Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 17 đến 19

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 7834)
Quyển 17 đến 19

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

Quyển thứ mười bảy

--- ooOoo ---

 

Nhiếp tụng năm trong biệt môn bốn:

 

    Chiên trà tô đà dy,

    Đại y tạm thời dụng,

    Sư mộ bà-tô-đạt

    Thủ bát kỷ vật tưởng,

    A thị đa hộ nguyệt

    Tặc tưởng thủ tự y.

 

Tụng này cùng phần quảng thích của giới trộm cắp không khác nên chẳng nêu ra nữa, tìm theo đó thì thấy.

 

Nhiếp tụng sáu trong biệt môn bốn:

 

    Trư giá đa la thọ

    Mao chiên hắc hỷ viễn,

    An trí đao tử kim

    Bất dụng lưu ly khí.

 

* Duyên xứ như trước, bấy giờ vào năm bị đói, kẻ trộm bắt heo của người, đưa đến rừng rậm giết để ăn thịt, vứt bỏ xương và móng chân.

 

Thông thường, vào sáng sớm Lục chúng thức dậy leo lên lầu chùa để xem bốn phía. Nếu thấy từ xa có khói, bầy quạ bay loạn xuống, họ liền đích thân hay bảo nhau đến xem. Thấy trong rừng có khói bốc lên và quạ bay xuống nên chúng bảo nhau:

 

- Nan Đà, Ô Ba Nan Đà nơi ấy chắc có món ăn được, chúng ta nên đến đó, có thể được món gì.

 

Đến nơi, thấy xương và móng chân heo nên họ bảo nhau:

 

- Vật phẩn tảo này cũng đủ để dùng, nên nấu lên ăn.

 

Họ tự nấu lên.

 

Bấy giờ, chủ của heo tìm theo dấu vết, đi đến nơi, thấy họ nấu thịt nên bảo:

 

-Thánh giả! Mặc y phục của bậc đại tiên mà làm việc phi pháp này.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Nếu ta được phép sát sinh, chẳng lẽ không thể lấy được thịt ngon của con nai, con mang để ăn hay sao mà lại chịu lấy xương, móng heo để tự nấu ăn. Kẻ trộm đã lấy thịt ngon ăn rồi, xương thừa đầu móng là vật họ vứt bỏ, thuộc về vật phẩn tảo, vậy ta có tội gì?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Nhưng người xuất gia không nên làm việc khả ố như vậy.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên lấy vật phẩn tảo như vậy. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Có kẻ trộm, lấy mía của người, ăn khúc giữa vứt khúc gốc và ngọn. Đi đường, Lục chúng trông thấy, bảo nhau:

 

- Tôn giả, có nhiều vật phẩn tảo hãy cùng thu nhặt.

 

Họ liền nhặt lấy.

 

Chủ mía theo dấu, đến nơi, thấy Lục chúng cùng nhau thu thập khúc mía thừa, nên nói:

 

- Thánh giả! Mặc y phục bậc đại tiên mà làm việc phi pháp.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Nếu ta được phép lấy trộm, chả lẽ không lấy được mía ngon để tùy ý ăn hay sao mà lại lấy vật của người vứt bỏ. Mía này do trộm đem đến, ăn phần ngon vứt phần dỡ. Chúng ta nhặt lấy nào có lỗi gì?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Đây là việc tạo ra sự chê trách, chẳng phải việc làm của người xuất gia.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên thu nhặt vật phẩn tảo như vậy. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Có kẻ trộm lấy trái đa-la đem vào rừng chọn trái ngon vứt trái dở. Nhân đi đến đó, Lục chúng thấy vật vứt bỏ này ... như việc lấy mía, cho đến bị người tục chê trách. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai lấy như vậy, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Trong thành này, một đồng tử bán hương liệu có tấm thảm lông tốt nên yêu quý hơn các vật khác. Một hôm đồng tử bị bệnh, tuy cố trị liệu nhưng vô hiệu, sắp qua đời. Anh ta mời thân tọäc lại, thưa:

 

- Sau khi tôi chết, không được hỏa thiêu, dùng tấm thảm này quấn xác tôi lại và bỏ vào rừng.

 

Những thân tộc đang có mặt an ủi:

 

- Anh không nên sợ, chẳng phải ai bị bệnh cũng đều chết, không bao lâu nữa sẽ bình phục.

 

Nhưng mạng sống anh ta đã hết nên không giữ được hơi thở. Do quá yêu quý tấm thảm nên sau khi qua đời, đồng tử sinh làm Đại-anh-quỷ.

 

Bấy giờ, thân tộc dùng chỉ ngũ sắc trang hoàng xe tang, bọc thây bằng tấm thảm, đưa vào rừng. Bí-sô trông thấy bảo với Bí-sô Hắc Hỷ ở trong Thi Lâm:

 

- Cụ thọ! Người bán hương liệu bị bệnh vừa chết, thi hài được liệm bằng tấm thảm tốt đẹp rồi bỏ vào rừng, đó là vật phẩn-tảo nên đến lấy dùng.

 

Nghe vậy, vị ấy vội đi đến Thi Lâm lấy tấm thảm kia. Phi nhân liền làm tử thi đứng dậy giữ chặt lấy tấm thảm, nói:

 

- Thánh giả Hắc Hỷ, chớ lấy tấm thảm của tôi.

 

Người sống trong Thi Lâm rất gan dạ, bảo với quỷ:

 

- Kẻ ngu si, ngươi do tham ái tấm thảm nên sinh vào ngã quỷ, nay lại muốn đi vào địa ngục hay sao, hãy thả ra đi.

 

Do quá thích tấm thảm nên Hắc Hỷ cùng quỷ giành nhau tấm thảm, dùng chân đạp quỷ ra, giật lấy tấm thảm đem đi, về đến rừng Thệ Đa. Quỷ thây chết kia càng thêm tức giận chạy theo không bỏ, nói:

 

- Thánh giả! Hãy trả tấm thảm lại cho tôi.

 

Bí-sô chẳng thèm để ý đến cứ đi vào chùa.

 

Nhưng rừng Thệ Đa có nhiều trời, rồng, dược xoa, thiên thần thủ hộ. Quỷ này ít phúc không dám đi vào chỉ đứng ở cửa khóc lóc. Tuy biết, Phật vẫn hỏi A Nan Đà:

 

- Vì sao phi nhân khóc lóc trước cửa?

 

Bạch:

 

- Bí-sô Hắc Hỷ lấy tấm thảm lông của nó.

 

Với suy nghĩ: "Xem phi nhân này quá luyến ái tấm thảm, nếu không lấy được, tất thổ huyết nóng ra chết", Phật bảo A Nan Đà:

 

- Ông hãy đến bảo Hắc Hỷ trả lại tấm thảm cho phi nhân. Nếu không được trả lại tất thổ huyết chết. Khi trả tấm thảm, nên bảo nó đi trước, đến rừng của nó, bảo:

 

- Ngươi hãy nằm xuống, rồi phủ tấm thảm lên.

 

A Nan Đà theo đúng lời dạy, bảo Bí-sô Hắc Hỷ (đầy đủ như nói ở trên) ... cho đến dùng tấm thảm phủ lại.

 

Nghe bảo, Hắc Hỷ nói với A Nan Đà:

 

- Như lời Phật dạy, tôi không dám chống lại.

 

Bảo với quỷ:

 

- Kẻ yêu quý tấm thảm hãy đi trước đi.

 

Đến Thi Lâm, bảo nằm xuống, quỷ vâng lời nằm xuống, Hắc Hỷ lấy tấm thảm phủ lên. Bấy giờ, phi nhân dùng chân đá Bí-sô Hắc Hỷ. Nhờ có sức mạnh nên Hắc Hỷ thoát chết. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được tùy ý tự lấy y trong Thi Lâm, cũng không nên trả lại y như vậy. Khi lấy y nên từ chân hướng về đầu, khi trả y nên từ đầu hướng về chân. Bí-sô nên biết, y trong Thi Lâm có năm lỗi. Đó là:

 

    1. Màu sắc xấu.

    2. Hôi thúi.

    3. Không chắc.

    4. Nhiều rận.

    5. Bị dạ-xoa giữ.

 

Nếu y của tử thi nào không bị thương tổn thì không được lấy.

 

Nghe Phật chế như vậy, Lục chúng liền dẫn chó theo. Thấy vậy, kẻ bất tín chê trách, hỏi:

 

- Thánh giả! Ngài dẫn chó ra rừng vắng, chẳng lẽ để giết!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được dẫn chó đi theo.

 

Họ dùng dao làm thương tổn tử thi để lấy y. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, nếu có trùng kiến đã làm hư hoại tử thi, mới được lấy y.

 

Được y rồi, họ lấy mặc tùy tiện. Phật dạy:

 

- Không nên mặc liền, hãy để lại trong rừng chừng bảy tám ngày, chờ gió nắng cho khô đã, sau khi giặt nhuộm rồi mới mặc.

 

Họ liền mặc vào chùa, đi nhiễu làm lễ tháp. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Có những pháp cho Bí-sô ở Thi Lâm thi hành, Ta sẽ quy chế:

 

- Bí-sô ở Thi Lâm mặc y của người chết, không được vào chùa, không được lễ tháp. Nếu muốn lễ tháp phải ở xa bên ngoài một tầm. Không được xử dụng tăng phòng, giường và phu cụ. Không được vào ngồi trong chúng. Không được tuyên thuyết pháp nghĩa cho người đời. Không được đến nhà thế tục.

 

Nếu có việc cần phải đến, nên đứng ngoài cửa, chủ mời vào, nói: - Tôi ở Thi Lâm.

 

Nếu họ nói: - Hôm nay con được phúc lợi lớn, may mắn được thánh giả hơn cả nhiều người đi đến nhà con.

 

Nghe như vậy, nên vào nhà nhưng không ngồi giường tòa.

 

Nếu họ mời ngồi, thì đáp: - Tôi ở Thi Lâm.

 

Nếu họ nói khó được gặp thì nên ngồi, chớ nên nghi hoặc. Bí-sô ở Thi Lâm nào không theo lời dạy này, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô vứt bỏ dao cạo, kim may bừa bãi làm cho bị hư sét. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được để bừa bãi, nên cất trong tấm nỉ găm kim.

 

Bí-sô không biết nên làm thế nào. Phật dạy:

 

- Dùng mảnh nỉ hay vải lụa thoa sáp nóng lên, gói dao hay kim bên trong thì không bị sinh rỉ sét.

 

* Duyên khởi như trước. Bí-sô ny Thổ La Nan Đà trước đây có cất giữ bát bằng lưu-ly giả. Có vị ny bị khát, muốn tìm nước uống nên đến chỗ Thổ La, hỏi:

 

- Thánh giả! Tôi đang bị khát xin cho mượn bát lưu-ly để lấy nước uống.

 

- Bát đây, cô hãy cầm lấy dùng.

 

Khi dùng, cô kia làm rơi bát xuống đất bị vỡ. Sau đó, nhớ đến bát cho mượn, Thổ La Nan Đà đến đòi vị kia:

 

- Hãy trả bát lại cho tôi.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Tôi lỡ tay làm rơi xuống đất nên bị vỡ, xin làm cái khác trả lại.

 

- Hãy trả lại tôi vật cũ.

 

Nhiều lần như vậy, cùng làm phiền nhiễu nhau nên thưa với các Bí-sô. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Ny uống nước bằng bát lưu-ly nên có lỗi như vậy.Vậy nên ny không được dùng bát lưu ly để uống hay ăn. Ai xử dụng như vậy, bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng bảy trong biệt môn bốn:

 

    Tự trung ưng biến họa

    Nhiên hỏa tinh tẩy dục,

    Bát thủy bất đạp diệp

    Liên hài thực bất ưng.

 

* Duyên xứ như trước. Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi cúng vườn chùa, suy nghĩ: "Nếu không tô vẽ thì chẳng trang nghiêm. Nếu Phật cho phép, ta sẽ trang trí, nên đến gặp Phật".

 

Phật dạy:

 

- Được vẽ tùy ý.

 

Sau khi được Phật cho phép, trưởng giả sưu tập các màu sắc và gọi thợ đến, bảo:

 

- Hãy vẽ trong chùa bằng màu sắc này.

 

Đáp:

 

- Bắt đầu vẽ từ đâu và vẽ hình gì?

 

- Ta cũng chưa biết.

 

Đến hỏi Phật, Phật dạy:

 

- Trưởng giả! Hai bên cửa nên vẽ hình Dược xoa cầm trượng.

 

    Một bên mặt cửa vẽ sự biến hóa vĩ đại của thần thông. Mặt kia vẽ sự luân hồi trong năm đường sinh tử.

    Dưới hiên, vẽ truyện Bản Sinh.

    Một bên cửa Phật điện vẽ Dược-xoa cầm vòng hoa.

    Tại giảng đường, vẽ vị Bí-sô kỳ túc đang tuyên dương pháp yếu.

    Tại nhà ăn, vẽ Dược-xoa cầm bánh.

    Cửa kho, vẽ Dược-xoa cầm vật báu.

    Nhà chứa nước, vẽ rồng cầm bình nước, mang chuỗi ngọc đẹp.

    Nhà tắm, nhà bếp, y vào cách thức trong kinh Thiên-sứ mà vẽ và thêm ít nhiều cảnh biến hóa nơi địa ngục.

    Nhà xem bệnh, vẽ hình Như Lai đích thân săn sóc người bệnh.

    Nơi đại tiểu tiện vẽ hình tử thi với hình dáng đáng sợ.

    Trong phòng ở, nên vẽ bộ xương trắng, đầu lâu.

 

Nghe dạy xong, trưởng giả làm lễ Phật rồi từ giã, y theo lời dạy vẽ hoàn tất các bức họa.

 

Bấy giờ, có Bí-sô vô ý, đốt lửa bừa bãi, khói hun lên làm hư các bức họa. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta cho phép các Bí-sô làm nhà đốt lửa. Ai cần đốt lửa thì đến đó, nơi khác không được, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Bấy giờ, có người bệnh cần lửa, không dám đốt lửa dưới hiên phòng. Phật dạy:

 

- Có thể đốt lửa bên ngoài chùa hoặc sân trong của chùa, đợi cháy hết khói mới đem lửa vào.

 

Duyên xứ như trước. Bí-sô tắm rửa ngay dưới hiên, ẩm ướt làm hư bích họa. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, ngay trong phạm vi chùa gần một góc, mặt hướng về tượng phật mà tắm rửa, hoặc có thể làm phòng tắm riêng.

 

Trong phòng tắm có bùn. Phật dạy:

 

- Xếp gạch làm đường thoát nước, nếu có bất tịnh thì luôn luôn được chảy sạch, hoặc gần ngòi nước để tiện việc tắm rửa.

 

* Duyên xứ như trước. Trong thành này có một Bà-la-môn. Người con bị bệnh, ông ta đến gặp thầy thuốc, hỏi:

 

- Con tôi bị bệnh như vậy, mong ngài chữa trị.

 

Người kia có tín tâm đáp:

 

- Ngài hãy đến gặp thánh chúng xin nước trong bát, dùng rửa thân thể, tất hết bệnh.

 

Nghe như vậy, Bà-la-môn liền đi đến vườn Cấp Cô Độc. Lục chúng đang ở trước cửa, Ô Ba Nan Đà thấy Bà-la-môn, bảo:

 

- Xin chào! Sao ngài ít khi xuất hiện như trăng đầu tháng vậy.

 

Đáp:

 

- Kính lễ thánh giả! Con thật ít đến, nay mới may mắn gặp nhau, nếu thường đến, ngài sẽ xem thường.

 

Hỏi:

 

- Ông đến có việc gì?

 

- Thánh giả, con của con bệnh nặng, đến hỏi thầy thuốc, họ bảo:

 

- Xin nước trong bát của các thánh giả để tắm thì hết bệnh. Vậy nên con đến xin, mong ngài ban cho.

 

- Hãy ở đây, ta đi lấy nước cho.

 

Ô Ba Nan Đà vào chùa, ăn xong rửa bát, bỏ cơm mỳ rau bánh trái lá ăn thừa vào hòa với nước quậy lên rồi mang ra ngoài, bảo với Bà-la-môn:

 

- Đây là nước trong bát, ông hãy lấy dùng.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Con của con thà chết chứ làm sao dùng vật bất tịnh này tắm rửa được?

 

ÔÂ-Ba Nan Đà nói:

 

- Nếu tín tâm của ông thành tựu chắc chắn bệnh của con ông chắc hết.

 

Bà-la-môn càng thêm khinh khi. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Do đem vật đáng gớm bỏ vào bát nên có lỗi như vậy. Ai làm như vậy, bị tộâi vượt pháp". Nhưng các Bí-sô đưa bát nước cho người có những pháp phải làm, Ta sẽ chỉ dạy, trước hết rửa sạch bát ba lần, đổ nước vào đầy rồi tụng kinh Phật chú nguyện vài lần, sau đó mới đưa cho họ. Ai không làm theo bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Mỗi khi ăn, các Bí-sô đạp chân lên lá lót bát. Người tục thấy vậy, chê bai:

 

- Sa môn Thích tử thật không thanh tịnh, đạp lên lá lót bát mà ăn.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên đạp lên lá mà ăn. Ai làm vậy, bị tội vượt pháp.

 

Phật tại thành Quảng-Nghiêm.Có Bí-sô khi ăn vẫn mang giày dép. Người tục chê:

 

- Sa-môn Thích-tử ăn không thanh tịnh.

 

Phật dạy:

 

- Khi ăn không nên mang giày dép. Ai làm vậy, bị tội vượt pháp.

 

Bấy giờ, có người bệnh khi ăn bỏ giày dép ra nên bệnh nặng thêm. Phật dạy:

 

-Người bệnh khi ăn có thể bỏ giày dép ra rồi đạp chân lên.

 

 

 

Nhiếp tụng tám trong biệt môn bốn:

 

    Vô bát độ đại tặc,

    An cư vô y chỉ,

    Ngũ niên đồng lợi dưỡng.

    Phụ trọng bất ưng vi.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Ô-Ba-Đà-Da độ một đệ tử nhưng không cho họ bát. Khi mọi người thọ trai xong, tự rửa bát của mình đặt nơi sạch sẽ, rồi đi kinh hành lễ tháp. Thấy những bát này, người mới xuất gia kia suy nghĩ: "Có bát để không, ta đem đi thọ thực sau đó trả lời".

 

Người này muốn lấy bát của thượng-tọa A-Nhã-Kiều-Trần-Như. Người khác nói:

 

- Đây là bát của bậc Tôn giả, ông không nên lấy.

 

Lại muốn lấy bát khác của Tôn giả Mã-Thắng, Hiền-Thiện ... Bí-sô hỏi:

 

- Ông không có bát hay sao?

 

Đáp:

 

- Không có.

 

- Trước đây, không có bát, ai độ ông xuất gia?

 

Đáp:

 

- Ô Ba-Đà-Da Ô Ba Nan Đà độ cho tôi xuất gia.

 

Bí-sô chê trách trừ kẻ ác hạnh kia ra, ai lại không cho bát mà độ họ xuất gia. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được độ người không có bát xuất gia. Ai làm như vậy, bị tội vượt pháp. Phàm muốn độ cho người khác xuất gia, trước phải sắm đủ sáu vật cần dùng là ba y, phu cụ, bát và lưới lược nước.

 

Cụ thọ Ô-Ba-Ly thưa Thế Tôn:

 

- Biết họ không có bát mà cho thọ cận-viên có thành cận-viên không?

 

Phật dạy:

 

- Thành, chúng cho thọ bị tội vượt pháp.

 

Cụ thọ Ô-Ba-Ly thưa:

 

- Có Bí-sô cho họ bát quá nhỏ hay quá lớn hoặc dùng bát trắng cho thọ cận viên, có thành cận viên không?

 

Phật dạy:

 

- Thành, chúng cho thọ bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Tên giặc lớn nọ khi đang trộm vật, bị chủ biết được nên bỏ vật ra chạy trốn, đến rừng Thệ Đa thì hết đường chạy nên ngồi ôm mặt dưới một gốc cây.

 

Vào sáng sớm, Ô Ba Nan Đà mặc y mang bát vào thành khất thực, trên đường thấy tên giặc nên hỏi:

 

- Ngươi là ai?

 

- Tôi là kẻ nghèo.

 

Hỏi:

 

- Nếu vậy sao không xuất gia?

 

- Xin nói về chuyện của tôi rồi mới bàn việc xuất gia. Tôi là giặc lớn, ai lại thu nhận?

 

Đáp:

 

- Giáo pháp của đức Thế Tôn lấy từ niệm làm đầu, sao lại không thương xót cùng tiếp dẫn nhau, chỉ cần ngươi phát tâm, ta sẽ cho xuất gia.

 

- Lành thay, thánh giả! con muốn xuất tục.

 

Ô Ba Nan Đà cho xuất gia và thọ cận viên rồi bảo:

 

- Hiền thủ, chả lẽ không thấy nai chẳng tự nuôi nai hay sao? Tại thành Thất La Phiệt rộng rãi này là chỗ hoạt động của tổ phụ, hãy đi khất thực để tự nuôi sống.

 

Nghe như vậy, vào sáng sớm, tân Bí-sô này mặc y mang bát vào thành khất thực. Trong khi đang đi, những người dân đều nhớ biết vị này nên bảo nhau:

 

- Đây là tên giặc lớn, nay được xuất gia.

 

Họ lại cùng nhau hiềm khích:

 

- Lành thay, Sa-môn Thích tử biết hắn là giặc cũng cho xuất gia, ban ngày đi tuần từng nhà để ngầm biết nơi chốn, ban đêm làmgiặc để trộm tài sản của người.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Độ cho giặc xuất gia có những lỗi như vậy ", nên bảo các Bí-sô:

 

- Không được cho kẻ giặc lớn xuất gia. Ai độ họ bị tội vượt pháp.

 

Bấy giờ có Bí-sô không biết rõ họ là giặc hay không, nên không cho xuất gia, tạo thành nạn duyên làm nghịch đường xuất ly. Phật dạy:

 

- Nếu biết họ là giặc thì không cho xuất gia. Nếu không biết thì tùy ý độ họ. Nếu có người đến cầu xuất gia, trước phải hỏi hỏi: - Người không phải giặc phải không? Ai không hỏi mà cho xuất gia bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Trú xứ nọ có một Bí-sô được nhiều môn nhân đến y chỉ. Khi vị này qua đời, nên không còn người y chỉ. Môn nhân bàn nhau:

 

- Ta không có y chỉ nay phải làm sao?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Những môn nhân nên tìm cầu người có đức, cung cấp phòng tốt, miễn các công tác, đầy đủ thị giảngọa cụ. Có được y chỉ thì tốt, nếu chắc chắn không có thì các Bí-sô không được ở đó đến lần Bao-sái-đà (bố-tát) thứ hai. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Trú xứ nọ, các Bí-sô sắp cầu y chỉ nhưng vị thầy y chỉ đột nhiên qua đời. Những người này bàn nhau:

 

- Ta phải làm sao?

 

Họ bạch Phật, Phật dạy:

 

- Những người này nên cầu thầy y chỉcung cấp như trước. Nếu được thì tốt, nếu không Bí-sô không được nhập hạ ở đó. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Trú xứ nọ, Bí-sô tiền an cư, vị thầy y chỉ bị bệnh qua đời. Họ bàn nhau:

 

- Chúng ta sẽ làm gì?

 

Bí-sô bạch Phật, Phật dạy:

 

- Nên tìm thầy y chỉcung cấp như trước. Nếu được thì tốt, bằng không có, các Bí-sô phải đi đến trú xứ khác cầu thầy y chỉ mà hậu an cư. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Có Bí-sô y chỉ vào một thầy để hậu an cư nhưng vị thầy qua đời. Phật dạy:

 

- Có thể trong hai tháng cùng kiểm sát nhau, sống chung cẩn thận. Qua khỏi hai tháng, nếu có thầy y chỉ phải cung cấp như trước. Nếu không có, không được để kéo dài qua kỳ trưởng tịnh thứ hai, nên đến trú xứ khác cầu y chỉ sư. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Lại có Bí-sô xuất gia thọ Cận viên ở trú xứ nọ. Vị bổn sư qua đời nên không biết phải làm sao. Phật dạy:

 

- Tất cả những việc làm đều phải y vào thầy y chỉ như trước. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Duyên xứ như trước. Tụ lạc nọ có một trưởng giả làm một trú xứ đầy đủ tiện nghi đem cúng cho tứ-phương Tăng già, sau đó ông ta bị quan bắt giữ. Nghe như vậy, Bí-sô bỏ chùa ra đi, vật của Tam-bảo bị trộm lấy mất.

 

Sau khi biết trưởng giả được thả về, Bí-sô đến thăm hỏi:

 

- Trưởng giả, xin biết cho, trước đây bỏ chùa đi nên mất cả đồ dùng.

 

Trưởng giả thưa:

 

- Vì sao thánh giả bỏ chùa ra đi?

 

- Tôi nghe trưởng giả bị vua bắt giữ nên tâm sợ sệt bỏ chùa ra đi.

 

Đáp:

 

- Con tuy bị giữ, còn có thân thuộc, chả lẽ bị giữ hết sao?

 

- Họ có thể cung cấp được vì sao đi vội vã vậy?

 

Họ nghe vậy đành im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên bỏ đi mà phải hỏi thân thuộc của họ, chủ chùa bị giữ, các vị có khả năng cung cấp cho không?

 

Nếu họ có khả năng thì tốt, nếu không thể thì tùy duyên khấùt thực trong vòng năm năm để sống giữ chùa. Chủ chùa về thì tốt, nếu không thoát được thì sống ở trú xứ gần bên trong năm năm cùng hưởng lợi dưỡng nhưng thuyết giới riêng. Nên tác pháp yết-ma theo trình tự: - Trải tòa, đánh kiền chùy, tác bạch với đại chúng tập họp lại, sai một Bí-sô tác bạch yết ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Nay tại trú xứ ... thí chủ tạo chùa hoặc bị vua hay giặc bắt giữ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng đồng ý, nay Tăng đối với trú xứ này cùng trú xứ ... trong năm năm đồng hưởng lợi dưỡng nhưng trưởng tịnh riêng. Đây là lời tác bạch.

 

Thứ đến tác yết ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Nay thí chủ tạo chùa ở trú xứ ... hoặc bị vua hay giặc bắt giữ. Nay Tăng đối với trú xứ và trú xứ ... trong năm năm cùng hưởng lợi dưỡng nhưng trưởng tịnh khác nhau. Nếu các cụ thọ đồng ý cho trú xứ này và trú xứ kia trong năm năm đồng lợi dưỡng, trưởng tịnh riêng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Tăng già đã tác pháp đồng lợi dưỡng, biệt trưởng tịnh trong năm năm cho trú xứ này cùng trú kia rồi. Tăng đã đồng ýim lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy.

 

Nếu mãn năm năm người chủ trở về thì tốt, bằng không trở lại cho đến mười năm cũng tác pháp đồng lợi dưỡng biệt trưởng tịnh như vậy. Chủ về thì tốt, nếu không về thì đem ngọa cụ cùng tạp vật trong chùa giữ cho chùa gần bên rồi đóng chặt cửa chùa, tùy ý ra đi. Khi chủ trở về thì đem trả lại những vật đã gửi cho họ. Trả lại thì tốt, nếu không trả, Bí-sô bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô vác vật nặng đi, người tục thấy vậy cười chê:

 

- Người đời chúng tôi phải phục vụ cho cha mẹ vợ con vua quan nên đích thân gánh vác là việc tất nhiên. Quý ngài vì ai mà làm việc khổ nhọc như vậy.

 

Họ nghe chê đành im lặng.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được vác vật nặng. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật chế như vậy, Lục chúng lại đội mang vật nặng trên đầu, vai, bên hông ... nên bị chê cười, v.v ... cho đến... không được mang vật nặng như vậy. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng chín trong biệt môn bốn:

 

    Tứ y cầu lục vật

    Tặc đạo Bí-sô y,

    Uỷ ký ngũ chủng thù,

    Tu tri nhiễm phương pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Bà-la-môn muốn xuất gia nên đến rừng Thệ Đa. Sau khi vào chùa, ông ta thấy các Bí-sô cầm gậy ôm bát sắp đi khất thực, nên suy nghĩ: "Ta nên hỏi họ đi đâu vậy?".Hỏi:

 

- Thánh giả sắp đi đâu vậy?

 

- Tôi đi khất thực.

 

Hỏi:

 

- Chẳng lẽ các Bí-sô đều khất thực hay sao?

 

- Các vị đại đứcmọi người đều biết thì có nhiều thí chủ mang vật thực đến cúng dường; người không có thí chủ thì đi khất thực.

 

Người này suy nghĩ : Nếu ta xuất gia cũng đi khất thực nào có đặc biệt gì, đến với Thích Ca tử cũng không thoát lao nhọc.

 

Lại suy nghĩ: "Ta hãy hỏi lại các Bí-sô khác, chỉ vì khất thực nên xuất gia hay còn có việc khác".

 

Đến gặp vị khác, họ hỏi:

 

- Vì sao ông đến đây?

 

- Thánh giả! Có việc mới đến, xin được hỏi ... các vị y vào đâu mà xuất gia?

 

Đáp:

 

- Hỏi thật hay, hãy an tọa, tôi sẽ nói cho ông.

 

Tâm người kia muốn cầu xuất gia nên làm lễ rồi ngồi xuống.

 

Bí-sô nói:

 

- Người xuất gia trong Phật pháp có bốn pháp phải y vào để xuất gia thọ cận-viên thành tựu tánh Bí-sô. Bốn y đó là:

 

Phật dạy các Bí-sô mặc y phẩn tảo thanh tịnh dễ có, sống bằng khất thực, ở dưới gốc cây, dùng trần khí dược thanh tịnh dễ có. Y vào bốn pháp này xuất gia thành tựu tánh Bí-sô.

 

Nghe như vậy, Bà-la-môn nói:

 

- Thánh giả, ai có thể y vào đó mà sống nổi? Bản ý của tôi là cầu xuất gia nhưng thấy việc này khó làm vậy xin từ giã.

 

Ông ta cho xuất giasự chướng ngại lớn.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Nói pháp tứ y cho người chưa xuất gia nên có lỗi như vậy. Do đó Bí-sô thấy người chưa xuất gia chưa thọ cận viên, không nên nói pháp tứ y cho họ. Ai nói trước bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Trưởng giả nọ lấy vợ chưa lâu sinh được một nam. Cậu ta vừa mới lớn, bị cha giận mắng, nên suy nghĩ: Thật khó phục vụ cho cha, nên xuất gia.

 

Thấy cậu ta đến rừng Thệ Đa, Ô Ba Nan Đà hỏi:

 

- Vì sao đến đây?

 

Đáp:

 

- Con muốn xuất gia.

 

- Đây là việc thiện. Như lời Phật dạy, người xuất gia có năm lợi ích thù thắng, nói rộng như trước, được Phật khen ngợi. Nhưng người xuất gia cần có sáu vật.

 

Hỏi:

 

- Sáu vật gì?

 

- Ba y, bát, lưới lược nước và phu cụ.

 

Hỏi:

 

- Nhưng con không có.

 

- Ngươi hãy tạm về đi, ta sẽ tìm sáu vật đó cho ông.

 

Cậu ta từ giã, biết cha mẹ đã từ bỏ nên không về nhà mà đến nhà thân thuộc. Thân thuộc biết đây là con trưởng giả đang muốn xuất gia nên không cho đi, cưới vợ cho cậu ta.

 

Đã tìm được sáu vật, sau đó Cụ thọ Ô Ba Nan Đà vào thành khất thực, thấy đồng tử ấy nên bảo:

 

- Hiền thủ, ta đã tìm đủ sáu vật, hãy đến ta cho xuất gia.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, con cũng đã tìm được sáu vật cần dùng.

 

Hỏi:

 

- Sáu vật như thế nào?

 

- Đó là mắt tai mũi lưỡi thân và ý.

 

Hỏi:

 

- Đó là vật gì?

 

- Quyến thuộc của con đã cưới vợ cho con có đầy đủ sáu vật, vậy nên hiện nay con không thể xuất gia được.

 

Do nhân duyên này làm trở ngại lớn cho việc xuất gia thọ cận viên. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Từ nay về sau nếu người nghèo đến cầu xuất gia thọ cận viên, nên mượn cho họ sáu vật cần dùng. Vì sao?

 

- Được xuất gia thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô trong thiện pháp luật, thật khó gặp được.

 

Sau khi thọ cận viên, họ tự tìm kiếm trả lại cho chủ cũ.

 

* Duyên xứ như trước. Nhiều Bí-sô du hành nhân gian, giữa đường bị giặc cướp đoạt y vật. Giặc đem bán các vật này gần rừng Thệ Đa. Đến nơi, Bí-sô bị cướp thấy y bát của mình liền nhận ra hết nên kêu lớn với mọi người:

 

- Bắt lấy giặc, bắt lấy giặc, y bát của chúng tôi bị chúng cướp đem đến đây.

 

Tiếng kêu vang dậy làm giặc chạy tán loạn, bỏ y bát lại. Các Bí-sô thu lại y bát của mình và về chỗ ở, suy nghĩ:

 

- Những vật này có nên lấy lại không?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên kinh động họ. Những vật họ cướp là vật thuộc về họ.

 

Như lời Phật nói, những vật họ cướp được là vật thuộc về họ. Lại có Bí-sô du hành nhân gian bị giặt cướp đồ vật. Y bát nào bị tay giặc chạm đến, Bí-sô liền vứt bỏ rồi thọ dụng y bát hư rách khác. Phật dạy:

 

- Bí-sô mất vật không nên vội vàng có tâm vứt bỏ, trong khi giặc chưa có tâm xác định vật thuộc của họ, lúc gặp nên lấy lại.

 

Lại có Bí-sô gặp giặc như trước. Giặc đến vườn Cấp-cô bán y vật của Bí-sô. Thấy y, Bí-sô nhớ lại của mình, bắt giặc đưa đến nhà vua. Giặc bị gông cùm trói đánh tra khảo đau khổ vô cùng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được đưa giặc đến nhà quan, nên thuyết pháp cho họ và xin vật lại. Nếu họ không cho thì trả một nữa giá trị. Nếu họ cũng không chịu thì trả hết giá trị. Vì sao? y bát hoàn chỉnh thật khó có được.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô dùng phân bò, đất, cây chà răng và nước nhuộm, khi đi ra ngoài không có tâm tiếc rẻ nên vứt bỏ. Thấy vứt bỏ, các Bí-sô khác đều nghi ngại nên không dám lấy dùng, cho nên bị hư hoại. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên tưởng là bạn thân rồi lấy dùng. Phàm là bạn thân có thể gửi gắm được có năm hạng:

 

    1. Có tâm thương mến nhau.

    2. Ý thích thân cận.

    3. Tôn trọng nhau

    4. Hiểu biết nhau đã lâu.

    5. Nghe dùng tài vật của mình thì vui mừng.

 

Vật của năm hạng người này, tuy không hỏi chủ, bạn lấy dùng không có lỗi.

 

Lại nữa, biết rõ vật họ đã bỏ, lấy dùng với ý tưởng không có chủ thì không lỗi.

 

* Duyên xứ như trước. Phật cho phép nhuộm y, các Bí-sô nhuộm y nơi đất trống ngoài chùa hay nơi kinh hành, bị bụi làm dơ bẩn và mưa gió làm ướt. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên nhuộm y trong chùa.

 

Khi nhuộm y trong chùa, nước nhuộm chảy ra đất đỏ như máu. Thấy vậy, người đời nói:

 

- Thánh giả, chỗ này có giết bò dê hay sao?

 

Đáp:

 

- Không phải giết chúng sinh, chỉ là nước nhuộm chảy xuống đất.

 

- Thánh giả, nước nhuộm chảy xuống đất, sao không quét dọn?

 

Phật dạy:

 

- Tại chỗ nhuộm, nên dùng phân bò hay bùn đất trát lại cho sạch.

 

Họ trát nhiều lớp làm hao tổn chỗ đất đá tro. Phật dạy:

 

- Nơi đất đá tro nên dùng nước dội rửa, nơi khác nên trát láng. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng mười trong biệt môn bốn:

 

    Tu tri tài thọ pháp

    Tặc đạm tác thần thông

    Nhược đắc thượng phi y

    Bất ưng cát khứ khiển.

 

* Duyên khởi tại vườn Trúc Lâm, thành Vương-xá. Trên núi Thắng-Thân, Thế Tôn dạy cho Thiên-Đế-Thích thấy được chân đế. Tại nơi đó, vua Ảnh-Thắng tổ chức đại pháp hội, tất cả nhân dânMa Kiệt Đà đều vân tập đến. Trên núi không có cây cối, khi nhân dân tụ tập đến bị nóng bức nên thưa với Bí-sô:

 

- Lành thay quý ngài, có thể trồng cây bóng mát nơi đây.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép.

 

- Hiền thủ, có gì không đúng?

 

Bí-sô im lặng. Phật dạy:

 

- Ta cho phép trồng cây.

 

Sau khi trồng cây, Bí-sô bỏ đi nên cây bị chết. Năm sau, mọi người trở lại tập trung hội hè bị nóng như trước, hỏi:

 

- Thánh giả, trước đây có trồng cây không?

 

Đáp:

 

- Đã trồng.

 

- Nay sao không có?

 

Đáp:

 

- Trồng rồi bỏ đi không gìn giữ nên bị phá hoại và khô chết nhiều.

 

- Các vị khi mới sinh, nếu cha mẹ không nuôi dưỡng tất bị tổn hại. Cây cũng cần phải bảo dưỡng, chờ lớn mạnh mới bỏ đi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên trồng cây rồi bỏ đi nơi khác.

 

Bí-sô không biết bảo dưỡng cây, tháng mùa đông sợ chết nên lấy lá phủ lại bị lửa đồng đốt cháy.

 

Phật dạy:

 

- Nên làm bờ che bốn phía để bảo dưỡng.

 

Cây bị nóng nên hư hại. Phật dạy nên chừa lỗ trống.

 

Mùa hạ mưa nhiều ứ nước nên úng chết. Phật dạy:

 

- Mùa hạ nên bỏ tường che và làm lỗ thông nước.

 

Cây chưa đủ lớn, họ bỏ đi nên bị chết như trước. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta sẽ quy định cách thức trồng cây. Nếu là cây hoa, hoa trổ thì được đi. Nếu là cây trái, khi có trái thì được đi.

 

Bấy giờ, có Bí-sô vì việc gấp phải đi ngay, không biết phải làm thế nào. Phật dạy:

 

- Nên ủy thác cho người giữ vườn hay thân hữu rồi tùy ý ra đi.

 

* Duyên xứ như trước. Vua Kiền Đà La ở phương Bắc gửi tấm len thượng hạng cho vua Ảnh-Thắng. Nhận được, vua dâng đến Tôn giả Tất-Lân-Đà-Bà-Ta. Tôn giả mang đi vào nơi A Lan Nhã. Nghe nói sự việc vua được tấm len thượng hạng cúng cho Tôn giả mang vào A Lan Nhã, bọn giặc bàn nhau:- Đấy là vật quý, chúng ta phải làm sao?

 

Một tên nói:

 

- Nên đi đoạt lấy chứ làm gì nữa!

 

Ngay đêm ấy, bọn chúng đến A Lan Nhã cầm gậy gõ vào cửa. Tôn giả hỏi:

 

- Người là ai?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, tôi là nhóm giặc.

 

Hỏi :

 

- Muốn tìm kiếm gì?

 

Đáp:

 

- Muốn lấy tấm len quý. Nếu được, tôi đưa tay vào cửa sổ.

 

Giặc đưa tay vào, Tôn giả tác ý niệm gia trì: - Chớ làm cho tấm len này bị đoạt, bị thiêu, kéo ra mãi cũng không hết.

 

Tên giặc liền kéo ra một bên, kéo mãi không hết làm thành một khối không biết cùng tận nên dùng dao cắt nhưng không cắt được, lại dùng lửa đốt nhưng vẫn không cháy. Chúng nói:

 

- Thánh giả Tất-Lân Đà Bà Ta vì sao làm phiền tôi vậy?

 

- Này kẻ ngu si, ngươi không làm phiền ta, làm sao ta phiền ngươi, ngươi dùng hết sức kéo ta cũng không thả ra.

 

Giặc bàn nhau:

 

- Tôn giả có đại thần thông, ta không thể địch lại, nên chạy trốn đi chớ để vua bắt.

 

Bọn chúng thả tấm len rồi chạy mất dạng. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: Do mang tấm len thượng hạng vào A Lan Nhã nên có lỗi như vậy.

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Tất-Lân-Đà-Bà-Ta hành động phi lý vì mang tấm len thượng hạng sống trong A Lan Nhã. Thế nên Bí-sô không được mang tấm len giá trị thượng hạng mà sống trong chỗ vắng. Ai vi phạm bị tội vượt pháp. Nếu có Bí-sô ở A Lan Nhã được tấm len tốt như vậy, nên để trong thôn nhờ người giữ.

 

Sau đó, có Bí-sô ở A Lan Nhã được tấm len tốt khác, đem gửi trong nhà thế tục, vào sống trong rừng nên tấm len bị trùng ăn. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, bên trong tấm len nên lót lá Khổ-Sâm hoặc A Quỳ hoặc lá Khổ đống. Nếu không có những loại ấy thì nên treo trên giá, thường xuyên phơi khô.

 

Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Trưởng giả Cấp Cô Độc thường đến lễ Phật và các Tôn giả. Vào mùa lạnh, trưởng giả thấy khắp nơi các Bí-sô nằm ngủ co ro, không tu tập thiện pháp, hỏi:

 

- Thánh giả! Giáo pháp của Thế Tôn chuyên cần tu tập, vì sao Tôn giả bỏ phế việc tu tập thiện phápnằm ngủ vậy?

 

Đáp:

 

- Tôi cố chịu khổ lạnh làm sao tu tập?

 

Nghe như vậy, trưởng giả làm lễ từ giã về nhà, lấy ra năm trăm tấm y bạch điệp đem đến cúng cho Tăng. Bí-sô nhận được, cắt bỏ phần vải thừa, dùng đá đỏ nhuộm màu đem mặc.

 

Sau đó, trưởng giả đến các phòng nhưng không thấy những tấm bạch điệp kia, nên hỏi:

 

- Thánh giả, sao không thấy những tấm vải của con cúng?

 

Bí-sô kể lại sự việc trên. Trưởng giả nói:

 

- Thánh giả, con đem những tấm vải thượng hạng đến cúng vì sao lại làm hư đi? Xin giữ lại phần vải thừa để xử dụng.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vật của tăng không nên cắt phần thừa đi, giữ như vậy mà dùng. Ai cắt đi bị tội vượt pháp.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển mười bảy hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười tám

 

--- ooOoo ---

 

Tụng tổng biệt môn thứ năm:

 

    Phần thi cật tam chuyển,

    Xả đọa ngã thân vong,

    Giới Bí-sô bất ưng,

    Bất hợp ngũ bì dụng.

 

Nhiếp tụng một trong biệt môn năm:

 

    Phần thi tụng tam khải,

    Mục Liên nhân đả vong,

    Bất ưng quảng đại tác,

    Đa hoặc chư trân bảo.

 

* Duyên khởi tại rừng Thệ Đa, thành Thất La Phiệt. Trong thành có một trưởng giả lấy vợ chưa bao lâu sinh được một trai. Tuổi vừa khôn lớn, cậu này xuất gia trong Phật-pháp, chẳng may bị bệnh qua đời. Các Bí-sô mang thi thể cùng y bát bỏ một bên đường. Có người thế tục thấy vậy nói:

 

- Sa-môn Thích-tử chết bị vứt bỏ.

 

Có người nói:

 

- Ta hãy xem thử.

 

Xem xong, họ biết rõ nên báo cho mọi người đấy là con của trưởng giả. Mọi người chê trách:

 

- Xuất gia trong Thích tử không được giúp đỡ. Trước đây, nếu người ấy sống tại gia tất được thân quyến hỏa thiêu đúng pháp.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu Bí-sô chết, nên cúng dường thân thể vị ấy.

 

Bí-sô không biết cúng dường như thế nào. Phật dạy:

 

- Nên hỏa thiêu.

 

Cụ thọ Ô-Ba-Ly thưa Thế Tôn:

 

- Như Phật đã dạy trong thân thể có tám vạn hộ trùng, làm sao được thiêu?

 

Phật dạy:

 

- Những loại trùng này, người sống chúng sống, người chết chúng chết theo, thiêu không có lỗi. Thân có lở lói, xem kỹ không có trùng mới được thiêu.

 

Khi sắp thiêu, không tìm được củi. Phật dạy:

 

- Có thể thả xuống sông. Nếu không có sông thì đào lỗ chôn.

 

Mùa hạ đất ẩm có nhiều trùng kiến. Phật dạy:

 

- Chỗ khuất sâu trong rừng lớn, đặt thi thể đầu hướng về Bắc, nghiêng bên phải, dùng cọng cỏ giữ đầu, phủ trên thân bằng cỏ hay lá. Khi tống táng Bí-sô nên bảo người có khả năng tụng kinh Tam Khải Vô Thường và đọc kệ chú nguyện cho họ.

 

Xong việc về chùa, họ không tắm rửa đã giải tán. Thấy vậy, người tục chê trách:

 

- Thích-tử thật nhơ bẩn, tiếp xúc tử thi mà không tắm rửa.

 

Phật dạy:

 

- Không nên vậy, phải tắm rửa.

 

Họ đều tắm hết. Phật dạy:

 

- Ai trực tiếp tiếp xúc với thây chết thì tắm. Ai không trực tiếp thì chỉ rửa tay chân.

 

Họ về chùa không lễ bái tháp. Phật dạy:

 

- Nên lễ bái tháp.

 

* Duyên khởi tại thành Vương-xá. Cụ thọ Xá-Lợi-Tử và Mục-Kiền-Liên thường xuyên quán sát năm đường địa-ngục, ngã-quỷ, bàng-sinh, trời, người. Khi tuần hành đến địa ngục Vô-gián, Xá Lợi Tử bảo Mục KiềnLiên:

 

- Cụ thọ nên làm cho ngừng lại sự khổ nóng bức trong địa ngục này.

 

Nghe nói như vậy, Mục-Kiền-Liên bay lên hư không mưa trận mưa lớn hạt to như bánh xe trên đại địa ngục. Mưa rơi đến đâu cũng bị lửa dữ trong địa ngục làm tiêu mất. Thấy như vậy, Xá-Lợi-Tử bảo với Mục-Liên:

 

- Cụ thọ hãy ngừng lại để tôi diệt lửa ấy.

 

Đáp:

 

- Tùy ý!

 

Xá-Lợi-Phất liền nhập vào giải thoát Tam Ma Địa mưa trận mưa lớn làm cho ngục Vô-gián đều thành bùn, trở nên mát mẻ các khổ ngưng lại. Họ thấy ngoại đạo Bộ Kích Noa vì ngày trước giảng giáo thuyết tà ác cho người, đang chịu quả báo thân lớn, trên lưỡi có năm trăm cày sắt cày cho đổ máu. Thấy hai Tôn giả, ông ta nói:

 

- Đại đức, nếu các ngài đến châu Chiêm Bộ truyền lời tôi nói đến môn đồ của tôi: "Vì sinh thời, miệng tôi nói pháp tà khi dối người khác. Do sức ác nghiệp ấy đọa vào ngục Vô-gián, trên lưỡi tôi có năm trăm cày sắt, cày cho đổ máu chịu khổ vô cùng". Khi các người cúng dường tháp thờ tôi làm thân tôi càng thêm đau khổ kịch liệt. Từ nay về sau chớ nên cúng dường.

 

Nghe nói như vậy, hai Tôn giả im lặng ghi nhận. Từ địa ngục về thành Vương-xá, hai người cùng nhau đi vào trong thành, trên đường gặp các ngoại đạo thuộc hệ phái cầm trượng, chùy và vòng hoa. Bọn họ thương nghị:

 

- Ta muốn đánh Sa-môn Thích tử kia.

 

Một người nói:

 

- Thật đúng lúc, nhưng họ có lỗi mới đánh, chớ làm hại vật chịu nghe. Ta hỏi trước, vừa ý ta thì tốt, nếu không vừa ý thì đánh chẳng muộn.

 

Xá Lợi Tử đi trước, vừa đến nơi, bị hỏi:

 

- Bí-sô, trong chúng chánh mạng có Sa-môn không?

 

Suy nghĩ: "Câu hỏi này với tâm nào, Xá Lợi Tử quán sát biết họ muốn đánh nên nói kệ: (Ngoại đạo lõa hình tự xưng là chánh mạng).

 

    Trong chúng Chánh Mạng không Sa Môn,

    Sa-môn có trong chúng Thích Ca,

    Nếu A-la-hán có tham ái,

    Tức là phàm phu, kẻ ngu si.

 

Nhóm ngoại ấy không hiểu ý nghĩa bài kệ nên bảo Tôn giả:

 

- Ngươi tán thán ta vậy nên đi tùy ý.

 

Tôn giả liền thuận đường mà đi.

 

Nghiệp đời trước sắp chín, Tôn giả Mục Liên chậm rãi đi đến. Thấy Tôn giả, ngoại đạo hỏi:

 

- Này Bí-sô, trong chúng chánh mạngsa môn không?

 

Nếu không quán sát trước thì tuy trí của bậc La-hán cũng không biết được, nên Tôn giả đáp:

 

- Trong chúng các người làm gì có sa môn. Như lời Phật dạy:

 

- Đây là đệ nhất Sa môn; đây là đệ nhị Sa môn; đây là đệ tam Sa môn; đây là đệ tứ Sa môn, ngoài đây ra không có Sa-môn khác. Bà-la-môn chỉ có danh suông, gọi là Sa-môn Bà-la-môn mà không có thật chất. Như vậy, ở giữa trời người và chúng Thanh văn, Ta nói lời không dối trá với tiếng rống sư tử.

 

Lại nữa, thầy ngươi là Bộ-Kích-Noa khi còn làm người nói pháp tà ác dối gạt mọi người nên sinh vào địa ngục mang thân to lớn, trên lưỡi có năm trăm lưỡi cày sắt cày cho đổ máu chịu đau khổ vô cùng. Ông ấy nhắn với ta:

 

- Vì tôi nói pháp tà ác cho mọi người, dối gạt chúng sinh nay bị đọa vào đường ác chịu khổ cày lưỡi, xin báo cho hết đồ chúng, các người đừng cúng dường tháp của tôi nữa. Mỗi khi cúng dường làm cho thân tôi lại thêm đau khổ kịch liệt gấp bội. Từ nay về sau nhớ lời tôi dạy.

 

Nghe như vậy xong, bọn chúng rất phẫn nộ, nói:

 

- Mọi người nên biết, Sa môn trọc đầu này chẳng những cố bàn luận về lỗi của ta mà còn phỉ báng cả đến thầy của chúng ta. Nay ta phải làm sao?

 

Một người nói:

 

- Hãy đánh cho nhừ tử chứ còn nói gì nữa! Chẳng cần bình luận có lỗi mới đánh, đã phỉ báng đại sư của ta chính là lỗi nặng, đánh thật hợp lý.

 

Cả nhóm dùng gậy đánh đập Tôn giả, làm cho thân thể dập nát như chùy đập cỏ lau, rồi bỏ đi tứ tản.

 

Tôn giả Xá Lợi Tử lấy làm lạ vì sao tôn-giả Mục-Liên ở sau đi chậm không đến nên trở lại xem, thấy thân thể Tôn giả dập nát như cỏ lau bị đập rãi trên đất, nên hỏi:

 

- Cụ thọ vì sao như thế này?

 

Đáp:

 

- Xá Lợi Tử, đây là nghiệp đã chín, biết làm thế nào!

 

Xá Lợi Phất nói:

 

- Chẳng phải trong chúng Thanh văn, cụ thọ được tôn xưng là thần thông đệ nhất hay sao, vậy làm sao đến nỗi này?

 

Đáp:

 

- Do sức nghiệp giữ lại, chữ thần tôi còn không nhớ làm sao phát thông được?

 

Bấy giờ, Xá Lợi Tử dùng y bảy điều bọc thây Tôn giả như em bé, bồng đem về chùa. Mọi người kinh hãi, tập họp lại hỏi Xá Lợi Tử:

 

- Vì sao thân thể Tôn giả như thế này?

 

Đáp:

 

- Bị ngoại đạo cầm gậy đánh dập nát như thế này.

 

Tôn giả nhẹ nhàng đặt y xuống đất. Các Bí-sô hỏi Xá Lợi Tử:

 

- Chẳng phải là Đức Đại sư nói trong chúng thanh văn Tôn giả Mục Liên thần thông đệ nhất hay sao?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy, các vị nên biết nghiệp lực rất lớn, tuy Đại Mục Kiền Liên có đại khí lực dùng ngón chân phải ấn lên cung Chiến Thắng của Thiên Đế Thích làm cho nó dao động cơ hồ muốn nghiêng ngã. Đức Như Lai tán thán Tôn giả là bậc có đại uy lực,thần thông đệ nhất trong chúng thanh văn. Nhưng do nghiệp lực đời trước giữ lấy nên không còn nhớ được chữ thần, huống chi phát thông.

 

Khi ấy, Tôn giả Mục Liên suy nghĩ: "Ta dùng thân thể vô dụng bất tịnh này thân cận bên Phật để phục vụ, phụng hành lệnh Phật, tùy theo sức lực và khả năng không có trái phạm, đáp đền được một chút ân huệ với đức Giáo chủ, đối với Biển-đức làm sao báo đền cho hết được? Với thân này, ta không thể gánh vác được nữa, rất nhàm chán vật đựng vô biên đau khổ này, nên cầu tịch tịnh, không nên trú lại lâu dài".

 

Tôn giả còn giữ sự sống nhưng xả bỏ tuổi thọ. Các Bí-sô chưa đắc thánh đạo thấy sự việc này lòng rất đau buồn sinh tâm xuất ly, liền đi đến A Lan Nhã trong rừng, sống thiểu dục dưới gốc cây, xa lìa nhân gian chuyên tu tập tịch tịnh.

 

Khi ấy ở thành Vương-xá và các trú xứ khác, mọi người đều nghe ngoại đạo chấp trượng cùng nhau đánh thánh giả Đại Mục Kiền Liên dập nát toàn thân như cỏ lau bị chày đập, được Xá Lợi Tử dùng y bọc lại như em bé đem về Trúc Lâm, chỉ còn thoi thóp đau đớn vô cùng không bao lâu sẽ chết.

 

Có trăm ngàn đại chúng cùng họp nhau ở Trúc Viên, các quan tâu vua:

 

- Ngoại đạo chấp trượng cùng nhau đánh thánh giả Đại Mục Kiền Liên dập nát toàn thân như cỏ lau bị chày đập, được Xá-Lợi-Tử dùng y bọc lại như em bé đem về Trúc Lâm, chỉ còn thoi thóp đau đớn vô cùng không bao lâu sẽ chết.

 

Nghe như vậy, vua rất thương cảm nên cùng với nội cung, thái tử, tể tướng và nhân dân trong thành cùng vân tập đến Trúc Viên. Thấy vua đến, mọi người mở đường ra, nhà vua đến chỗ Tôn giả, nước mắt đằm đìa như cây đại thọ bị ngã trên đất, cầm chân Tôn giả kêu khóc nói:

 

- Vì sao bỗng dưng đến nỗi thế này?

 

Đáp:

 

- Đại vương đây do tiền thân đã gây nghiệp nay chín mùi, biết làm thế nào?

 

Vua rất tức giận, bảo đại thần:

 

- Các khanh hãy đi khắp nơi tìm bọn ngoại đạo kia. Nếu bắt được, bỏ bọn chúng vào căn phòng trống dùng lửa thiêu đốt.

 

Tôn giả nói:

 

- Đại vương! Không nên làm như vậy, nghiệp trước đây tôi đã làm cũng như dòng nước mạnh xối ngay vào thân, người khác không chịu thế được.

 

Vua bảo đại thần:

 

- Nếu như vậy, lệnh bậc trên khó làm trái. Nếu bắt được chúng phải đuổi ra khỏi nước.

 

Nhà vua lại thưa:

 

- Những gì con có xin dâng lên Thánh giả, tùy ý ngài thọ dụng. Thánh giả, chẳng phải là ngài được Thế Tôn khen là bậc thần thông đệ nhất trong chúng Thanh văn, vậy tại sao ngài không bay lên để tránh đau khổ này.

 

Đáp:

 

- Đại vương, đúng là Đại sư dạy như vậy, nhưng bị nghiệp lực giữ lấy, chữ thần tôi còn không nhớ, huống chi phát thông! Như đức Đại sư không nói hai lời, đích thân nói kệ:

 

    Dù trải qua trăm kiếp,

    Nghiệp đã làm không mất,

    Khi nhân duyên hội ngộ,

    Tự nhận lấy quả báo.

 

Hiện nay tôi nhận quả báo còn biết nói gì.

 

Vua Vị Sinh Oán lấy y lau nước mắt, bảo các y sĩ:

 

- Trong bảy ngày nếu không làm cho các chi phần trên thân thể của Tôn giả phục hồi lại như cũ, ta sẽ tước bỏ hết các bổng lộc hiện tại của các ngươi.

 

Nhà vua lại sai đại thần đích thân săn sóc rồi ân cần đích thân kính lễ sát chân Tôn giả rồi từ giã ra về.

 

Đại Mục Kiền Liên bảo Xá Lợi Tử:

 

- Cụï thọ biết cho, xin ban ân tha thứ, xin ban ân tha thứ, tôi sẽ Niết-bàn.

 

Nghe như vậy, Xá Lợi Tử nói:

 

- Hai chúng ta cùng cầu thiện pháp, đồng thời xuất gia, đồng chứng cam lộ, đồng quy viên tịch, nên làm như vậy.

 

Tôn giả Mã Thắng nghe Đại Mục Kiền Liên thân thể bị khổ sở, nên đến nơi ủy lạo thăm hỏi, cụ thọ nên biết:

 

    Không trên núi, dưới biển,

    Không có địa phương nào,

    Cũng không trong không trung,

    Thoát khỏi nghiệp đã làm,

 

    Như bóng đi theo người,

    Không có đứng một chỗ,

    Nghiệp thiện ác không mất,

    Đ?c Vô-thượng dạy vậy.

 

Đại Mục Liên cùng Xá Lợi Tử làm lễ sát chân Tôn giả Mã-Thắng, đi nhiễu bên phải ba vòng, bạch: A Dá Lợi Da:

 

    Việc làm, con đã xong,

    Nay từ biệt lần cuối,

    Sẽ vào Vô dư y,

    Cảnh Niết-bàn trong mát.

 

Tôn giả Mã Thắng nói kệ bảo Tôn giả Xá Lợi Tử:

 

    - Việc làm của ông đã hoàn thành,

    Thường chuyển pháp-luân theo ý Phật,

    Ngày nay, ông muốn vào Niết-bàn,

    Ánh đèn tướng pháp thế gian tắt.

 

Những y sĩ đã tuân lệnh vua cùng nhau bàn luận:

 

- Vua ban nghiêm lệnh, chúng ta phải làm sao?

 

Một người nói:

 

- Biết làm gì nữa, Thánh giả tuổi cao, bị gậy đánh tan nát như chày đập cỏ lau, làm sao trị được. Nhưng Tôn giả này có đại bi lực, chúng ta cầu xin, ngài sẽ ban ân.

 

Mọi người đều nói; thật là diệu kế. Họ cùng nhau đến gặp Tôn giả đảnh lễ sát chân thưa:

 

- Đại vương có ra lệnh cho tất cả y sĩ nếu trong bảy ngày không làm cho thân thể Thánh giả bình phục như cũ sẽ truất phế hết tất cả bổng lộc họ đang hưởng. Nhưng Thánh giả tuổi già lại bị khổ hại này thật khó bình phục. Xin mong ngài từ bi ban cho sức phương tiện khiến cho chúng con không bị mất bổng lộc.

 

Tôn giả nói với họ:

 

- Nếu như vậy, ngươi hãy đi tâu vua, sau bảy ngày thánh giả Mục Liên đi vào thành Vương-xá khất thực.

 

Mọi người vui mừng từ giã, cùng đến gặp vua, tâu:

 

- Sau bảy ngày, thánh giả Mục Liên sẽ vào thành Vương-xá thứ lớp khất thực.

 

Nghe như vậy, vua rất vui mừng nói:

 

- Lành thay nếu thật như vậy.

 

Sau bảy ngày, với sức thần thông, Tôn giả trừ các đau đớn vào thành Vương Xá thứ tự khất thực đi đến cửa cung vua. Thấy vậy, người giữ cửa báo cho vua:

 

- Tôn giả Đại Mục Liên đang ở trước cửa, muốn gặp đại vương.

 

Nghe tâu, vua vô cùng vui mừng vội đứng dậy trải toà, ra ngoài cửa, thấy Tôn giả liền quỳ sát năm vóc xuống đất ân cần làm lễ rồi thỉnh vào an tọa nơi tòa, thưa:

 

- Thánh giả, tôn thể ngài đi lại có an ổn không?

 

Tôn giả đáp:

 

- Đại vương nên biết,

 

    Nay tôi cần gì thân máu huyết,

    Vác những khổ đau không ngừng nghỉ,

    Nay đã trừ hết độc rắn rồi,

    An ổn sẽ đến thành Niết-bàn,

 

    Trong thành Niết-bàn không có khổ,

    Duyên sinh các khổ cũng không còn,

    Phật và thánh chúng sống trong đó,

    Kẻ ngu luân hồi không vào được.

 

Đại vương nên biết! Đây là túc nghiệp của tôi nên phải chịu quả báo thân như lau bị đập, không thể trị liệu được. Giả sử cổ đại y vương cũng không thể trị hết, xin ngài phóng thích các y sĩ.

 

Nghe như vậy, vua ra lệnh phóng thích các y sĩ rồi nước mắt đằm đìa lạy sát chân Tôn giả.

 

Sau khi dạy bảo vua chớ phóng dật, lược thuyết giáo pháp, Tôn giả từ giã.

 

Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Tửû nhập định quán sát vì sao cụ thọ Mục Liên tuy gặp khổ nạn này còn vào thành khất thực, mới thấy sắp vào Niết-bàn.

 

Sau khi thấy Tôn giả Mục Liên bị đánh, Tôn giả Xá Lợi Tử sinh bi cảm nên phát bệnh đau đớn, suy nghĩ: "Cụ thọ Mục Liên nhập Niết Bàn vậy ta trụ lại đây làm gì, ta nên vào viên tịch trước!".

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, Tôn giả đến gặp cụ thọ A Nan Đà Nan Đà để từ biệt rộng như kinh nói; thứ đến gặp Thế Tôn lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch Thế Tôn:

 

    Phật dạy, con thọ trì,

    Tùy sức giảng cho người,

    Đã phục vụ Thánh chúng,

    Tâm không ái luyến thân,

 

    Gắng làm việc mình xong,

    Đã tu hạnh Niết-bàn,

    Ba nghiệp thân, khẩu, ý

    Theo chánh đạo không sai,

 

    Con không tham ái sinh

    Không lo buồn về chết,

    Thế nên con Niết-bàn,

    Lạc này là tối thượng.

 

Sau khi Tôn giả nói kệ, Thế Tôn hỏi:

 

- Trong giáo pháp thù thắng này, ông đến cuối cùng mà lại ra đi đầu tiên, có ý gì vậy?

 

Tôn giả chắp tay cung kính nói kệ:

 

    - Không chịu thấy Phật vào Niết-bàn,

    Mục Liên thù thắng cũng như vậy.

    Tướng quân Phật pháp việc đã xong,

    Nên muốn chứng vào Viên-tịch trước.

    Xin thưa Đại-thánh Nhân-trung-tôn,

    Con muốn trở về nơi quê cũ,

    Giảng thuyết giáo pháp cho thân thuộc,

    Để bỏ thân năm ấm luân hồi.

 

Phật bảo Xá Lợi Tử:

 

- Ông muốn vào Niết bàn?

 

- Thế Tôn! Con muốn vào Niết bàn.

 

Phật lại bảo:

 

- Ông muốn vào Niết-bàn?

 

- Thiện thệ! con muốn vào Niết-bàn.

 

- Này Xá Lợi Tử, ông đã muốn vào Niết bàn, các hành vô thường là pháp sinh diệt, đúng theo ý ông muốn, Ta có gì để nói nữa.

 

Bấy giờ, Xá Lợi Tử lạy Phật lần cuối cùng, chắp tay cung kính đi nhiễu bên phải ba vòng rồi từ giã ra đi.

 

Sau đó, Tôn giả đến gặp Đ?i Mục Liên, nói:

 

- Cụ thọ, tôi có bệnh nặng, thầy biết không? Tôi muốn đi về tụ lạc Na-la-đà, thuyết pháp cho thân tộc rồi sẽ hướng đến Niết bàn.

 

Đáp:

 

- Cụ thọ, nên làm theo ý thầy. Tôi cũng đi về tụ lạc Lâm-viên, thuyết pháp yếu cho thân quyến rồi sẽ vào Niết bàn.

 

Sau đó, đến gặp Nan Đà, A Nan Đà, A Ny Lư Đà, Hiệt Ly Phạt Đa, Bạt Đà Ca, La Hổ La ... các vị đại thanh văn, Tôn giả đều từ biệt hết và nói sắp vào Niết bàn. Các vị tôn túc kia nói:

 

- Cẩn thận.

 

Xá Lợi Tử, thị giả Chuẩn Đà và chúng Bí-sô đi đến thôn Na Lan Đà (Cách chùa Na-lan-đà chừng hai mươi dặm về hướng Đông-Nam) Cụ thọ La-Hổ-La cùng chúng Bí-sô đi theo sau.

 

Bằng lời từ ái, Tôn giả Xá Lợi Tử nói với La Hổ La:

 

    - Nếu có chí cầu đến giải thoát

    Nên biết tất cả đều vô thường.

    Thế gian chẳng gì đáng luyến ái,

    Quán sát đúng vậy, chớ phóng dật,

 

    Thân mạng vô thường chẳng gì vui,

    Như vẽ trên nước không giữ được,

    Liễu tri tất cả đều như mộng,

    Tập hợp đời sống, nguy như vậy.

 

    Lễ Phật, lễ Pháp, cúng dường Tăng,

    Y chỉ theo pháp tạng của Phật .

 

    Này La Hổ La nghe Ta dạy:

    - Với bậc kỳ túc nên thân cận,

    Có nghi ngờ gì trong tam-tạng,

    Trừ ta, khó có người giải đáp,

    Nếu có, hãy thưa hỏi Thế Tôn.

    Ngài giảng thật nghĩa, giải nghi cho.

 

Cụ thọ La Hổ La nói kệ đáp:

 

    - Con xem theo tuần tự,

    Không lâu, Phật cũng Diệt,

    Như cây cháy bốn cành,

    Thân làm sao đứng vững.

 

Tôn giả La Hổ La lạy sát chân Xá Lợi Tử, nhiễu ba vòng, liễu tri các hành đều vô thường, liền đi trở về.

 

Từ trong nước Ma-yết-đà, với cầu-tịch Chuẩn Đà làm thị giả, Tôn giả Xá Lợi Tử du hành nhân gian, đi dần đến thôn Na La Đà, tiến về hướng bắc trú ở rừng Nhiếp ba, thuyết giảng giáo pháp cho thân thuộc làm cho họ thọ ba quy y và năm học xứ.

 

Nghe Xá Lợi Tử sắp vào Niết-bàn, có vô lượng trăm ngàn chúng sinh vân tập đến. Tôn giả quán sát những người này có thể giáo hóa được, tùy theo căn tánh của họ mà phương tiện thuyết pháp, khai thị khuyến hóa khen ngợi vui mừng, làm cho những người ấy được Noãn pháp, hoặc Đảnh pháp, nhẫn, thế đệ Nhất pháp, hoặc đắc Dự Lưu, Nhất Lai, Bất-hoàn, hoặc xuất gia chứng quả Ứng Cúng, hoặc trồng chủng tử Vô Thượng Bồ Đề, hoặc trồng chủng tử Độc Giác, Thanh Văn.

 

Sau khi độ cho thân thuộcmọi người phát sinh lòng tin thanh tịnh rồi, vào buổi sáng Tôn giả bay lên hư không phóng hào quang lớn, hiện các thần biến nhập vào cảnh giới Vô dư y Diệu Niết bàn.

 

Ngay khi Ngài viên tịch, quả đất chấn động, lửa phát ra bốn phương rơi rụng như sao xẹt, trong hư không vang tiếng trống trời. Những chúng Bí-sô đang cư trú ở Bắc Câu Lô, Đông Tây hai châu, hoặc ở Diệu Cao Sơn, hay bảy núi khác, Núi Tuyết Hương ... các hang động, bờ sông, đang tu tập thiền định các nơi đang thọ hưởng Giải Thoát Lạc, thấy mặt đất chấn động như vậy, những vị ấy suy nghĩ: "Vì sao mặt đất bỗng nhiên chấn động như vậy".

 

Họ chánh niệm quán sát thấy Thân Giáo Sư đã nhập Niết-bàn, nên cùng suy nghĩ: "Hiện nay ta không nên an trúChiêm Bộ Châu mà không có Thân Giáo Sư ".

 

Sau khi suy nghĩ, tám vạn A-la-hán đệ tử của Tôn giả đồng thời cùng nhập Niết Bàn.

 

Vào sáng sớm, Đại Mục Kiền Liên mặc y mang bát, dùng sức thần thông duy trì thân thể, vào thành Vương xá thứ lớp khất thực, sau đó trở về chỗ ở, thọ thực xong thu xếp y bát, rửa chân, đi đến gặp Thế Tôn, lạy sát hai chân, bạch:

 

    - Thân này là tập hợp máu huyết,

    Không bền, nguy hiểm, thường thay đổi,

    Cũng như bánh độc, con vứt đi,

    Xin đức Đ?i sư thương tha cho.

 

Tôn giả lại nói kệ:

 

    - Con không còn mắc nợ,

    Ý cho là thỏa mãn,

    Biển sinh tử không bờ,

    Thoát sợ, lên bờ kia.

 

    Bạn con, Xá Lợi Tử,

    Đại-trí đã viên tịch,

    Nay con đi theo sau,

    Xin Đại-hùng biết cho.

 

Phật hỏi Mục Liên:

 

- Ông muốn Niết-bàn?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn, con muốn vào Niết-bàn.

 

Phật lại hỏi:

 

- Ông muốn vào Niết-bàn?

 

- Thiện thệ, con muốn vào Niết-bàn.

 

Phật lại hỏi:

 

- Nếu ông muốn vào Niết-bàn, các hành vô thường là pháp sinh diệt, theo ý ông muốn, Ta còn nói gì.

 

Đại Mục Liên lễ Phật lần cuối cùng, chắp tay cung kính nhiễu bên phải ba vòng, từ giã ra đi.

 

Tôn giả đi đến thôn Lâm Viên, thuyết giảng giáo pháp cho quyến thuộc rộng như nói ở trước ... Có vô lượng người thọ quy giới phát tâm chứng quả. Vào buổi chiều, Tôn giả vào Niết-bàn. Bảy vạn bảy ngàn A-la-hán đệ tử đồng thời vào Niết bàn.

 

Sau khi đệ nhị thánh giả vào Niết-bàn, các vị thân thuộc Bà-la-môn cư sĩ thu lấy xá lợi, xây tháp cúng dường. Mọi người đều tạo nghiệp thắng diệu sinh thiên giải thoát.

 

Nghe Xá Lợi TửMục Kiền Liên đã vào Niết-bàn, cụ thọ A Nan Đà và La Hổ La nước mắt đoanh tròng, đi đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, cùng đứng qua một bên. Cụ thọ A Nan Đà thưa:

 

- Thế Tôn!

 

    Con nghe Thân-tử, Mục Liên diệt

    Khắp cả thân tâm con rung động,

    Mắt mờ không thấy phương hướng nào,

    Nếu có nghe pháp, tâm cũng loạn.

 

Thế Tôn nói kệ bảo cả hai:

 

    - Các ông chớ khổ não

    Ân ái đều biệt ly,

    Trước đã dạy các ông.

    Vậy nên chớ ưu bi,

    Đã sinh, không thoát tử

    Thế giới thật vô thường,

    Trong năm nẻo luân hồi,

    Không có gì tồn tại.

 

Sau khi hỏa thiêu nhục thân cho Ô Ba Đà Da, cầu tịch Chuẩn Đà thu lấy di cốt của Xá Lợi Tử cùng y bát, mang về thành Vương-xá. Về đến trú xứ, sau khi thu xếp y bát, rửa chân, Chuẩn Đà đến gặp cụ thọ A Nan Đà, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên, thưa:

 

- Đại đức biết không, thân giáo sư của con là đại đức Xá Lợi Tử đã vào Niết-bàn. Đây là di thân và ba y, bát.

 

A Nan Đà đưa Chuẩn Đà đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên bạch:

 

    - Con nghe Thân-tử Diệt

    Toàn thân con như si,

    Không còn biết phương hướng,

    Nghe pháp tâm không hiểu.

    Cầu tịch Chuẩn Đà đến thưa với con:

 

- Đại đức biết không! Đại đức Xá Lợi Tử thân giáo sư của con đã nhập Niết bàn. Con đã hỏa thiêu cúng dường, thu lấy xá-lợi và mang y bát đến đây, nay phải làm sao?

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Bí-sô Xá Lợi Tử có đem các giới uẩn vào Niết-bàn không?

 

- Bạch Thế Tôn, không!

 

- Có đem các Định uẩn, Tuệ uẩn, Giải thoát uẩn, Giải thoát tri kiến uẩn vào Niết bàn không?

 

- Bạch Thế Tôn không!

 

- Lại nữa, Xá Lợi Tửmang theo các pháp do Ta tự giác ngộ nói ra như bốn niệm-trụ, bốn chánh-cần, bốn thần-túc, năm-căn, năm-lực, bảy giác-phần, tám thánh-đạo vào Niết-bàn không?

 

- Bạch Thế Tôn không! Cụ thọ Xá Lợi Phất không đem ba pháp uẩn vô lậu cùng ba mươi bảy pháp bồ-đề phần này vào Niết-bàn, nhưng cụ thọ Xá Lợi Tử đầy đủ giới, đa văn, thiểu dục, tri túc, thích hạnh tịch tịnh, luôn luôn tinh tấn, chánh niệm hiện tiền, có đầy đủ chánh-tri tuệ, tốc-tật tuệ, xuất-ly tuệ, thú-nhập tuệ, đại-lợi tuệ, khoan-quảng tuệ, thậm-thâm tuệ, vô-đẳng tuệ, không tuệ, khai thị hướng dẫn, khuyến khích làm cho vui mừng, nghe rồi hiểu rõ, tuyên dương giáo pháp giữa chúng, không có khiếp nhược. Nhưng con và Xá Lợi Tử cùng nhau thọ hưởng Phật-pháp, nay Tôn giả ấy Niết bàn nên con nhớ đến buồn rầu khóc lóc không vui.

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Ông chớ ưu sầu, buồn khóc không vui, không thể nào có đạo lý như thế này, pháp do nhân duyên sinh mà lại muốn chúng thường trú, không thể có việc này. Đã biết các pháp đã có tính chất hoại diệt thì không nên buồn rầu.

 

Này A Nan Đà, trước đây ta đã từng dạy ở khắp nơi:

 

- Tất cả những việc ân ái hoan lạc đều là vô thường, cuối cùng cũng quy về biệt ly. Như cây đại thọ rễ sâu vững chắc, cành lá rậm rạp, hoa trái sung mãn, nhánh nào mọc dài ra ngoài tất bị gãy trước. Như núi báu lớn, phần đỉnh vút cao tất bị ngã trước.

 

Nay cũng như vậy, Phật là thượng thủ, Bí-sô tăng già đang trú tại thếXá Lợi Tử đã nhập Niết Bàn trước. Lại nữa này A Nan Đà, nơi Xá Lợi Phất đã đi qua, những địa phương ấy tràn ngập tiếng khen nên Ta không lo lắng. Thế nên, ông chớ có lo buồn, tướng trạng của thế gian là như vậy, cuối cùng trở về biệt ly. Dù Ta có hiện đời hoặc đã vắng bóng, phải nên biết tự lấy mình làm hòn đảo, tự cứu hộ mình; lấy pháp làm hòn đảo, dùng pháp để cứu hộ; không có hòn đảo khác, không chỗ quy y nào khác.

 

- Này A Nan Đà! Ông hãy làm hòn đảo cho mình ... cho đến ... không quy y chỗ nào khác. Những đệ tử trong giáo pháp của Ta, ai giữ gìn giới luật là hạng đứng đầu. Thế nào là Bí-sô tự lấy mình làm hòn đảo, tự mình cứu hộ mình; lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm cứu hộ, không y cứ hòn đảo khác, không quy y nơi khác? Bí-sô nào quán sát ngay nội thân tinh cần chánh niệm, biết rõ sân nhuế ưu sầu trong thế gian nên không còn sinh phiền não; hoặc ngay ngoại thân, hoặc nội thân, hoặc nội ngoại thân ... nói rộng như trên quán sát về thọ, tâm, pháp tinh cần chánh niệm biết rõ sân nhuế ưu sầu trong thế gian nên không còn sinh phiền não. Đó chính là tự lấy mình làm hòn đảo cho đến không quy y nơi khác.

 

Nghe Phật dạy như vậy, A Nan Đà đảnh lễ sát chân Phật từ giã ra đi.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa hỏi Thế Tôn:

 

- Thánh giả Mục Liên từng làm nghiệp gì mà bị ngoại đạo đập nát thân thể?

 

Thế Tôn nói:

 

- Này các Bí-sô, nghiệp mà Đại Mục Kiền Liên đã làm, không ai chịu thế được. Ngày xưa, tại một thành kia, có một Bà-la-môn lấy vợ chưa bao lâu sinh được một bé trai. Khi trưởng thành, người cha cưới vợ cho anh ta. Rất luyến ái vợ nên khi mẹ giận người vợ mới này, anh ta rất phẫn nộ không kính trọng mẹ nữa. Người mẹ trách con:- Ngươi luyến ái vợ nên nghịch lại cả ta.

 

Nghe như vậy, người vợ sinh ác niệm: - Bà lão này tuổi đã già, mà vẫn bên cạnh chồng ta chưa chịu rời ra, lại còn cố nói lỗi lầm của chồng ta nữa.

 

Từ đó về sau, cô ta thường tìm lỗi của mẹ. Sau đó, người vợ thấy cha mẹ chồng làm việc riêng tư nên nói với chồng để cùng sinh tức giận.

 

Người con nói với mẹ:- Ngu si già cả còn không ngăn tâm được, với ta còn trẻ lại cố trách mắng.

 

Anh ta lại nổi sân, nói lời độc hại:- Làm sao được người có sức mạnh đánh thân thể bà ta dập nát như chày đập cỏ lau.

 

Này các Bí-sô chớ có nghi ngờ, con trai người Bà-la-môn ngày xưa nay là Mục Kiền Liên. Do phát sinh ý nghĩ ác lại nói lời bất nghĩa đối với cha mẹ nên trong năm trăm đời thân thể thường bị đánh dập nát như chày đập cỏ lau, cho đến ngày nay với thân cuối cùng là bậc thần thông đệ nhất trong chúng Thanh văn đệ tử của Ta, còn bị quả báo này. Thế nên các ông nên biết, nghiệp gì trước đây đã làm rồi phải chịu lấy không ai thay thế được.v.v ... nên học như vậy.

 

Nghe Phật dạy xong, các Bí-sô đều phụng hành.

 

Các Bí-sô lại thưa hỏi Phật:

 

- Vì lý do gì, các ngoại đạo không đánh Xá Lợi Tử mà đánh Mục Kiền Liên?

 

Phật dạy:

 

- Chẳng phải ngày nay họ đánh một thả một mà ngày xưa cũng vậy. Các ông hãy lắng nghe:

 

- Ngày xưa bên thôn nọ có nhiều đồng tử tụ tập chơi đùa, thấy hai thanh niên cùng nhau đang đi đến, nên chúng bảo nhau: - Ta đánh hai người này chơi.

 

Họ lại bàn nhau:

 

- Không nên đánh ngay, hãy hỏi họ đã. Ai nói vừa ý, ta không đánh, như không vừa ý mới đánh.

 

Một người hỏi:

 

- Lúc nào trời lạnh?

 

Một thanh niên suy nghĩ:

 

- Ý gì họ hỏi vậy.

 

Thấy bộ dạng của họ như muốn đánh mình nên thanh niên đáp:

 

    - Chẳng kể Đông hay Hạ

    Chỉ cần có gió thổi,

    Có gió thì trời lạnh

    Không gió, trời không lạnh.

 

Các đồng tử nghe nói, liền cho đi qua, lại hỏi người thứ hai. Anh ta đáp:

 

    - Tháng Đông thì trời lạnh

    Mùa Hạ không có lạnh,

    Việc này ai cũng biết

    Kẻ vô trí nên nghi.

 

Nghe nói vậy, các đồng tử nổi giận đánh tơi bời rồi bỏ đi.

 

- Này các Bí-sô, thời quá khứ, người được cho đi nay là Xá Lợi Phất, người bị đánh nay là Mục Kiền Liên; ngày nay cũng vậy.

 

Khi ấy, các Bí-sô lại có nghi khác, thưa với Thế Tôn:

 

- Hy hữu thay đại đức! Cụ thọ A Nan Đà phát sinh khổ não lớn, được Thế Tôn đại bi làm cho giải tỏa.

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Ngày nay Ta giải tỏa ưu buồn của Khánh Hỷ chưa phải là hy hữu. Thời quá khứ ta cũng đã trừ ưu buồn cho Khánh Hỷ. Các ông hãy lắng nghe; Vào thời quá khứ tại thành Ba La Ny Tư, nước Ca thi, vua hiệu Phạm Thọ,.v.v ... cho đến giàu có an ổn. Nhà vua có con tên Thiện Sinh. Thiện Sinh có con hình dáng xinh đẹp nên mời thân tộc tập họp lại để đặt tên. Mọi người bàn nhau: "Đây là cháu của quốc vương Ca Thy, nên đặt tên là Ca Thy Tôn Đà La".

 

Sau đó, một hôm vương tử Thiện Sinh bỗng nhiên qua đời. Bấy giờ vua Phạm-Thọ quá thương yêu con, hai tay bồng tử thi bi thương khóc lóc, đấm ngực kêu gào buồn khổ ngây dại.

 

Khi ấy, Ca Thi Tôn Đà La có trí hiểu biết, suy nghĩ: "Đại vương buồn khổ quá, có khi bị chết, ta nên giải tỏa đau buồn cho ngài".

 

Ca Thi đến gặp vua, lạy sát chân bạch:

 

- Đại vương, con có điều mong muốn.

 

Vua hỏi:

 

- Con muốn vật gì?

 

Đáp:

 

- Xin làm cho con chiếc xe mà bánh xe bằng nhật nguyệt, trang trí tinh xảo có thể chạy tới nhanh. Nếu đến bảy ngày ngài không cho, ngực con sẽ vỡ ra mà chết.

 

Nghe như vậy, vua càng buồn sợ, bảo với cháu:

 

    - Làm việc vô ích này,

    Là lời của kẻ ngu,

    Chắc chắn ta không thể

    Làm được dù cố tìm.

 

Người cháu nói:

 

    - Đại vương, cháu không ngu,

    Quốc chủ mới là ngu,

    Ôm thây thịt thối này

    Gọi con bi thương khổ,

    Nhật nguyệt vừa mọc lên

    Chiếu sáng khắp thế nhân,

    Trừ hết tối bốn phương,

    Làm cho sáng rực rỡ,

    Nay vua cha không biết

    Con chết sinh cảnh khác,

    Địa ngục, bàng sinh, quỷ

    Trời người trong các đường,

    Chớ bám nơi chẳng có,

    Đại vương nên quán sát,

    Cố gắng định ý lại,

    Chỉ quy y theo pháp,

    Vua nghe đồng tử nói,

    Cả thân tâm hoan hỷ,

    Nhổ tên độc buồn ra,

    Bỏ thây chết con xuống.

 

- Này các Bí-sô, chớ có nghĩ khác, Ca Thi Tôn Đà La ngày xưa, nay chính là Ta. Thiện SinhXá Lợi Tử. Vua Phạm Thọ là A Nan Đà. Phật nói kệ:

 

    - Vương tử là thân Ta,

    Cha Ta: Xá Lợi Phất,

    A Nan Đà: Phạm Thọ

    Việc xưa, nên biết vậy.

 

Khi ấy, Thế Tôn ra khỏi thành Vương-xá, đi về nước Kiều Tát La, du hành trong nhân gian đến vườn Cấp Cô Độc thành Thất La Phiệt.

 

Cụ thọ A Nan Đà hương hoa cúng dường di cốt của Tôn giả Xá Lợi Tử.

 

Nghe Xá Lợi Tử đã vào Niết-bàn, đích thân A Nan Đà đang cúng dường di cốt, trưởng giả Cấp Cô Độc đến gặp Tôn giả lễ sát chân, thưa:

 

- Thánh giả biết không, nay Tôn giả Xá Lợi Phất đã vào Niết-bàn. Vị ấy là bậc mà trước đây con rất tôn trọng, cả ngày lẫn đêm kính ngưỡng rất sâu, Tôn giả đem cốt vị ấy về cúng dường. Con cũng có tâm muốn cúng dường, xin Tôn giả đưa cho con.

 

Đáp:

 

- Trưởng giả, tôi cũng như vậy, vị ấy là bậc trước đây tôi tôn kính nên không thể trao cho ngài được...

 

Cho đến trưởng giả Cấp Cô Độc đến gặp Phật, bạch:

 

-Thế Tôn, xin Ngài từ mẫn cho con nhận di cốt của Tôn giả Xá Lợi Tử để được đích thân cúng duờng.

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Ông cúng dường di cốt cho vị đồng phạm hạnh nhưng đối với Như Lai chưa phải là cúng dường, chưa phải là báo ân. Đối với việc như thế này, ai có thể làm được mới là chân thật cúng dường Như Lai, là báo ân một cách to lớn. Đó là có thể giúp cho người khác xuất gia thọ cận-viên hoặc cho y chỉ, dạy họ học tập, khuyến khích họ thiền quán, chuyên cần tìm đường xuất ly chớ để thời gian trôi qua trống rỗng. Vì sao?

 

- Này A Nan Đà, Như Lai Thế Tôn trong ba vô số đại kiếp vì các hữu tình chịu đựng vô lượng trăm ngàn vạn loại hạnh khổ khó làm, mới chứng được Vô-thượng Chánh-đẳng Bồ-đề.

 

- Này A Nan Đà, nhờ y chỉ với Ta làm thiện tri thức cho nên các hữu tình được giải thoát khỏi tất cả sinh lão bệnh tử ưu bi khổ não. Thế nên, ông hãy trao di cốt cho trưởng giả để ông ấy cúng dường.

 

Được Phật dạy bảo xong, A Nan Đà liền đem di cốt trao cho trưởng giả. Vì sao A Nan Đà không trái lời Phật dạy?

 

- Do ngày xưa, khi Phật hành đạo Bồ Tát chưa từng chống trái lại lời dạy bảo của cha mẹ, sư trưởng và bậc tôn trưởng nên nay không ai dám trái lại lời Ngài.

 

Nhận được di cốt, trưởng giả lễ Phật từ giã, đem về nhà mình bố trí lên nơi cao quý, cả gia đìønh và quyến thuộc cùng nhau đích thân đem hương hoa vật đẹp cúng dường.

 

Khi ấy, nhân dân trong thành đều nghe Tôn giả Xá Lợi Tử đã Niết Bàntụ lạc Na La, thành Ma Già Đà. Cầu tịch Chuẩn Đà mang di cốt của Tôn giả giao cho A Nan Đà. Sau khi Tôn giả A Nan Đà mang về đây, Phật bảo trao cho trưởng giả Cấp Cô Độc. Ông ấy mang về nhà cùng gia đình thân cận cúng dường. Vua Thắng Quang cùng Thắng Man phu nhân, Hành Vũ phu nhân và các trưởng giả Ô Ba Sách Ca, Tỳ-Xá Khư Ô Ba Tư Ca và những người khác đều mang theo những hoa hương phẩm vật đặc biệt đến nhà trưởng giả đích thân cúng dường. Có người từng nhờ nơi Xá Lợi T? mà chứng đạo quả, nhớ đến ân xưa cũng đến nơi cúng dường.

 

Một hôm nọ, có việc cần, trưởng giả khóa cửa đi ra ngoài. Khi ấy mọi người đang cầm vật cúng dường đến cửa, thấy cửa đóng nên bất mãn:

 

- Vì sao trưởng giả ngăn chận đường sinh ra phước báu?!

 

Về đến nhà, trưởng giả được gia nhân báo lại:

 

- Có nhiều người đến muốn đích thân cúng dường, thấy cửa khóa nên họ bất mãn:

 

- Vì sao lại ngăn phước nghiệp?

 

Nghe như vậy, trưởng giả suy nghĩ: "Đây chính là duyên cớ nên đến gặp Phật".

 

Sau khi lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, trưởng giả bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Có nhiều người đối với xá lợi của Tôn giả Xá Lợi Tử, có tâm kính trọng mang các vật đẹp đến nhà con để đích thân cúng dường. Con có việc nên khóa cửa ra đi.

 

Đến nơi thấy vậy, mọi người bất mãn nói:

 

- Trưởng giả đóng cửa ngăn đường phước của chúng ta. Nếu được Phật cho phép, con muốn xây dựng tháp thờ xá lợi của Tôn giả nơi chỗ cao rộng để mọi người tùy ý cúng dường.

 

Phật dạy:

 

- Trưởng giả tùy ý nên làm.

 

Trưởng giả lại suy nghĩ:

 

- Nên làm ra sao?

 

Phật dạy:

 

- Nên xây hai lớp gạch làm móng, tiếp theo xây thân tháp, trên làm hình bát úp, xây cao tùy ý, trên cùng làm chóp bằng, cao 1,2 thước, vuông vức 2,3 thước, chuẩn theo kích cỡ giữa dựng cây bánh xe, gắn hình bánh xe theo thứ tự chồng lên nhau từ một, hai, ba, bốn, cho đến mười ba, thứ đến an trí bình báu.

 

Với suy nghĩ: "Chỉ riêng có Xá Lợi Tử được xây tháp như vậy, hay là vị khác cũng được?

 

Trưởng giả đến bạch Phật. Phật bảo trưởng giả:

 

- Nếu xây tháp cho Như Lai thì làm đầy đủ như đã nói ở trên. Nếu làm cho Độc Giác thì không an trí bình báu. Nếu làm cho A-la-hán thì chỉ bốn tầng hình bánh xe; Bất-hoàn thì ba tầng; Nhất-lai thì hai tầng; Dự-lưu thì một tầng. Thiện nhân phàm phu thì trên đầu tháp làm bằng phẳng không có hình bánh xe chụp lên.

 

Như Thế Tôn dạy nên làm như trên, nhưng Bí-sô không biết an trí ở đâu.

 

Phật dạy:

 

- Nên an trí tháp của Đại Sư giữa nơi Thế Tôn trú pháp. Các đại Thanh văn thì ở hai bên, các vị tôn túc khác an trí tùy theo lớn nhỏ. Thiện nhân phàm phu thì ở ngoài chùa.

 

Sau khi xây tháp xong, trưởng giả bạch Phật:

 

- Nếu được cho phép, con sẽ tổ chức đại hội bố thí để khánh thành tháp Tôn giả Xá Lợi Tử.

 

Phật dạy:

 

- Tùy ý.

 

Nghe đại trưởng giả xin phép Phật muốn tổ chức lễ khánh thành tháp Tôn giả Xáù Lợi Tử, vua Thắng Quang suy nghĩ: "Ta nên hỗ trợ ".

 

Vua ra lệnh rung chuông báo cho tất cả nhân dân trong thành và những thương nhân khác ở nơi xa đến:

 

- Người nào đến tham dự pháp hội này, tùy ý mua bán trao đổi hàng hóa mà không bị nộp thuế.

 

Bấy giờ, có năm trăm thương nhân gặp phải gió bão trong biển lớn muốn phá tan ghe thuyền. Những người này trước đây từng thọ quy giới với Tôn giả Xá Lợi Tử nên cùng nhau xưng niệm, lại nhờ chư Thiên cùng hộ trì nên vượt qua sóng lớn, bình yên trở về đây, nghe vua Thắng Quang ra lệnh như vậy, nên cùng nhau suy nghĩ: "Nhờ nghiệp ngày xưa mà nhà vua hưởng ngôi vị tối thắng, nay vẫn chưa chán lại muốn bố thí nữa. Vì sao bọn ta không làm phước?".

 

Những thương nhân đều sinh tâm kính tín nên đem nhiều vàng bạc trân bảo chân châu bối ngọc, chí thành cúng dường trong pháp hội rồi ra đi. Sau khi nhận, Bí-sô không biết phân vật ấy cho chỗ nào.

 

Phật dạy:

 

- Vỏ ốc thổi vang tiếng được, nên dùng vào chỗ hình tượng chiêm-bộ. Những vật trân bảo khác nên giữ lại nhiều ít cúng dường việc sửa sang tháp Xá Lợi Tửû. Nếu có y vật có thể treo cúng dường nên giữ lại nhiều ít để vào ngày trai nhật treo cúng dường. Những vật như y phục vải lụa và tiền bối ... hiện tiền tăng nên cùng nhau phân chia, chính là xử dụng hợp lý tài vật của đồng phạm hạnh. Đây chỉ là cách phân chia vật của tháp Xá Lợi Tử. Nếu vật thuộc tháp Phật, đều dùng vào tháp.

 

Nhiếp tụng hai trong biệt môn năm:

 

    Cật vấn linh ức niệm,

    Vấn bỉ dung hứa phủ,

    Giáo thọ sự bất vi,

    Trưởng-tịnh cập tùy-ý.

 

* Phật tại thành Thất La Phiệt. Không xét rõ việc thuộc thấy, nghe hay nghi, Lục chúng liền cật vấn Bí-sô. Nghe tra hỏi vậy, các Bí-sô đều xấu hổ buồn rầu nên thân thể gầy ốm, nhan sắc tiều tụy, sức lực suy giảm, không thể đọc tụng tư duy đúng lý ... cho đến Phật bảo các Bí-sô:

 

- Từ nay về sau, chưa xét rõ về việc thấy, nghe, nghi, Bí-sô này không được cật vấn Bí-sô khác. Ai cật vấn trách cứ người khác như vậy, bị tội vượt pháp.

 

Về việc cật vấn như vậy, nên biết thẩm vấn ức-niệm, không giáo thọ, trưởng tịnh, tùy-ý, căn cứ đây để biết, đều bị tội vượt pháp.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển mười tám hết.

 

--- o0o ---

 

Quyển thứ mười chín

 

--- ooOoo ---

 

Nhiếp tụng ba trong biệt môn năm:

 

    Phật tam chuyển pháp-luân

    Sơ độ ngũ nhân dĩ,

    Bất hoán danh tộc đẳng,

    Câu thi tuyên lược giáo.

 

* Như vầy tôi nghe: Một thời Đức Bạc-già-phạm trú trong rừng Thi-lộc, Tiên Nhân Đọa Xứ, thuộc Ba La Ny Tư.

 

Bấy giờ, Thế Tôn bảo năm Bí-sô:

 

- Này các Bí-sô, đây là Khổ Thánh Đế. Đối với pháp được nghe này, như lý tác ý thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, đây là pháp Khổ Tập, Khổ Diệt, Thuận Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, như lý tác ý thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Khổ Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy các ông nên biết, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Khổ Tập Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy các ông nên đoạn, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Khổ Diệt Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy các ông nên chứng, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Thuận Khổ Diệt Đạo Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy các ông nên tu, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Khổ Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy Ta đã biết, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Khổ Tập Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy Ta đã đoạn, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Khổ Diệt Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy Ta đã chứng, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô, Thuận Khổ Diệt Thánh Đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy Ta đã tu, như lý tác ý với pháp được nghe này thì phát sinh nhãn trí minh giác.

 

Này các Bí-sô! Ta đối với pháp Tứ Thánh Đế này, vì đã hiểu rõ ba chuyển với mười hai hành tướng, nên nhãn trí minh giác đã phát sinh, do đó đối với chư thiên, ma, Phạm, sa-môn, bà-la-môn, tất cả thế gian, Ta đã trừ bỏ tất cả phiền não, tâm được giải thoát, liền chứng đắc được Vô-thượng bồ-đề.

 

Khi Thế Tôn thuyết pháp này, cụ thọ Kiều-trần-như và tám vạn chư thiên viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh.

 

Phật bảo Kiều Trần Như:

 

- Ông hiểu rõ pháp này không?

 

- Bạch Thế Tôn! con đã hiểu.

 

Phật lại hỏi:

 

- Ông hiểu rõ pháp này không?

 

- Bạch Thiện thệ! con đã hiểu.

 

Do Kiều Trần Như hiểu rõ pháp này, nhân đó có tên là A-nhã Kiều Trần Như (A Nhã nghĩa là hiểu rõ).

 

Nghe Phật thuyết như vậy, dược xoa dưới đất nói lớn tiếng với nhân thiên:

 

- Các vị nên biết. Đức Phật ở trong rừng Thi-lộc, Tiên-nhân-đọa-xứ, thuộc Ba La Ny Tư, giảng thuyết rộng ba lần chuyển mười hai hành tướng pháp luân. Do đó, đối với thiên, nhân, ma, phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả thế gian, Ngài làm việc lợi ích lớn, khiến cho người đồng phạm hạnh mau đến chỗ Niết Bàn an ổn. Chư thiên phát triển, A Tu La suy giảm.

 

Do lời tuyên cáo của dược-xoa ấy, chư thiên, tứ đại thiên vương đều nghe rõ hết. Lần lượt như vậy, trong khoảng sát-na truyền đến tận lục-dục thiên, rồi trong khoảng khắc khắp cõi Phạm Thiên đều nghe tiếng vang này. Nghe xong, phạm-chúng lại phổ biến khắp nơi nói rộng như trước. Nhân đó, kinh này tên là Tam Chuyển Pháp Luân.

 

Năm Bí-sô và chư thiên ... nghe Phật thuyết xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Sau khi Phật ba lần vì năm người, chuyển pháp luân rồi cho họ xuất gia thọ cận viên trở thành Bí-sô. Đối với Như Lai, năm Bí-sô vẫn gọi bằng tên hay hiệu của thị tộc hoặc gọi là cụ thọ.

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các ông không nên gọi Như Lai bằng tên họ, hiệu thị tộc hay cụ thọ. Vì sao?

 

- Bí-sô nào đối với Như Lai mà gọi bằng tên, thị tộc hay cụ thọ, chính là người si, chịu khổ não lâu dài trong đêm dài tối tăm vì làm việc không lợi ích. Vì vậy, các ông không nên gọi Như Lai bằng tên họ ... ai vẫn gọi như vậy bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy không nên gọi Như Lai bằng tên họ ... bị tội vượt pháp. Có Bí-sô trẻ tuổi, ngoại trừ Phật Thế Tôn ra, đối với các Bí-sô kỳ túc khác, đều gọi bằng tên họ ... cho đến cụ thọ.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô trẻ tuổi cũng không nên gọi các vị kỳ túc bằng tên họ thị tộc hay cụ thọ. Có hai cách gọi tên là đại đức hay cụ thọ. Bí-sô nhỏ tuổi nên gọi vị già là đại đức. Vị già gọi vị trẻ là cụ thọ. Ai không làm như vậy bị tội vượt pháp.

 

Đức Phật đang ở giữa rừng Sa-la song thọ, vùng đất Tráng-sĩ, thành Câu Thi Na. Bấy giờ, Thế Tôn sắp vào Niết-bàn, Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Ta đã tuyên thuyết rộng tạng Tỳ Nại Da cho các ông nhưng chưa nói tóm lược. Nay, Ta lại thuyết về lược giáo. Các ông hãy chú ý lắng nghe và ghi nhớ kỹ.

 

Này các Bí-sô, hoặc khi có việc nào mà từ trước đến nay Ta chưa ngăn, chưa cho phép, nhưng việc này trái lại sự không thanh tịnh, thuận theo sự thanh tịnh thì đấy là sự thanh tịnh nên thi hành. Nếu việc ấy trái lại sự thanh tịnh, thuận theo sự bất tịnh thì đấy là sự bất tịnh không nên làm.

 

Đây là việc phải tuân giữ, không được nghi ngờ.

 

 

 

Tụng thứ tư trong biệt môn năm:

 

    Xả - đọa vật không phân,

    Văn trù tùy ý súc,

    Tam cổ trượng tác phủ,

    Ưng trương yết-sĩ-na.

 

Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Có Bí-sô chứa y dư phạm xả nên đem y đến trước thượng-tọa để xả. Thấy y này, vị tri sự suy nghĩ: - Hôm nay tăng-già được nhiều lợi vật, nên bán để phân chia.

 

Vị này liền lên tiếng rao bán. Cả chúng cùng nhau phân chia làm cho vị kia bị thiếu hụt y. Bí-sô bạch Phật. Sau khi suy nghĩ: - Đem y phạm xả ra xả giữa tăng chúng có lỗi như thế, vậy không nên đem y phạm xả ra xả giữa tăng, Ngài bảo các Bí-sô: -Ngày trước Bí-sô phạm xả, đem y xả cho tăng nên bị phân chia làm cho thiếu y. Do đó không nên xả y cho tăng-chúng mà xả cho cá nhân. Người nào không biết tuy xả cho tăng thì cũng không nên phân chia. Ai đem y dư xả cho chúng tăng và người phân chia, cả hai đều bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy đem y dư xả cho cá nhân, có Bí-sô phạm dư y nên đem đi xả. Khi nhận được y, người không hiểu biết vẫn mặc nhiên giữ lấy không biết hoàn trả y lại.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên sai người khác đến dạy kẻ không hiểu biết. Nếu họ trả lại thì tốt, nếu họ không đưa nên cưỡng ép lấy lại mà thủ trì. Y bị xả này chỉ là tác pháp chứ không phải cho luôn. Nhưng khi xả y phải tìm người hiểu biết pháp, sau đó mới xả.

 

* Duyên khởi tại thành Quảng Nghiêm. Bị muỗi, ve cắn chích, các Bí-sô dùng móng tay gãi vết thương làm cho toàn thân rướm máu. Thấy vậy, người thế tục hỏi vì sao, Bí-sô đáp rõ.

 

Họ nói:

 

- Thánh giả, chẳng lẽ các ngài không có mùng ngăn muỗi hay sao?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép, làm sao mà sắm.

 

Thế Tôn đại bi tất cho phép việc này.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cho phép các Bí-sô sắm mùng ngăn muỗi.

 

Bí-sô không biết làm như thế nào. Phật dạy:

 

- Chu vi mười hai khuỷu tay, trên làm nóc. Nóc mùng dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay, làm mùng cao thấp tùy theo thân người.

 

Họ may thẳng hết, lấy giáp mí làm cửa, nên trùng muỗi bay vào. Phật dạy:

 

- Không nên may tận cùng mà chừa lại một ít xếp lên nhau làm cửa. Trời nóng giở cánh mùng lên. Nếu dưới biên, muỗi bay vào, nên nhét dưới chiếu hoặc dùng vật khác chận lại, không cho chúng vào.

 

* Duyên xứ như trước. Như Phật dạy, dùng nước phải lược. Các Bí-sô dùng tay cầm lưới mãi nên rất mệt nhọc. Phật dạy:

 

- Cột trên đầu gậy, mở lưới lấy nước.

 

Họ làm vậy, vẫn mệt nhọc. Phật dạy:

 

- Cầm ba cây gậy chụm lại, dùng dây cột gậy lại.

 

Dây cột không đứng vững. Phật dạy:

 

- Gần đầu gậy khoan ba lỗ, xỏ dây vào cột chặt, hoặc trên ba cây, cột bằng vòng sắt dưới mở rộng, cột lưới vào hai cây, mở rộng lưới ra lược lấy nước.

 

Khi rót nước, bị tràn chảy ra đất. Phật dạy:

 

- Chú ý rót nước chớ để chảy tràn.

 

Đáy bình không kê nên bị nghiêng ngã. Phật dạy:

 

- Nên kê bình cho vững chớ cho lay động.

 

Nước trong lưới lược chảy quá nhanh, làm cho trùng bị ngất ngư. Phật dạy:

 

- Nên đặt vật trong lưới.

 

Bí-sô không hiểu. Phật dạy:

 

- Dùng cát hay phân bò khô làm cho ướt rồi đặt vào lưới.

 

Vẫn không giữ được nước. Phật dạy:

 

- Nên làm bồn giữ nước.

 

Bí-sô không biết làm bồn thế nào. Phật dạy:

 

- Bồn có hai loại, bằng đồng và đất.

 

Bí-sô giữ bồn bằng tay nên rất mệt nhọc. Phật dạy:

 

- Không nên giữ bằng tay, nên khoét ba lỗ trên thành bồn, dùng dây cột trên cây chụm chảng ba cho thật vững chắc, nên đặt góc lưới vào trong bồn để giữ mạng sống cho trùng. Nếu lưới quá dày, nước không xuống được, nên dùng cây trơn đập nhẹ ngoài lưới.

 

Bí-sô nhìn vào bình không đựng đầy nước nên không thấy được trùng. Phật dạy:

 

- Nên rót nước cho đầy bình, để nước đứng yên mới quan sát trùng được.

 

Trên nước có bụi, xem trùng không thấy. Phật dạy:

 

- Gạt bụi đi mới xem. Nếu là trùng nhỏ nên dùng đầu ngón tay chỉ cho người khác.

 

Trùng nhỏ chạy nhanh, thấy không rõ ràng. Phật dạy:

 

- Nên dùng cọng tranh hay cọng cỏ ... mà chỉ rõ.

 

Khi lược được trùng, Bí-sô chụp lưới trên miệng giếng, tuy trùng có rơi xuống nước nhưng phần lớn ngất ngư hay bị chết. Phật dạy:

 

- Nên làm bồn phóng sinh đổ nước vào bên trong.

 

Bí-sô liền làm bình này, khi đầy thì đổ xuống, nhưng còn trùng đã lấy bình ra, trùng vẫn chết như cũ. Phật dạy:

 

- Nên dùng bồn này chứa trùng rồi để vào mặt nước đổ xuống cho không còn, mới lấy bồn ra.

 

Bí-sô không hiểu nên làm nhiều chậu phóng sinh. Có lúc không tìm được chậu phóng sinh. Phật dạy:

 

- Nên cột dây vào lưới lược, phương tiện thả xuống nước, trút ra cho trùng đi, sau đó kéo lên.

 

    (Chậu phóng sinh này, các nước phương Tây đã làm từ lâu, ai cũng hiểu. Xứ Đông-hạ này xưa nay chưa có nên cần phải chỉ rõ ý nghĩa, nếu không trình bày đầy đủ thì không nhờ đâu mà hiểu. Chậu này có thể làm bằng đồng sắt đất gỗ. Nếu dự định mang đi theo nên làm bằng đồng chứa được chừng hai, ba thăng như bình bằng đồng nhỏ, cột bằng dây đồng có thể luồn tay qua được, một bên cạnh đáy gắn nút đồng nhỏ, có thể lọt vừa đầu chiếc đủa tre. Khi đi khất thực, mang trên vai trái phủ y lên trên, tay phải ôm bát. Sau khi khất thực và dùng xong, có thể an trí bát nơi nhà nào đó, tự dùng dây sạch như gân thô, tùy theo giếng sâu cạn mà thả bình xuống lấy nước. Dùng lưới nhỏ vừa đủ để lược. Dùng một đầu dây xuyên qua lỗ nút cột thật chặt, dựng đứng dây lên vừa bằng bình, trên dây ngay chỗ ngang bằng bình, cột vào một nút nhỏ bằng sắt cho cân bằng không để nghiêng ngã, phải dự bị làm trước không phải khi múc nước mới tìm. Dùng lưới nhỏ bịt không cho trùng vào lọ, từ từ thả xuống, đến mặt nước rung nút sắt giật dây cho bình úp xuống, nhúng xuống ba lần mới kéo bình lên. Đây là cách thức khi khất thực. Nếu tại chùa, xử dụng bình sắt thường dùng đổ xuống giếng như trước nhưng có khác chút ít, ngay vòng đáy bình gắn một vòng sắt làm nút chừng ba ngón tay, đặt bình vào trong vòng sắt này để bình đứng vững dưới nước và đặt trùng bên trong, thả xuống mặt nước nghiêng đổ ra cho đúng cách; nếu giếng sâu cũng có thể làm được. Nếu làm dây riêng thì mắc công. Nếu giếng quá sâu có thể làm bồn riêng để giữ, hoặc có thể đổ ra sông hồ. Sau khi đổ nước xong cần phải rửa bồn sạch. Pháp này là như vậy.

 

    Phàm ai học thánh giáo Như Lai thì lấy từ bi làm gốc. Những giới luật chế ra, có tánh và giá tội; giá khinh tánh trọng. Trong tánh tội, sát sinh đứng đầu, vì thế người trí theo chân lý nên hộ mạng chúng sinh. Nếu cho sát sinh là nhẹ thì giới nào là nặng? Ai có thể làm được như trên, hiện tại được quả báo trường thọ, đời sau được sinh thế giới thanh tịnh. Xứ Thần-châu này hơn bốn trăm thành, người xuất gia có hàng vạn cách sinh hoạt nhưng hiếm người để tâm đến việc lược nước. Do tập tục nên xem thường, coi nhẹ lời Phật dạy, không thể tất cả đều được học và nghe, mong mỏi những vị tu hành thay đổi dần những tập tục cũ. Giả sử học thông ba-tạng, tọa chứng bốn-thiền, ngăn tưởng không sinh, tịnh tâm với không-lý nhưng không hộ mệnh chúng sinh cũng bị Phật chê trách. Tội đầu tiên trong mười nghiệp ác, ai thay thế cho được. Lại như thấy đồ tể dẫn dê vào chùa, chẳng qua là việc thả vài sinh mạng, mọi người trông thấy đều vỗ tay khen thiện, nào biết trong phòng dùng nước hàng ngày giết hại ngàn vạn chúng sinh. Đã biết giáo lý, cần phải cẩn thận lược nước quan sát chúng sinh.Tự lợi lợi tha, khéo hộ trì, khéo suy nghĩ. Lại sai khiến người khác cày ruộng đào cây chỉ cầu lợi nhỏ, không thấy hại lớn. Sát hại cả trên bờ dưới nước làm chết vô số sinh linh, tội lỗi như vậy, biết sẽ thế nào? Biết nhưng đành bó tay, khi lâm tử bị người khác phán xét. Thế nên kinh nói:

 

    - Kẻ sát sinh sẽ bị đọa địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, giả như được làm người thì chết yểu nhiều bệnh. Than ơi! khổ này ai thay cho được. Như có ai làm được (việc lược nước) thật lành thay, thiện thay, cùng kết thiện duyên từ bi ở lần đầu hội Long-hoa ... rộng như ở truyện ấy, đây không trích dẫn ra.)

 

Các Bí-sô dùng lưới lược nhưng không thường giặt rửa, không để khô, không hong nắng, không lật trở, làm cho lưới mau hư. Phật dạy:

 

- Dùng lưới lược nên giặt rửa ... ai không làm như vậy bị tội vượt pháp.

 

Có Bí-sô lược nước cho đại chúng, vì chúng quá đông nên người lược rất mệt nhọc. Phật dạy:

 

- Nếu chúng đông, lưới lược nước chậm không cung cấp kịp nên làm nồi lược nước.

 

Bí-sô không biết làm thế nào. Phật dạy:

 

- Nên làm nồi bằng đồng, sắt hay đất, dưới đáy có lỗ bằng cái chén nhỏ. Làm hình gương sen cao chừng bốn ngón tay, trên mặt xoi nhiều lỗ lớn như đầu lớn của chiếc đũa, phủ vải hay lụa lên trên dùng dây buộc chặt lại, gắn vào bên trong để lược nước. Dùng xong giặt tấm vải phủ theo như ở trước.

 

Các Bí-sô đem rận và rệp cùng các loại trùng bỏ ngoài đất trống làm cho chúng ngất ngư. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Đối với sinh vật, không được treo bỏ ngoài đất trống, cũng không nên vứt bỏ bừa bãi. Rận thì để trong lụa cũ, nếu không có thì để trong bọng cây, rệp thì bỏ trong cỏ xanh. Nếu không có cỏ xanh thì bỏ chúng nơi mát mẻ. Các loại trùng khác thì an trí chúng nơi thích hợp.

 

Cụ thọ Ô-ba-ly bạch Phật:

 

- Nước đã lược rồi chưa xem được uống không?

 

Phật dạy:

 

- Không được vì không xem xét.

 

- Đại đức, nước không lược nhưng có xem, được uống không?

 

Phật dạy:

 

- Được, vì có xem xét.

 

* Duyên xứ như trước. Như Phật dạy, chúng tăng an cư xong nên trương y yết-sĩ-na. Vua Thắng Quang nghe Phật cho phép liền gửi y Yết Sĩ Na dâng lên Đại Chúng. Phu nhân Thắng Quang, phu nhân Hành Vũ và trưởng giảû Cấp Cô Độc cùng những hạng cư sĩ kính tín gửi đến nhiều y để cúng đến cho tăng dùng. Các Bí-sô chỉ lấy một y làm Yết Sĩ Na, số còn dư trả lại cho chủ. Nghe như vậy, vua nói:

 

- Thánh giả, những vật này của chúng con đã cúng cho tăng, nay làm sao lấy trở lại.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Do đó, từ nay Ta cho phép các Bí-sô thọ nhận y này, tùy theo nhiều y nên sai nhiều người. Người làm trương y nên lấy một y để tác pháp thủ trì, số còn lại nên cất giữ làm lợi vật an cư cho tăng.

 

Nhiếp tụng năm trong biệt môn năm:

 

    Tử hậu chúc thọ biệt

    Ủy ký giả thân tử,

    Tha phương thông ủy ký,

    Nhược tử đối dư nhân.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Một trưởng giả sống trong thành có ba người con. Người con út xuất gia trong Phật pháp, du hành nhân gian. Khi vị này ra đi chưa bao lâu, người cha bị bệnh. Khi sắp chết, ông ta gọi hết thân thuộc lại, bảo với hai người con:

 

- Hãy gom hết tài sản trong nhà lại đây.

 

Sau khi họ đem lại, ông ta chia làm ba phần, hai phần cho hai người con tại gia, phần còn lại cho người con xuất gia. Sau khi di chúc như vậy, ông ta qua đời. Như có bài tụng:

 

    Tích tụ đều tiêu tán,

    Cao tột tất sụp đổ,

    Hội họp phải biệt ly,

    Có sống đều phải chết.

 

Khi ấy, hai người hỏa thiêu đúng pháp, buồn thảm cư tang. Nghe cha qua đời, người con xuất gia suy nghĩ: Ta có anh em, nay nên trở về thuyết pháp cho họ.

 

Về đến nhà, anh em gặp nhau cùng hết sức bi ai. Người anh nói:

 

- Em không nên khóc, ngày cha qua đời, có di chúc để lại một phần tài sản cho em.

 

Người em suy nghĩ:

 

- Như Thế Tôn dạy, người cho sau khi chết, không phải cho một cách tốt đẹp, không nên nhận vật ấy.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người đời chết có tâm hy vọng, Bí-sô qua đời không có tâm hy vọng. Đây là tâm hy vọng của người đời, nhận không có lỗi, tùy ý xử dụng.

 

* Duyên xứ như trước. Bí-sô nọ bị bệnh, bảo Bí-sô khác:

 

- Hãy chăm sóc tôi đàng hoàng, y bát của tôi sẽ để lại cho ông.

 

Người kia chăm sóc, không lâu Bí-sô bệnh qua đời. Thấy vị này đã chết nên người kia lấy y bát đem về phòng mình. Các Bí-sô cùng tập họp lại, hỏi:

 

- Y bát của người chết đang ở đâu?

 

Vị ấy đã cho tôi. Vị này đáp và kể lại đầy đủ sự việc trên.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người kia ngu si, sao không cho khi còn sống, chờ chết mới cho; không có pháp nói rằng chết rồi mới cho. Nên lấy lại vật ấy, đại chúng cùng phân chia, nên phân cho theo tiêu chuẩn.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô nhờ Bí-sô kia phân biệt( tịnh thí) y vật, bỗng nhiên qua đời. Bí-sô kia liền lấy y vật để trong phòng mình. Sau khi đưa tử thi lên xe đi hỏa thiêu rồi trở về, vị tri sự vào phòng người chết lần lượt tìm thấy y bát và lược nước của người chết nên đem những vật ấy về phòng chúng tăng. Có Bí-sô hỏi:

 

- Đem đến vật này, còn nhiều vật khác sao không đem đến?

 

- Trong phòng chỉ có thứ này, không còn vật khác.

 

Người khác nói:

 

- Có một Bí-sô là bạn người chết nếu hỏi vị ấy thì biết có còn hay không.

 

Được hỏi, vị ấy đáp:

 

- Người ấy có đưa cho tôi để phân biệt nên tôi giữ y ấy.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Đây là tác pháp không được giữ lại, nên lấy về cùng phân chia.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô đưa y cho vị khác phân biệt. Vị này bỗng nhiên qua đời. Bí-sô liền đem y này xả cho tăng già.

 

Đại chúng hỏi:

 

- Đây là vật của ai?

 

- Đây là vật của tôi đưa vị khác phân biệt. Họ qua đời, tôi đem vật này giao cho đại chúng.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Tác pháp nên như vậy, tuy là vật đưa họ để phân biệt nhưng không thuộc về họ, hãy lấy lại đem về dùng.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô đưa y vật cho Bí-sô khác phân biệt. Bí-sô đưa vật để phân biệt thình lình hoàn tục. Sau đó, vị này nhớ lại ... Bí-sô kia từng nhận y của ta để phân biệt. Nay ta hoàn tục nhưng vật kia thuộc về ta,vậy nên đến đòi lại.

 

Đến nơi, vị ấy thưa:

 

- Thánh giả, ngài đã từng nhận y của con để phân biệt, nay xin trả lại con.

 

Bí-sô bạch Phật. Sau khi suy nghĩ:

 

- Do các Bí-sô lấy Bí-sô khác làm người để ký gửi, rồi lại nhờ vị ấy làm người phân biệt nên có lỗi như vậy.

 

Phật dạy:

 

- Ta chế cho các Bí-sô không nên nhờ người mà mình ký gửi để phân biệt y vật. Ai làm vậy, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô nhờ Bí-sô khác phân biệt y vật. Người tác pháp phân biệt là hạng ưa tranh đấu thường cạnh tranh quấy nhiễu các Bí-sô, bị sân hận nên muốn bỏ ra đi. Thấy vị kia sắp bỏ đi, người nhờ phân biệt y khóc lóc, nói:

 

- Xin đừng đi.

 

Tuy hết sức giữ lại nhưng vị kia vẫn không ở, mọi người bảo:

 

- Thầy chớ giữ lại, ông ta là người ưa đấu tranh làm nhiễu loạn mọi người.

 

- Làm sao tôi không giữ lại, vì tôi thường nhờ ông ấy phân biệt y vật. Nơi khác không có người để ký gửi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Giả sử Bí-sô muốn ký gửi đang ở hải ngoại, chỉ cần ngay tại chỗ đang ở chỉ về nơi cần ký gửi cũng không có lỗi.

 

Bấy giờ, có Bí-sô chỉ Bí-sô khác đang ở rất xa làm người ký gửi. Người ấy bị qua đời. Khi các Bí-sô nghe được thì đã trải qua nhiều ngày, nên không biết thế nào. Bí-sô bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Khi vừa mới nghe chết thì những vật mới hay cũ phải ký gửi ngay cho người khác.

 

 

 

Nhiếp tụng sáu trong biệt môn năm:

 

    Giới ngoại bất dữ dục,

    Tương hành bất triển chuyển,

    Thuyết giới, tùy-ý sự,

    Vi giả tinh chiêu khiên.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô tuy ở ngoài giới nhưng lại gửi dục cho người trong giới. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được ở ngoài giới gửi dục cho người trong giới.

 

Thấy Phật không cho phép như vậy, có Bí-sô muốn ra khỏi giới, khi sắp lên đường, lục chúng cố bắt ép vị này thuyết dục. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người muốn ra ngoài giới, không cần phải gửi dục.

 

Nghe như vậy, Lục chúng ở ngoài giới vẫn giữ dục qua lại, cho đến cả sáu người lần lượt giữ dục cho nhau. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được ngoài giới mà lần lượt giữ dục cho nhau. Ai làm vậy, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Như Thế Tôn dạy, nữa tháng nên thuyết giới, Lục chúng Bí-sô cùng giữ dục thanh tịnh cho nhau ở ngoài giới. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy.

 

Họ lại lấy dục người sắp ra đi, lại lần lượt thay nhau lấy dục thanh tịnh rộng như nói trên. Phật dạy:

 

- Đều không được làm. Ai làm vậy bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy, sau khi an cư, Bí-sô nên đem ba việc thấy, nghe, nghi ra tác pháp tùy-ý (tự tứ). Lục chúng Bí-sô tự tiện tác pháp tùy-ý ở ngoài giới, giữ người sắp đi, lần lượt thay nhau tùy ý ở ngoài giới ... cũng như nói trên ... đều không được làm.

 

 

 

Nhiếp tụng bảy trong biệt môn năm:

 

    Ung khả tri nhân số,

    Tùy - ý nhậm hành trù,

    Bất dữ tục đồng tọa,

    Lão tiểu ưng tùy hạ.

 

* Duyên xứ như trước. Trong thành này có bà-la-môn nhân đi ra ngoài, đến rừng Thệ-đa, phát sinh ý nghĩ hiếm có, ta hãy thử hỏi trong chùa có bao nhiêu vị. Sau khi gặp Bí-sô hỏi về nhân số trong chùa, Bí-sô đáp:

 

- Tôi không biết được.

 

Bà-la-môn nói:

 

- Số binh lính của vua Thắng Quang nước Kiều Tát La còn biết được, vì sao không biết số lượng tăng đồ trong chùa.Vị kia đành im lặng.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cần phải biết nhân số.

 

Bí-sô liền đếm số từng người, có lúc tính bằng đốt tay nên không nhớ hết. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên đếm bằng thẻ, sau khi nắm được tổng số, báo cho chúng biết.

 

Bí-sô không biết lấy nhân số vào lúc nào. Phật dạy:

 

- Nên lấy nhân số vào lúc an cư.

 

Lại có trưởng giả vào rừng Thệ Đa, thấy các Bí-sô siêng năng đọc tụng chánh niệm Tịnh Lự nên phát sinh tín tâm trong sạch. Muốn biết tăng số để cúng dường ngọ trai, trưởng giả hỏi Bí-sô:

 

- Trú xứ này tất cả có bao nhiêu vị?

 

Sau khi được báo số người, trưởng giả về nhà bảo gia nhân:

 

- Sáng mai, ta muốn thỉnh Phật và Tăng đến nhà cúng dường ngọ trai với số lượng ... vị. Tùy theo số lượng chúng tăng, các ngươi nên bày biện đầy đủ.

 

Họ vâng dạ và bày biện các dụng cụ để cúng dường trong nhà.

 

Bấy giờ, vào giờ đại chúng vân tập, trưởng giả đến chùa báo với tri sự:

 

- Xin ngài vì con bạch với tăng giàtrưởng giả ... vào ngày mai sẽ thỉnh Phậtđại chúng đến nhà thọ trai.

 

Sau khi thưa thỉnh, trưởng giả từ tạ ra về.

 

Bấy giờ lại có những Bí-sô khác từ nhân gian đến vườn Cấp Cô Độc. Ngay đêm ấy, trưởng giả kia bày biện các món ăn thơm ngon, trải tòa, an trí bồn nước, tăm xỉa răng, bột để rửa, sáng sớm sai người đến bạch Phật và tăng:

 

- Đã đến giờ cúi mong quý Ngài giáng lâm.

 

Vào buổi sáng, chúng Bí-sô mặc y mang bát đến nhà trưởng giả.Bấy giờ đức đại sư ở lại chùa, sai người lấy thức ăn. Có năm trường hợp đức Như Lai đại sư không thân hành dự thỉnh. Đó là:

 

    Một: Ngồi yên một mình.

    Hai: Thuyết pháp cho chư thiên.

    Ba: Chăm sóc người bệnh.

    Bốn: Xem xét ngọa cụ.

    Năm: Vì chế học xứ.

 

Trường hợp này là muốn chế học xứ.

 

Bấy giờ, trưởng giả tính theo tăng số để xếp đặt chỗ ngồi, thức ăn ... khi thấy nhiều người đến nhà mình, bảo với điển tọa:

 

- Con đã chuẩn bị theo số người do ngài báo, nay nhiều hơn số ấy, vậy phải làm sao đây?

 

Điển tọa nói:

 

- Có khách mới đến, ngươi phải vui mừng.

 

Đáp:

 

- Nếu ngài báo trước, con mới dọn đủ thức ăn.

 

Bí-sô đành im lặng.

 

Bấy giờ, đại chúng có người no đủ, có người bị đói. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Điển tọa nên xem xét số khách và báo cho thí chủ biết.

 

Lại có Bí-sô đến trong lúc làm lễ, Phật dạy:

 

- Cũng phải báo cho họ biết. Ta sẽ dạy cho thượng tọa thủ chúng những pháp phải làm. Trước hết, thượng tọa nên xem xét số người và số thức ăn. Nếu người nhiều, thức ăn ít, nên bảo thí-chủ:

 

- Hiền thủ, người nhiều thức ăn ít nên phân cho đều. Nếu thức ăn nhiều, người ít, thì bảo:

 

- Hiền thủ, có nhiều thức ăn uống, phân chia tùy ý. Nếu thượng tọa nào không khéo quan sát, không làm theo chế định, bị tội vượt pháp. Lại nữa, đến nhà thí chủ, cần phải xem nước lược trùng, cây chà răng, đất vụn cho đầy đủ chớ để thiếu hụt. Trước và sau khi ăn rửa tay súc miệng phải làm đúng pháp. Nếu không kiểm soát, thượng tọa và thứ tọa đều bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô cùng người thế tục ngồi chung một tòa làm cho người kính tín sinh tâm chê bai:

 

- Thánh giả, ngài là người xuất gia thường tu tập phạm hạnh, vì sao cùng ngồi chung tòa với kẻ thường làm việc bất tịnh dâm dục?

 

Nghe vậy, họ đành im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Lời nói của những người tục có tín tâm thật đúng đạo lý.Vì vậy, các Bí-sô không nên cùng với người tục ngồi chung tòa. Ai ngồi bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật chế như vậy, có Bí-sô cùng ngồi chung toà với cầu tịch. Người có tín tâm nói:

 

- Ngài đã là cận viên sao lại cùng ngồi chung với thầy nhỏ?

 

- Đây không phải người thế tục, là người xuất gia, nào có lỗi gì?

 

Họ đành im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cũng không nên ngồi chung tòa với người chưa thọ cận viên.

 

Sau khi Phật không cho phép. Có Bí-sô già cùng ngồi với vị trẻ, lại có vị trẻ cùng ngồi với vị già nên không kính trọng nhau. Bí-sô bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Già và trẻ không nên ngồi lẫn lộn, người không tuổi hạ được ngồi chung với người hai hạ, một hạ được ngồi với hai hạ, hai hạ trở đi được ngồi với vị lớn hơn ba hạ.

 

Sau khi Phật chế như vậy, các Bí-sô tại nhà thế tục chỉ được ngồi chung với vị lớn hơn ba hạ. Khó tìm tòa để ngồi.

 

Phật dạy:

 

- Nếu trong nhà thế tục khó tìm tòa để ngồi, có thể ngồi chung tòa với thân giáo sư hay quỹ phạm sư, dùng vật ngăn cách, chớ nên nghi ngại.

 

Nhiếp tụng tám trong biệt môn năm:

 

    Bất ưng cư trữ tọa,

    Bất dụ tha cầu tịch,

    Bất vi thệ đổ vật,

    Diệc bất thực hổ tàn.

 

* Duyên xứ như trước. Khi nghe pháp nên trải tòa để ngồi, có cầu-tịch cũng ngồi vào tòa êm ái, nhân đó ngủ gục nên đái dầm làm bẩn cả nệm.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cầu-tịch không nên ngồi vào tòa nệm êm ái.

 

Khi cầu tịch Chuẩn Đà đệ tử ngài Xá Lợi Phất đến nghe pháp, Bí-sô cho ngồi vào tòa cỏ thô cứng.

 

Hỏi:

 

- Đại đức, vì sao cho tôi ngồi chổ thô cứng thế này?

 

Đáp:

 

- Phật không cho ngồi tòa êm.

 

Hỏi:

 

- Đại đức, chẳng lẽ tôi đồng với người có lỗi hay sao?

 

Phật dạy:

 

- Nếu cầu tịchchánh niệm cho họ ngồi tòa êm, ngoài ra không nên.

 

* Duyên xứ như trước. Có cầu-tịch bị Bí-sô la mắng đuổi ra ngoài cửa vườn Thệ-đa nên đứng khóc. Thấy vậy, Ô Ba Nan Đà hỏi:

 

- Vì sao ngươi khóc?

 

Đáp:

 

- Bị thầy la mắng.

 

- Ông hãy đến, ta sẽ cho ông y, bát, dây mang bát, thắt lưng ... những vật cần dùng không để thiếu hụt.

 

Ô Ba Nan Đà gọi cầu tịch ấy về phòng mình, bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Khi la mắng đệ tử, không nên nhất quyết đuổi đi, hãy làm như thả dây cương giữ tâm niệm thân ái, khi họ hồi tâm thì nhận lại, sai Bí-sô dùng lời lẽ khai hóa cầu tịch.

 

Người ấy nói:

 

- Không cần vị Thân Giáo Sư ấy, tôi cần điều gì, đại đức Ô Ba Nan Đà đều cung cấp. Tôi không chịu trở lại vị thầy cũ nữa.

 

Nghe như vậy, vị thầy cũ bất mãn mắng:

 

- Ta cho xuất giaÔ Ba Nan Đà dụ dỗ đem đi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không dụ dỗ đệ tử người khác. Ai dụ dỗ để theo mình, bị tội thổ-la-để-da là phương tiện phá tăng vậy.

 

* Duyên xứ như trước. Bấy giờ, Lục chúng Bí-sô khi gặp sự việc gì, tự tiện dẫn Phật pháp Tăng Bảo ra để thề thốt, hoặc dẫn Thân Giáo Sư Quỹ Phạm Sư ra thề thốt. Có người thế tục kính tín khi nghe thề thốt như vậy, nói:

 

- Chúng tôi là hạng thế tục còn không đem Phật và thầy ra thề thốt, các vị là người xuất gia vì sao lại đem Phật và thầy ra thề thốt. Đấy là việc không nên.

 

Họ im lặng không đáp được. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người tục chê bai thật hợp lý vì người xuất gia vốn nói lời chân thật, không nên thề thốt. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Khi có duyên sự, Lục chúng Bí-sô đem y bát dây lưng vv ... ra đánh cá đổi chác. Thấy như vậy, người thế tục bất mãn chê bai:

 

- Chẳng lẽ các vị đồng như thế tục hay sao, gặp việc cần liền đem y bát ra đánh cá, thật là phi lý.

 

Đáp:

 

- Có gì là phi lý, nào phải ta ăn hành tỏi, uống rượu hay sao?

 

Họ đành im lặng, Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người tục chê bai thật hợp lý. Bí-sô không nên đem vật ra đánh cá. Ai làm vậy bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Mỗi buổi sáng sớm, Lục chúng lên gác chùa nhìn xa nơi đồng hoang, hoặc thấy khói tỏa hoặc xem chim hạ xuống, liền đến nơi ấy xem là vật gì. Một lúc nọ thấy sự việc ấy, họ thân hành đến xem, gặp trong rừng có thịt dư tàn của cọp để lại. Họ vui mừng đem thịt này về rừng Thệ Đa. Con cọp ấy theo mùi đến tận chùa.

 

Ban đêm, cọp kêu rống ngoài cổng chùa. Biết như vậy nhưng Thế Tôn vẫn hỏi A Nan Đà:

 

- Vì sao cọp đến đây kêu rống vậy?

 

A Nan Đà thưa:

 

- Vì Tôn giả Cận hỷ lấy thịt dư tàn của cọp ấy cất dấu đem vào chùa.

 

Phật nói:

 

- Bí-sô ăn thịt dư tàn của cọp hay sao?

 

- Bạch Phật đúng vậy.

 

- Này A Nan Đà, như vua sư tử giết con nai xong, ăn thịt ngon, uống máu tươi rồi vứt lại bỏ đi. Nhưng loài cọp sau khi ăn thịt đã no vẫn đem dấu phần thịt thừa. Thế nên Bí-sô không nên ăn thịt thừa của cọp. Ai ăn bị tội vượt pháp. Người thuợng tọa thủ chúng có việc phải làm, Ta sẽ chế định. Khi thượng tọa thấy dọn thịt để ăn, phải hỏi, đây là thịt gì, không phải thịt dư tàn của cọp phải không, chẳng phải là vật không nên ăn phải không? Ai không hỏi mà thọ nhận, bị tội vượt pháp.

 

 

 

Tụng thứ chín trong biệt môn năm:

 

    Bất hợp tự tàng thân,

    Bất vi ngôn bạch đẳng,

    Nhược đắc thượng giá thảm,

    Mại chi ưng cộng phân.

 

* Duyên xứ như trước. Trong một thành kia, trước đây có chùa tăng. Nan-đà, Ô-Ba Nan Đà du hành trong nhân gian nên đến chùa này. Tuy thấy hai người này đến nhưng biết về hành động xấu của họ nên các Bí-sô ở đây không một ai giúp đỡ cả.Ô Ba Nan Đà thưa với Nan Đà:

 

- Bạch A Dá Lợi Da, bọn bát đen này thường sinh ngạo mạn, chúng ta nên gây phiền não cho họ. Hãy cùng núp vào một nơi, xem họ phân chia lợi vật như thế nào.

 

Đáp:

 

- Rất hay, nên làm như vậy.

 

Họ liền ẩn núp, lén xem phân vật. Sau khi thấy phân vật xong, họ nói:

 

- Phân như vậy bất thiện, là phân chia xấu, muốn phân y quý vị phải thưa với chúng tăng chứ!

 

Đáp:

 

- Khi phân không thấy, bây giờ ở đâu lại xuất hiện vậy?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Muốn phân lợi dưỡng, trước phải bạch cho chúng tăng biết:

 

- Tăng có lợi dưỡng, nay muốn cùng phân chia. Những Bí-sô có mặt không nên bỏ đi.

 

Bấy giờ, các Bí-sô tập hợp các vật đã phân lại, báo khắp trong chúng biết không nên ra khỏi bữa ăn để phân chia vật ấy. Hai người kia lại tự ẩn núp, chờ chúng phân chia xong, làm theo như trước, đi ra nói đây phân chia không đúng.

 

Họ nói:

 

- Trước đã báo cho chúng, quý vị từ đâu đến vậy?

 

Hai người nói:

 

- Tuy nói cho mọi người biết, nhưng hãy đánh kiền-chùy.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Thưa cho mọi người biết, tiếp đánh kiền chùy rồi mới phân vật.

 

Các Bí-sô thu vật đã phân lại, thưa cho mọi người biết, đánh kiền chùy báo cùng nhau phân vật ấy. Hai người lại núp, chờ phân xong mới đi ra rồi chê trách như trước.

 

Mọi người nói:

 

- Chẳng lẽ không nghe báo cho mọi người và đánh kiền chùy hay sao?

 

Đáp:

 

- Tuy có báo cho chúng biết và đánh kiền chùy nhưng các vị nào có cùng nhau phân thẻ?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Thưa cho mọi người biết, đánh kiền-chùy và nên phát thẻ rồi mới cùng phân vật.

 

Các Bí-sô thu vật đã phân lại, làm ba việc như trên xong.Vẫn như cũ, hai người ẩn núp, chờ phân xong lại đi ra rồi chê trách. Mọi người bảo:

 

- Vì sao cụ thọ cố gây phiền não cho chúng tăng như vậy, đã cáo bạch, đánh kiền-chùy và phát thẻ vẫn không hiện diện, chờ xong mới đi ra?

 

Đáp:

 

- Vì sao các vị bảo chúng tôi gây phiền não cho tăng? Các vị có đối trước chúng tăng mà làm không, tất cả việc này đều không cần nữa, nay chúng tôi ra đi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Tuy có ba việc trên nhưng phải làm với chúng, ai không hiện diện thì không phân cho họ. Đây là sự phân chia tốt đẹp, không nên nghi ngờ. Nhưng các Bí-sô không nên gây sự làm phiền chúng tăng. Ai cố gây phiền não bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Sau khi cúng chùa cho tứ-phương Tăng Già, trưởng giả Cấùp Cô Độc dùng các màu sắc đẹp hảo hạng tô vẽ trong và ngoài chùa. Nghe trưởng giả vẽ xong, nhân dân trong thành tranh nhau đến chiêm ngưỡng, có đến vô lượng trăm ngàn người cùng tập họp trong chùa. Trong thành có một vị đại Bà-la-môn cao quý mọi người đều kính trọng, được một tấm thảm nơi đại vương gia, liền mang tấm thảm với tâm thích thú, đi vào thăm viếng khắp rừng Thệ-đa. Ông ta phát tâm kính tín đem tấm thảm cúng dường Tứ Phương Tăng (Trong này tuy nói là tứ-phương nhưng ý cho hiện tiền tăng chẳng phải là thường trú tăng). Như lời Phật dạy, có y vật hiện tiền cho đến cắt nhỏ như tim đèn cũng phân chia bình đẳng. Bí-sô liền đem tấm thảm cắt ra từng miếng phân chia cho chúng tăng.

 

Đêm về, người Bà-la-môn suy nghĩ:

 

- Đó là tấm thảm thượng hạng, ta nên tính theo giá trị để chuộc về lại.

 

Sáng hôm sau, ông ta vào chùa, vừa đến cửa thấy các Bí-sô nên hỏi:

 

- Thánh giả, tấm thảm con cúng, các ngài dùng làm gì?

 

Bí-sô đáp:

 

- Ngài nên tùy hỷ, chúng tôi đã cắt ra phân cho đại chúng.

 

Một người nói:

 

- Tôi dùng che đầu.

 

Người nói:

 

- Tôi làm dép.

 

Người nói:

 

- Tôi làm dây đai.

 

Người nói:

 

- Tôi làm khăn lau bát.

 

- Thánh giả, đó là tấm thảm thượng hạng, vì sao lại cắt phá đi, nên đem bán ra rồi phân chia cho chúng tăng.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Lời của người bà-la-môn thật hợp lý, thế nên khi Bí-sô được tấm thảm thượng hạng như vậy, đem đổi lấy tiền sau đó phân chia.

 

Nhiếp tụng mười trong biệt môn năm:

 

    Ngũ bì bất ưng dụng,

    Dư loại diệc đồng nhiên,

    Nhược hoạn trĩ bệnh thời,

    Bi bì lý ưng trước.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô bảo nhau:

 

- Nan-đà, Ô Ba Nan Đà, trong thành này có nhiều người, chúng ta đều xin được bánh nhưng chưa thấy người điều voi của vua cho ta bao giờ. Nay hãy đến xin, có khi họ cho.

 

Một người nói:

 

- Nên làm như vậy, nhưng phải dự tính trước ít nhiều mưu kế, hãy lấy da sư tử làm giầy rồi đi phía trên gió chỗ cột voi. Nghe mùi, voi liền kinh chạy.

 

Đáp:

 

- Rất hay, chúng ta hãy đến xin ông ta, nếu cho thì tốt, bằng không cho thì gây khủng bố cho voi chưa muộn.

 

Vào sáng sớm, họ đến nhà người điều voi, bảo:

 

- Hiền thủ, tại sao các vị không có chút tâm cầu phước nào vì chưa bao giờ cho chúng tôi bánh trái gì cả.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, chẳng lẽ chúng tôi bị lệ thuộc ngài hay sao mà đem bánh trái cung cấp.

 

Nghe như vậy, Lục chúng gật đầu vâng dạ rồi bỏ đi. Vào một ngày khác, mang giầy da sư tử đứng trên gió chỗ cột voi. Nghe mùi sư tử, bầy voi vãi cả đại tiểu ra, sợ hãi nhốn nháo. Người điều voi dùng móc sắt chận cổ voi nhưng chúng không đứng yên.

 

Từ xa trông thấy, Lục chúng bảo:

 

- Hiền thủ, mau kéo lại, mau kéo lại.

 

Đáp:

 

- Móc sắt không kéo được, tay không làm sao kéo?

 

Lục chúng nói:

 

- Tôi có thể làm chúng đứng lại yên.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, nếu làm chúng đứng yên thật là ân lớn.

 

- Hãy giao ước với nhau, nếu cho chúng tôi bánh trái thì chúng tôi làm chúng đứng yên.

 

Đáp:

 

- Tôi sẽ cho.

 

Lục chúng vội đi xuống phía dưới gió. Không còn nghe mùi nữa, voi liền đứng yên. Những người điều voi hỏi:

 

- Thánh giả, các vị biết chú thuật phải không?

 

- Tôi không có thuật lạ gì cả.

 

- Như vậy, vì sao làm cho voi không còn sợ nữa?

 

Lục chúng đem sự thật nói lại cho người điều voi.

 

Họ nói:

 

- Thánh giả, vì sao các ông làm việc phi pháp không lợi ích như vậy? Nếu như voi lớn uy dũng của nhà vua vì sợ hãi này mà chạy vào rừng sâu, chắc chắn các vị bị phạt tội nặng.

 

Nghe như vậy, lục chúng cười nhẹ, im lặng không đáp được. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Vì các Bí-sô mang giầy da sư tử nên có lỗi như vậy.

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Từ nay, các ông không được mang giầy bằng da sư tử nữa. Ai mang loại này, bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật không cho, họ liền dùng giầy bằng da cọp. Phật dạy:

 

- Đây cũng không được. Da năm loại thú có móng vuốt nanh ngà thì không được dùng; đó là voi có trí, ngựa có trí, sư tử, cọp, beo.

 

Sau khi Phật không cho phép, cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:

 

- Nếu có da các loại thú có móng nanh khác, được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không nên dùng, ai dùng bị tội ác-tác.

 

Duyên xứ như trước. Có Bí-sô bị bệnh trĩ, đến gặp y sĩ, nói:

 

- Hiền thủ, tôi bị bệnh trĩ, mong ông chữa trị cho.

 

Đáp:

 

- Nên dùng da gấu làm giầy mang thì hết bệnh.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép.

 

- Đức Phật đại từ chắc chắn cho phép.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bệnh được phép mang.

 

Nhiều lớp khó tìm, Phật dạy:

 

- Nếu không có, nên dùng một lớp và dùng lông lót vào đế giầy.

 

CĂN-BẢN THUYẾT NHẤT-THIẾT HỮU-BỘ

 

TỲ-NẠI-DA-TẠP-SỰ

 

Quyển mười chín hết.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11595)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12534)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17940)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11698)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15304)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14295)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15276)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11968)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12039)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13126)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16497)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19585)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11807)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12725)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14468)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12574)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15619)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13571)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12853)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9822)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11123)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12135)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13002)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11411)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14209)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant