha đi đến đức Thế Tôn.

Trong NC41, trong bản C, những Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, còn trong P, Tôn giả Man Đồng Tử hoan hỷ lời Thế Tôn dạy.

Trong NC78, Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, còn trong P, phần cuối của bài kinh là do Tôn giả A Nan thuyết nên các Tỳ-kheo hoan hỷ lời của Tôn giả A Nan.

Trong NC85, trong bản C, các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn, trong khi ở bản C, bài kinh được chấm dứt bằng một bài kệ do đức đạo sư đọc lên, không có phần kết như thường lệ.

Trong NC94, trong bản C, Tôn giả Fu-chia-lo-so-li hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, còn trong bản P, các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy.

Trong NC96, bản C nói Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy; trong bản P, đức Thế Tôn tụng lên một bài kệ để kết thúc kinh.

Trong NC97, theo bản C, các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, theo bản P, chính là Tôn giả A Nan.

Trong NC98, bản C nói Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo trẻ hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, trong khi bản P chỉ nói các Tỳ-kheo. Bản P thêm rằng trong khi kinh này được giảng, có 60 Tỳ-kheo đạt đến sự giải thoát lậu hoặc, không còn chấp thủ.

4. 23 kinh bản P thiếu phần kết:

Đó là các kinh số 6, 23, 35, 36, 37, 38, 39, 46, 48, 51, 52, 54, 56, 59, từ 61-64, 68, 69 ,79 ,82 ,89.

Như trong NC6, bản C nói Bà-la-môn Hảo Thủ Thủy Tịnh và các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, nhưng bản P chấm dứt ngang, với việc Bà-la-môn đắc quả A-la-hán.

Trong NC23, bản C nói, Bà-la-môn Sheng-wen và người thuộc ngoại đạo tên Pilu hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, còn bản P bỏ phần kết sau khi Bà-la-môn Jànussonì xin quy y Tam bảo, làm một cư sĩ.

Trong NC35, Bà-la-môn và tùy tùng hoan hỷ lời Thế Tôn dạy.

Trong NC36, bản C nói ác ma hoan hỷ lời Tôn giả Mục-liền-liên. Điều này khá lạ lùng, khi ma mà lại hoan hỷ bài pháp của Đại Mục-liền-liên, vì bài giảng của Tôn giả cốt để hàng phục ma. Lại nữa trong bài kinh này, trước đấy đã nói là ác ma đã biến mất. Sự im lặng trong bản P về vấn đề này có lý, và cho thấy sự kết tập bản kinh P có nhiều chính xác hơn.

Trong NC39, theo bản C, Ưu Ba Ly hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, còn trong bản P, chỉ nói Ni Kiền Tử bị thổ huyết.

Trong NC59, trong bản C, vua Ba Tư Nặc, Tôn giả A Nanhội chúng hoan hỷ lời Thế Tôn dạy; nhưng trong bản P, vua Ba Tư Nặc hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, đứng lên khỏi chỗ, đảnh lễ đức Thế Tôn, nhiễu quanh Ngài rồi ra đi.

Trong NC63, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử và vô số trăm ngàn người trong chúng hội hoan hỷ lời Thế Tôn dạy. Nhưng bản P chỉ nói đức Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất rằng Bà-la-môn Đà Nhiên đã chết và được sinh lên Phạm thiên giới.

Trong NC79, bản C nói ngoại đạo và các Tỳ-kheo hoan hỷ lời Tôn giả Bạc Câu La. Nhưng không có phần kết trong bản kinh P, nói rằng Tôn giả Bạc Câu La trong khi ngồi giữa chúng hội đã nhập Niết-bàn.

Trong NC89, bản C nói thanh niên Anh Vũ, con trai của Đô Đề và vô số người trong chúng hội hoan hỷ lời Thế Tôn dạy; nhưng bản P bỏ qua phần kết và chỉ nói Todeyyaputta xin đức Thế Tôn nhận ông làm một đệ tử cư sĩ.

Nhận xét: Như vậy một cuộc nghiên cứu tỷ giảo về phần kết của 98 kinh tương đương cho thấy rằng những nhà biên tập kinh C hơi quá theo hệ thống khi biên tập kinh, vì trong 222 kinh không có một kinh nào là không có phần kết; trong khi bản P có 23 kinh không có phần kết; 36 kinh có kết luận gần giống nhau; 26 kinh có kết luận hơi khác, đã cho thấy có một nguồn gốc chung, từ đó các nhà biên tập hai tạng kinh thu thập tài liệu. Nhưng sự bỏ bớt phần kết trong một số kinh P chứng tỏ bản P có độ đáng tin cậy khá cao. Như vậy, thật khá lạ lùng khi ác ma hoan hỷ lời Tôn giả Mục-liền-liên như được thấy trong NC36; và chúng ta cũng không kém ngạc nhiên khi bản C thêm Phạm Ma hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, khi ông ta được báo cáo là đã chết trong đoạn trước như đã thấy trong NC60. Chúng ta cũng thấy bản C đã nói trong NC63 rằng có đến vô số trăm ngàn người trong chúng hội hoan hỷ lời Thế Tôn dạy. Điều này dường như mang màu sắc tư tưởng Đại thừa, và chứng tỏ đây là một sự biên tập khá muộn. Nhưng chúng ta phải nhận rằng, có thể những nhà biên tập về sau đã thêm phần kết để đem lại tính đồng nhất cho toàn thể tạng kinh A-hàm, do đó khiến cho một vài bất ổn len lỏi vào.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14092)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10840)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11975)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33628)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11318)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12888)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13028)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17863)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18950)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12519)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13122)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11792)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11678)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12734)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12615)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13928)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12907)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13266)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11709)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11700)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12308)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11940)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11976)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16089)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12858)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12206)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13218)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12467)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11794)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11239)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11726)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant