Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 20 đến 21

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 7647)
Quyển 20 đến 21

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự
Quyển thứ hai mươi

 

--- ooOoo ---

 

Tổng nhiếp tụng môn thứ sáu:

 

    Mãnh thú cân bất ưng,

    Đăng quang cập dũng kiện,

    Đà-sa độ ny pháp,

    Nhân hứa KiềuĐáp Ma,

    Ny bất tiền trưởng giả,

    Khả dữ dư ngoạ cụ,

    Bất hợp thế thủy ô,

    Đệ lục tổng ưng tri.

 

Nhiếp tụng một trong biệt môn thứ sáu:

 

    Mãnh thú cân bì diên,

    Ung tiền phục ưng hậu,

    Lưỡng giác cập tiêm đầu,

    Chư ngoa giai bất hợp.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Phật dạy, Bí-sô không nên dùng da của năm loại mãnh thú có móng vuốt răng ngà là voi có trí, ngựa có trí, sư tử, cọp, beo.

 

Lục chúng dùng gân các loại thú trên lại có lỗi như trước. Phật dạy:

 

- Không nên dùng các loại gân trên may giầy dép.

 

Lục chúng lại dùng mũ da nên bị lỗi như trước. Họ lại dùng da để sửa dép. Phật dạy:

 

- Đều không nên dùng, như vậy nên biết các loại giầy dép nếu có che trước che sau, hai góc, mũi nhọn, giầy gai giầy ủng đều không nên mang. Ai mang bị tội vượt pháp, trừ dép da hai ba lớp. (Những loại này, người Tây quốc không mang, nếu ngoại quốc bị lạnh vì ý giữ mạng sống nên dùng).

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Tứ đại vương sơ đản,

    Quang minh phổ giai chiếu,

    Phụ mẫu nhân tư sự,

    Các vi lập kỳ danh.

 

* Bấy giờ, Bồ Tát (Hộ-Minh) đang ở thiên cung Đổ Sử.

 

Trong thành Vương-xá, vua tên Đại Liên Hoa, dùng pháp trị đời, nhân dân phồn thịnh, an ổn giàu vui, không có trộm cướp.

 

Thành Thất La Phiệt, vua hiệu Phạm Thụ.

Thành Xướng-thệ-ni, vua hiệu Đại Luân.

Thành Kiêu-thiểm-tỳ, vua tên Bách Quân.

 

Bốn vị vua này đều là pháp vương, dùng pháp trị đời nói rộng như nơi khác. Trên thiên cung, Bồ Tát dùng năm sự việc quan sát thế gian.

 

Đó là:

 

    1. Xem xét về tổ tiên.

    2. Xem xét về thời tiết.

    3. Xem xét về quốc độ.

    4. Xem xét về giòng họ gần.

    5. Xem xét về người mẹ.

 

Sau khi chư thiên Lục Dục ba lần làm bụng người mẹ thanh tịnh, phu nhân Ma-Da mộng thấy voi trắng sáu ngà giáng hạ vào bụng. Khi ấy quả đất chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu ra khắp cả thế giới, hơn cả quang minh của chư Thiên. Những nơi tối tămnhật nguyệt không chiếu đến được trong thế giới đều sáng rực lên. Chúng sinh nơi đó đều thấy được nhau. Phần sau sẽ nói về lúc Bồ Tát đản sinh.

 

Vua bốn đại quốc đều sinh thái tử. Thấy ánh sáng như màu dung-kim vàng ròng, họ đều nói rằng vì ta sinh con trai có sức uy thần làm cho trời đất sáng rực một cách kỳ lạ, nên đều đặt tên con hợp theo điềm linh ứng này.

 

Vua Đại Liên Hoa bảo mọi người:

 

- Khi con ta sinh như ảnh mặt trời, trời đất sáng suốt xinh đẹp lạ lùng, nên đặt tên con ta là Ảnh Thắng (Phạm ngữ là Tần-tỳ-sa-la).

 

Vua Phạm Thụ bảo mọi người:

 

- Khi con ta sinh ra, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp thế gian, nên đặt tên là Thắng Quang.

 

Vua Đại Luân bảo mọi người:

 

- Khi con ta sinh ra như cây đèn lớn chiếu sáng khắp nơi, nên đặt tên Đăng Quang.

 

Vua Bách Quân bảo mọi người:

 

- Khi con ta sinh như mặt trời mọc chiếu ánh sáng khắp nơi, nên đặt tên là Xuất Quang.

 

Họ đều cho đó là công năng của con mình, nhưng nào biết do uy lực của Bồ Tát.

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Phúc trung thiên thủ hộ,

    Sinh dĩ đạp liên hoa,

    Cử thủ độc xưng tôn,

    Hoán tẩy hoa y lạc.

 

Khi Bồ Tát đã giáng thần trong thai mẹ, Thiên chủ Đế Thích sai bốn vị thiên tử đều cầm khí trượng hộ vệ người mẹ, không cho người và phi nhân làm tổn hại. Ở trong thai, Bồ tát không bị máu và chất dơ trong thai làm ô nhiễm. Ví như các vật báu tụ lại một nơi không làm ô nhiễm nhau, Bồ Tát ở trong thai cũng như vậy. Lại như ngọc lưu ly trong suốt xinh đẹp đặt trên năm màu sắc, người có mắt sáng nhìn thấy phân biệt rõ ràng, người mẹ nhìn vào bụng thấy rõ ràng cũng như vậy. Tuy mang thai nhưng thân thể người mẹ không mệt nhọc, tự nhiên giữ gìn năm học xứ, đó là trọn đời không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối trá, không uống rượu, không có ý tưởng dâm dục với đàn ông. Đầy đủ mười tháng, người mẹ đi đến rừng Lâm Tỳ Ny, vịn nhánh cây Vô-ưu, tạm thời đứng lại, đản sinh Bồ Tát bằng hông bên phải. Khi ấy trái đất chấn động sáu cách phóng ánh sáng lớn như khi vào thai.

 

Lúc Bồ tát đản sinh, Đế Thích đưa tay đỡ lấy Ngài đặt lên hoa sen, chân đứng không cần phải vịn. Sau khi đi bảy bước trên bảy hoa sen, Bồ Tát nhìn khắp bốn phương, tay chỉ lên tay chỉ xuống, tuyên bố lời này:

 

- Đây chính là thân cuối cùng của Ta, Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn.

 

Phạm vương giương lọng, Đế Thích cầm phất, trong hư không Long vương phun nước một vòi ấm một vòi lạnh tắm rửa Bồ Tát. Khi vừa đản sinh, ngay trước mặt mẹ Ngài xuất hiện một suối phun thơm, xử dụng tùy ý. Trên không trung, chư thiên rãi hoa sen xanh, đỏ, vàng, trắng và các loại bột thơm kỳ diệu khác, âm nhạc cõi trời tự nhiên vang lên, y lụa trời đẹp từ hư không rơi xuống loạn xạ, lại có rất nhiều điềm lành kỳ diệu ... nói như các nơi khác.

 

Nội nhiếp tụng:

 

    A-tư-đa đổ tướng,

    Na Kích Đà khuyến sư,

    Ngũ bách thụy hiện tiền

    Phụ vương lập tam tự.

 

Bấy giờ, trong núi lớn ở phương Nam có một tiên nhân già tên A Tư Đà biết rõ được thời gian thành hoại của thế giới. Có một người tên là Na-Kích-Đà, thông minh mẫn tuệ thường đến yết kiến tiên A Tư Đà để bàn luận về sự thành hoại của thế gian.

 

Sau khi nghe dạy, vị này cảm thán nên xuất gia nơi vị tiên nhân. Một hôm, đang cùng tiên nhân ở trong hang đá, thấy hào quang chiếu sáng rực rỡ dị tướng kỳ lạ, vị này nói kệ hỏi thầy:

 

    - Vì sao quang minh này,

    Chiếu khắp như mặt trời,

    Tràn ngập cả núi rừng,

    Xuất hiện kỳ lạ vậy?

 

Tiên nhân đáp:

 

    - Nếu ánh mặt trời thì nóng rực,

    Ánh sáng này mát thật lạ kỳ,

    Chắc là Vô thượng Mâu Ny tôn,

    Vừa ra thai mẹ hiện điềm lành,

    Tướng này Bồ Tát khi đản sinh,

    Quang minh thanh tịnh thật kỳ lạ,

    Như màu vàng kim tràn mười phương,

    Chiếu sáng rực rỡ khắp ba cõi.

 

Na Kích Đà bạch với thầy mình:

 

- Nếu như vậy nên cùng đi đến thăm viếng Bồ Tát.

 

Thầy nói:

 

- Con biết không, Bồ đề tát đỏa có đại uy thần, vô lượng Chư Thiên đều vân tập, chúng ta tuy đến nhưng không sao đảnh lễ yết kiến được, đợi Ngài vào thành đặt tên xong, nhiều lần như vậy, ta mới mong gặp được.

 

Khi Bồ Tát đản sinh, Xiển Đạc Ca ... năm trăm thị giả cùng sinh đồng thời, Xiển Trĩ Ca ... năm trăm thị nữ cũng sinh đồng thời, voi ngựa giỏi trong chuồng đều sinh năm trăm, năm trăm kho kín tự nhiên hiển lộ, các vua láng giềng đều dâng tín vật. Thấy như vậy, đại thần tâu vua Tịnh-phạn:

 

- Đại vương! Hôm nay đất nước hưng long, đản sinh thái tử, hiện các điềm lành, năm trăm thị nam, năm trăm thị nữ, voi ngựa giỏi đều sinh năm trăm, năm trăm kho kín tự nhiên hiển lộ, các nước đều triều kiến mang vật trân kỳ đến.

 

Nghe tâu, vua rất vui mừng, bảo đại thần:

 

- Thái tử sinh ra, các việc đều thành tựu vậy nên đặt tên là Nhất Thiết Sự Thành ( Phạm ngữ Tát Bà Aùt Tha Tất Đa). Đây là tên đầu tiên của Bồ Tát, hiệu Nhất Thiết Sự Thành.

 

Bấy giờ, Bồ Tát đi xe bốn báu với vô lượng trăm ngàn người trời tùy tùng đi vào thành Kiếp Tỷ La. Các Thích Ca tử tâm ý kiêu mạn bản tính nhiều lời nhưng khi Bồ Tát vào thành, họ đều mặc nhiên im lặng không nói gì được. Thấy như vậy, vua bảo đại thần:

 

- Các Thích Ca tử tâm luôn kiêu mạn, tính vốn nhiều lời, khi thái tử vào thành, họ đều mặc nhiên im lặng không nói được gì, vậy nên đặt tên cho thái tửThích Ca Mâu Ny (Im lặng). Đây là lần đặt tên thứ hai của Bồ Tát.

 

Trong thành này vốn có Dược xoa cựu trú tên Thích-Ca Tăng Trưởng được mọi người kính trọng lập miếu thờ. Mỗi khi giòng họ Thích sinh được trai hay gái đều tắm rửa sạch bồng đến miếu Dược xoa để kính lễ.Vua Tịnh Phạn dùng mật bơ thượng hạng bôi đầy miệng thái tử, bảo đại thần:

 

- Hãy bồng thái tử đến lễ Dược xoa.

 

Trông thấy đại thần bồng thái tử đến, Dược xoa liền hiện thân, đến đảnh lễ sát chân Bồ Tát. Nghe đại thần trở về tâu lại, vua sinh tâm cho là hy hữu:

 

- Nay thái tử của ta là bậc tôn thắng trong thiên thần, vậy nên đặt tên là Thiên Trung Thiên. Đây là lần thứ ba đặt tên cho Bồ Tát.

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Phó mẫu dưỡng thái tử,

    Linh quán đại nhân tướng,

    A Tư Đà viễn chí,

    Thân đổ Mâu Ny hình.

 

Phụ vương giao thái tử cho các dưỡng mẫu, tùy lúc tắm rửa cho bú mớm ăn uống, thường làm cho thân tâm an ổn thích thú. Dưỡng mẫu dùng hương thơm thượng hạng thoa thân thể Ngài, trang sức với đầy đủ anh lạc rồi trao cho vua cha. Vua cha bồng giữ hoan hỷ ngắm nhìn rồi ra lệnh tập trung tất cả các Bà-la-môn, những người biết xem tướng, hiểu toán số trong nước đến xem thái tử, bảo họ:

 

- Các vị nên quan sát, ta nghe vị tiên xưa nói rằng, người đầy đủ 32 tướng đại trượng phu thì có hai trường hợp. Nếu sống tại gia sẽ làm Luân Vương, thống lĩnh bốn châu dùng pháp trị đời, đầy đủ bảy bảo.

 

Đó là luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, nữ bảo, chủ tàng thần bảo, chủ binh thần bảo; đủ ngàn người con trai dũng mãnh trung lương, chiến thắng được oán địch, khắp trong hải nội khônghoạn nạn, nhân dân sống giàu có sung sướng an ổn. Nếu xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc y ca-sa thì thành Bậc Chánh-đẳng-giác, có tiếng tăm lớn vang khắp thế gian.

 

Nghe vua nói xong, các tướng sư cùng nhau quan sát rồi tâu:

 

- Đúng như việc đại vương đã nói, ai thành tựu 32 tướng chắc chắn chỉ có hai việc là Luân-vương hay thành Phật ... cho đến vang khắp thế gian.

 

Vua lại hỏi:

 

- Tướng ấy như thế nào?

 

Các vị tướng sư đều đáp đầy đủ từng tướng trong 32 tướng, văn có ghi đủ (không khác các Kinh, Luật, Luận khác nên chẳng phiền dịch)

 

Bấy giờ, tiên nhân A-Tư-Đa bảo Na-Kích-Đà:

 

- Này Ma Nạp Bà Tỷ, tính ra Bồ Tát đã vào thành và đặt ba tên xong, chúng ta nên đến lễ bái chiêm ngưỡng dung nhan.

 

Họ dùng thần thông nương hư không bay đi. Do sức uy thần của Bồ Tát, còn cách thành Kiếp Tỷ La chừng một trạm ngựa, họ bị mất thần túc nên phải đi bộ. Sau khi vào thành đến cửa đền vua, họ nói với nguời giữ cửa:

 

- Ông vào báo vua, có tiên A Tư Đa đến ngoài cửa.

 

Nghe sứ báo, vua phán:

 

- Cho vào tùy ý, ai lại ngăn đại tiên.

 

Tiên liền vào đền vua. Thấy tiên đến, vua nói vọng ra:

 

- Chào ngài mới đến, xin vâng theo sự an lành.

 

Sau khi rửa chân, mời tiên an tọa vào tòa sư tử, vua lạy sát chân rồi bạch:

 

- Đại tiên, có việc gì mà được ngài đến đây?

 

Tiên nói kệ:

 

    - Đại vương, tôi đến đây,

    Muốn gặp vương thái tử,

    Chiêm ngưỡng Mâu Ny tôn,

    Bậc đạo-sư đệ nhất.

 

Vua nói:

 

- Thái tử đang ngủ.

 

Đáp:

 

- Tuy Ngài ngủ, tôi muốn xem qua.

 

Vua bồng ra, thấy hai mí mắt thái tử không khép kín, tiên nói kệ:

 

    - Ngựa giỏi không ngủ nhiều,

    Nữa đêm tạm thời nghỉ,

    Bởi vì việc chưa thành,

    Làm sao an nghỉ lâu!

 

Tiên lại hỏi:

 

- Những người xem tướng dự đoán như thế nào?

 

Vua thưa:

 

- Đại tiên, họ nói sẽ làm Luân Vương trị vì bốn châu thiên hạ.

 

Tiên nói kệ đáp:

 

    - Tướng sư nói quá sai,

    Kiếp cuối, không Luân Vương,

    Bậc có thắng phước này,

    Sẽ đoạn hoặc, thành Phật,

    Nếu giáo hóa bốn châu,

    Tướng Luân-vương không hiển,

    Tướng Đại-sư phân minh,

    Quyết thành Phật không sai.

 

Sau khi xem khắp thấy tướng thành Phật rồi, lại quán sát bao lâu Ngài sẽ chứng Vô Thượng Cam Lộ, chuyển diệu pháp-luân, tiên nhân thấy vào năm 29 tuổi, Thái tử rời khỏi thành vua, sáu năm khổ hạnh sẽ thành Chánh Giác. Lại xem tự thân còn sống bao lâu được thấy Phật không? Tiên nhân biết không gặp Phật nên buồn bã nước mắt đoanh tròng.

 

Thấy tiên nhân sầu não, vua nói kệ hỏi:

 

    - Dù nam hay nữ đến trông thấy,

    Đều cũng hoan hỷ khắp thân tâm,

    Nay ngài trông thấy tướng phi thường,

    Vì sao hai mắt lại rơi lệ?

    Giả sử tướng thái tử chẳng tốt,

    Đoản mệnh, nhiều bệnh, không an lành,

    Cầu xin đại tiên nói thật ra,

    Chớ làm tâm tôi thêm lo lắng.

 

Tiên nhân nói kệ đáp:

 

    - Giả sử sấm sét trên không xuống,

    Đáng sợ đến cạnh thân thái tử,

    Đối với Vô-thượng Mâu-Ny tôn,

    Chỉ như lông tóc không gây hại,

    Giả như lửa dữ bùng theo gió,

    Kiếm bén như sương ngay trước mặt,

    Độc dược, độc xà đến một lần,

    Gặp phải thái tử, đều tan hoại.

 

    Tôi buồn chết sớm không gặp Phật,

    Lệ tràn đầy mắt không ngăn được,

    Bỏ pháp vô-thượng, tôi chết trước,

    Chưa được thành tựu sự nghiệp gì,

    Bậc này phước lớn trừ khổ não,

    Chứng pháp Cam-lộ, làm đạo-sư,

    Ai nghe giảng dạy, làm đúng pháp,

    Đều chứng Tịch-diệt, cảnh Niết-bàn.

 

Nghe Thái tử chứng pháp Cam Lộ, nhà vua im lặng không nói gì. Phàm là người đời đều bị tâm tà quấy nhiễu nên nói ra hư dối không dựa vào sự thật.

 

Tiên nhân bảo vua:

 

- Hằng ngày đại vương thường suy nghĩ, bao giờ được tiên A Tư Đà đi bộ vào thành gặp ta để mọi người ân cần kính trọng. Vì thương xót vua nên tôi đi đến đây, nay việc đã xong, muốn ra khỏi thành, hãy quét dọn làm sạch sẽ thành phố.

 

Vua Tịnh Phạn ra lệnh quần thần sửa chữa đường xá, bảo khắp trong thành cùng nhau quét dọn các ngõ phố cho khang trang sạch sẽ, rưới bằng nước thơm Chiên Đàn, rãi hoa Chiêm Bát Ca, phướng lọng rợp trời, khói thơm tràn ngõ, mọi người ưa thích như trong vườn Hoan-hỷ. Vua lại sai rung chuông báo khắp nơi:

 

- Mọi người nên biết hoặc cựu trú trong thành hoặc nơi khác mới đến, đều phải ghi nhớ, sáng sớm mai tiễn đại tiên đi về.

 

Nghe như vậy, mọi người đổ xô ra đường chiêm ngưỡng tiên nhân đi ra khỏi thành, cùng nhau khát vọng buồn bã ngóng theo rồi trở về.

 

Vừa về đến núi cũ, tiên A Tư Đà trụ tâm thiền định, dùng trí phương tiện phát thần thông, biết sắp qua đời nên sinh ra bệnh, tuy có uống thuốc nhưng không thuyên giảm.

 

Na Kích Đà đến lạy sát chân thầy thưa:

 

- Đại sư, con xuất gia vì cầu vị Cam Lộ, điều thầy chứng được xin chia cho con.

 

Thầy nói:

 

- Ta cũng như ông, khi xuất gia, ý muốn cầu Cam Lộ, cuối cùng chẳng được gì chỉ lao nhọc uổng công. Thành Kiếp Tỷ La bên cạnh Tuyết Sơn, có thái tử ra đời, tướng sư đều dự đoán sẽ thành bậc Chánh Giác hiệu Thiên Nhân Sư, xưng là Nhất Thiết Trí. Ông nên cầu xuất gia nơi vị ấy, phải tự khiêm tốn, bỏ tâm kiêu mạn, siêng tu tập phạm hạnh không sống phóng dật. Khi ấy, ông sẽ nhận được vị Cam Lộ.

 

Tiên nhân nói kệ:

 

    - Như Lai xuất thế khó được gặp,

    Nay được tương phùng thật hiếm có,

    Ông chớ phóng dật, chí tâm cầu,

    Sẽ được vị Cam Lộ vô-sinh.

 

Sau khi nói xong, tiên nhân qua đời, như bài kệ:

 

    - Tích tụ đều tiêu tán,

    Cao tột tất rơi xuống,

    Hội họp rồi biệt ly,

    Có sống phải bị chết.

 

Sau khi tiên A Tư Đà qua đời, đệ tử Na Kích Đà hỏa thiêu đúng pháp, an táng xong không còn ưu buồn nưã, đi đến cư trú ở Bàlanytư trong chỗ chư tiên. Na Kích Đà vốn thuộc chủng tộc Ca Đa Diễn Na, nên người đương thời đều kính trọng gọi là tiên nhân Ca Đa Diễn Na.

 

Vua Oân Thệ Ny sinh thái tử đặt tên Đăng Quang, giao cho tám bà mẹ nuôi dưỡng đầy đủ, khi vừa khôn lớn đều thông suốt các kỹ thuật nghề nghiệp, luyện tập đầy đủ cả văn lẫn võ.

 

Khi Bồ Tát Thích Ca còn đồng tử vui chơi, thái tử Đăng Quang cũng là đồng tử vui chơi. Khi Bồ Tát thọ lễ quán đảnh thái tử, Đăng Quang cũng thọ quán đảnh thái tử. Bồ Tát ra khỏi thành quan sát lão, bệnh, tử, khổ rồi liền sinh tâm nhàm chán ba bà phu nhân. Đó là phu nhân Ngưu Hộ, phu nhân Lộc Dưỡng, phu nhân Danh Xưng đứng đầu sáu ngàn thể nữ. Ngài xả bỏ tất cả, nữa đêm vượt thành đi đến rừng vắng tu tập sự nghiệp xuất gia, y chỉ tiên nhân học thiền định thù thắng ly dục của Dục-giới. Sau đó, Ngài theo Yết La Ma Tử tu tập định Vô Sở Hữu, muốn vượt qua Vô Sở Hữu Xứ, lại không người hướng đạo, liền chuyên cần tu tập khổ hạnh trong sáu năm, không chứng ngộ gì khác, cho là vô ích nên sống tự nhiên không gò bó nữa, ăn uống thức ăn ngon, dùng dầu thoa thân, tắm bằng nước nóng, đi vào tụ-lạc. Tại nơi hai mục nữ là Nan ĐàNan Đà Lực, Ngài thọ hưởng cháo sữa thượng hạng gấp 16 lần loại thường, được Long vương Ca Lợi Ca tôn trọng tán thán, bên bờ sông Thiện Cát nhận cỏ Cát-tường, đến gốc Bồ-đề tự trãi cỏ ra, thẳng người chánh niệm ngồi kiết già, tâm nghĩ miệng nói:

 

- Nếu không đoạn trừ hết các lậu hoặc, Ta quyết không xả tư thế kiết già.

 

Sau khi Bồ Tát dùng khí trượng tâm từ chiến thắng ba mươi sáu ức ngàn ma chúng, chứng Vô-thượng-trí, nhận lời thỉnh của Phạm Thiên đi đến Ba La Ny Tư, ba lần chuyển mười hai hành pháp luân.

 

Trong thời gian này, vua Đăng Quang cũng lên ngôi vị vua quán đảnh, dùng pháp giáo hóa, nước Oân Thệ Ny nhân dân phồn thịnh, an ổn giàu vui ... nói rõ như chỗ khác. Nhờ uy lực của vua nên trăm họ hoan ca, cùng nhau vui hội tùy chỗ cúng dường thiên thần thắng thượng, đào năm trăm ao, năm trăm ngòi nước để mọi người xử dụng không bị thiếu thốn.

 

Nhiếp tụng hai trong biệt môn sáu:

 

    Đăng Quang đắc vi vương,

    Hữu ngũ thù thắng vật,

    Nhân tự kỳ dị sự,

    Quảng thuyết Kiền Đà La.

 

Vua Thắng Quang có năm thắng vật, đó là:

 

    Một: Voi đực thù thắng tên Vĩ Sơn.

    Hai: Voi mẹ thù thắng tên Hiền Thiện.

    Ba: Lạc đà thù thắng tên Hải Túc.

    Bốn: Ngựa thù thắng tên Y Cảnh.

    Năm: Sứ giả thù thắng tên Phi Ô.

 

Voi đực đi 100 trạm d?ch trong một ngày đêm. Voi mẹ đi 80 trạm dịch trong một ngày đêm. Lạc đà đi 70 trạm dịch trong một ngày đêm. Ngựa đi 50 trạm dịch trong một ngày đêm. Phi-ô đi 25 trạm dịch trong một ngày đêm. Tuy có thắng vật an ổn khóai lạc như vậy nhưng thân thể nhà vua không an ổn bị bệnh mất ngủ. Do bệnh này nên vua ghét bơ thích rượu. Các thầy thuốc dùng những loại thuốc hay nấu cùng bơ dâng lên, nhưng vua không chịu dùng. Trong cung, Thái tử đều biết thuốc bơ có thể trị bệnh mất ngủ nên dâng thuốc bơ lên, vua càng giận thêm. Vua ra lệnh:

 

- Ai nói tên bơ trước mặt ta, sẽ bị chém đầu.

 

Không ngủ được, vào đầu đêm vua cùng người trong cung chơi đùa, giữa đêm đến kiểm tra nơi chuồng voi ngựa, cuối đêm xem xét các kho tàng, tự cầm gươm bén hỏi người giữ canh:

 

- Ai làm việc đánh thức?

 

Hỏi một hai lần mà không đáp được thì còn dung thứ, đến lần thứ ba không đáp được, vua liền chặt đầu họ. Do tàn ác nghiêm khắc như vậy nên không còn tên Đăng Quang, gọi thêm là Mãnh Bạo Đăng Quang vương.

 

Một lúc khác, vua lệnh phu nhânnội cung:

 

- Ta đích thân đánh thức, vì sao các ngươi ngủ say?

 

- Đại vương, tôi cũng đánh thức.

 

Nhiều đêm không được ngủ như vậy, họ cùng thưa với vua:

 

- Nếu khiến chúng tôi nhiều đêm chẳng ngủ như vậy thì không sao làm vừa ý vua được. Lại không ngủ như vầy làm bỏ cả việc của chúng tôi.

 

Vua nói:

 

- Nếu không phải việc của các ngươi, ai nên làm việc này?

 

Đáp:

 

- Thái tử nên làm.

 

Nhà vua đi bảo thái tử:

 

- Sao không đánh thức?

 

- Con chịu đánh thức.

 

Sau đó, không kham nổi, thái tử tâu vua:

 

- Nếu sai con đánh thức mãi thì bỏ cả vương nghiệp, đây không phải là việc của con.

 

Vua hỏi:

 

- Ai nên làm?

 

- Đại thần nên làm.

 

Vua đi đến bảo đại thần:

 

- Sao không đánh thức?

 

- Thần chịu đánh thức.

 

Sau đó không kham nổi, đại thần tâu vua:

 

- Nếu bảo thần đánh thức mãi, ai phụ tá nhà vua trị đời như pháp, đây không phải là việc của thần.

 

Vua hỏi:

 

- Ai nên làm?

 

- Binh lính nên làm.

 

Vua đến bảo binh lính:

 

- Ta tự đánh thức, vì sao các ngươi không chịu đánh thức?

 

Sau đó vì không kham nổi, họ đến gặp vua tâu:

 

- Nếu thường bảo chúng tôi đánh thức mãi, làm sao vì vua giao chiến với kẻ khác, đây không phải là việc của tôi.

 

Vua hỏi:

 

- Ai làm được?

 

- Dân chúng làm.

 

Vua đến gặp nhân dân và hỏi đáp như trước.

 

Bấy giờ nhân dân trong nước ấy luân phiên nhau làm việc giữ canh đánh thức. Đến lượt mình đánh thức, đồng tử bán hương suy nghĩ:

 

- Vua bạo ác hoặc sẽ giết ta. Trong đêm anh ta chống má buồn bã.

 

Thấy vậy, người quen hỏi:

 

- Vì sao bạn buồn vậy?

 

Anh ta đem hết sự việc kể cho người kia nghe. Người kia nói:

 

- Cách nhà anh không xa, có người tên là Kiền Đà La, sao không nhờ làm việc đánh thức?

 

Đồng tử nói:

 

- Như tôi tiếc mạng sống, họ nào chịu làm, giả sử có nhờ chắc chắn không làm.

 

- Cho tiền vật, chắc chắn họ sẽlàm.

 

Đồng tử liền đến nhờ làm, họ nói:

 

- Nếu đưa năm trăm tiền vàng thì tôi sẽ làm.

 

Đồng tử chấp thuận. Kiền Đà La nói:

 

- Tạm đưa tôi một nữa, nếu tôi còn sống, đưa luôn không muộn, nếu tôi bị chết thì vật này thuộc bạn, tùy ý xử dụng.

 

Sau khi được đồng tử giao một nữa số tiền, người kia dùng mua rượu thịt bánh trái, mời những người cận vệ của vua ăn uống no nê rồi nói với mọi người rằng đang đến lượt mình đánh thức theo lệnh vua. Kiền Đà La lại hỏi mọi người:

 

- Vì sao đại vương làm việc đánh thức?

 

Những người kia kể lại đầøy đủ lý do. Kiền Đà La nói:

 

- Mong các anh lo liệu cho tôi.

 

- Chúng tôi được bạn cho ăn ngon còn trong bụng chưa tiêu, sao lại không làm giúp!

 

Đáp:

 

- Nếu vua đến hỏi ai đánh thức, thì gọi tôi dậy.

 

- Vâng.

 

Tối đêm ấy, Kiền Đà La dùng tấm mền lông phủ chân, ngồi ngủ tạm.

 

Đầu đêm, vua vui chơi với cung nhân, nữa đêm đi trông voi ngựa, cuối đêm đến hỏi đến người thủ canh.

 

Mọi người đều kêu gọi:

 

- Bạn hãy thức dậy, đại vương sắp đến. Kiền Đà La liền tĩnh thức.

 

Vua hỏi:

 

- Người đánh thức là ai?

 

Nghe hỏi, Kiền Đà La không đáp vì suy nghĩ:

 

- Nếu hỏi lần đầu ta đáp ngay mà lần sau không đáp kịp, chắc chắn vua sẽ chém đầu ta rơi xuống đất.

 

Vua lại hỏi:

 

- Người đánh thức là ai?

 

Anh ta cũng im lặng.

 

Đến lần thứ ba vua hỏi:

 

- Người đánh thức là ai?

 

- Đại vương, thần là Kiền Đà La.

 

Vua hỏi:

 

- Này Kiền Đà La, ngươi đang suy nghĩ việc gì?

 

Kiền Đà Latrí tuệ giỏi đàm thuyết việc thế gian nên đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Hưu lưu hạc ẩm thủy,

    Mang thảo vĩ thân tề,

    Ban bác dữ mao đồng,

    Sa bồn thủy bất dật,

 

    Diêm xiểu thủy bất đồng,

    Y ngõa biến thành trần,

    Thị vị Kiền Đà La,

    Thế gian tư thập sự.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ về việc gì trong thế gian?

 

Kiền Đà La nói:

 

- Thế gian có việc kỳ lạ như chim tu-hú có lông không lông, dùng cân cân nặng nhẹ tương tự.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

- Vua nên tự kiểm nghiệm.

 

Vua nói:

 

- Nếu vậy thì tốt, ta sẽ đích thân xem.

 

Sáng sớm, Kiền Đà La bắt chim tu-hú cân cho vua xem khi còn lông và nhổ hết lông vẫn nặng như nhau.

 

Vua hỏi:

 

- Vì sao như vậy.

 

Đáp:

 

- Vì gió làm lông nhẹ lên.

 

Vua nói:

 

- Ngươi có trí kỳ diệu.

 

Đáp:

 

- Nhờ vua nên được vậy.

 

Vua im lặng.

 

Sau một đêm lo buồn, Kiền Đà La lấy tay vò đầu, trở về nhà cũ. Đồng tử bán hương đem nữa phần vật giao cho Kiền Đà La.

 

Bấy giờ trong nước, ai đến lượt đánh thức đều dùng năm trăm tiền vàng thuê Kiền Đà La làm thay. Muốn biết đến lượt ai canh, vào cuối đêm vua hỏi:

 

- Ai đánh thức?

 

Đáp:

 

- Tôi, Kiền Đà La.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Cho uống nước hòa với sữa, bạch hạc cổ dài chỉ uống sữa, chừa lại nước.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Sáng mai, trước vua, đem hạc ra uống, đúng như lời nói.

 

Vua nói:

 

- Đây có duyên cớ gì?

 

Đáp:

 

- Miệng hạc vốn có chất dấm chua, khi uống sữa làm sữa hóa lạc, loại trừ phần nước ra.

 

Vua nói:

 

- Ngươi có diệu trí.

 

Đáp:

 

- Nhờ vua nên như vậy.

 

Vua im lặng.

 

Vào đêm khác, vua hỏi ai đánh thức, như trước ...đáp: tôi đánh thức.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Trên đời có cỏ lau dùng vật đập dập, đem cân với loại chưa đập thì nặng nhẹ như nhau, loại cỏ khác không như vậy.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Đến sáng trước mặt vua, anh ta đem cỏ lau ra đập rồi cân lên, đúng như lời nói.Vua hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Khi đập, có gió lồng vào.

 

Vua im lặng. Vào đêm khác, vua hỏi ai đánh thức?

 

Đáp:

 

- Tôi, Kiền Đà La.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Có chuột kiết-linh, đuôi và thân bằng nhau.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Đến sáng trước mặt vua, anh ta đem chuột ra so sánh, đúng như lời nói. Vua hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Vào mùa xuân, thấy nó dưới gốc cây, thân bằng đuôi .

 

Vua im lặng.

 

Vào đêm khác, vua hỏi:

 

- Ai đánh thức?

 

Đáp:

 

- Tôi đánh thức.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Đại vương, tôi nghĩ về chim trĩ, trên thân nhiều màu sặc sỡ cho đến từng cái lông, nhưng trừ đuôi ra.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Đến sáng trước mặt vua,anh ta đem chim trĩ ra, đúng như lời nói. Vua hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

-Tôi đã biết trước .

 

Vua nói:

 

- Ngươi có diệu trí.

 

Đáp:

 

- Nhờ vua.

 

Vua im lặng.

 

Vào đêm khác, vua hỏi:

 

- Ai đánh thức?

 

Đáp:

 

- Tôi, Kiền Đà La.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Đại vương, như bồn đã đựng đầy cát, cho nước thêm vào đầy nhưng nước không tràn. Cát và nước một nơi nhưng không trở ngại nhau.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Đến sáng trước mặt vua, anh ta đem bồn đựng đầy cát, đổ nước vào cho đầy nhưng nước không tràn. Vua im lặng.

 

Vào đêm khác, vua hỏi:

 

- Ai đánh thức?

 

Đáp:

 

- Tôi đánh thức.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ, dùng một thăng muối hòa với một thăng nước nhưng nước không tăng.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Đến sáng trước mặt vua, anh ta đem muối hòa với nước, đích thân vua nghiệm rõ. Vua hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Muối lấy từ nước ra, bỏ vào nước thì như cũ.

 

Vua im lặng.

 

Vào đêm khác, vua hỏi:

 

- Ai đánh thức?

 

Đáp:

 

- Tôi đánh thức.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi suy nghĩ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ việc thế gian.

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Tôi suy nghĩ, dùng một thăng nước hòa với một thăng lương khô nhưng không kết nhau.

 

Vua nói:

 

- Việc này thật không?

 

Đáp:

 

- Vua sẽ thấy tận mắt.

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy thì tốt.

 

Đến sáng trước mặt vua, anh ta đem nước hòa với lương khô, đích thân vua nghiệm rõ. Vua hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Người trong nước tôi, phần lớn ăn lương khô, thường thấy như vậy.

 

Vua nói:

 

- Ngươi giỏi nhớ việc.

 

Đáp:

 

- Do sức đại vương.

 

Vua im lặng. Vào đêm khác, vua hỏi:

 

- Ai đánh thức?

 

như trước ... cho đến ...

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Tôi thấy suốt ngày đêm người đời dùng máy dệt sản xuất ra các loại vải lụa mà không biết chúng đi về đâu?

 

Vua nói:

 

- Ta cũng không biết chúng đi về đâu?

 

Kiền Đà La đáp:

 

- Những vật này cuối cùng trở về đất.

 

Vua nói:

 

- Đúng như ngươi nói, cuối cùng trở về đất.

 

Vào đêm khác, vua hỏi ai đánh thức?

 

như trước ... cho đến ...

 

Vua hỏi:

 

- Việc thế sự gì?

 

Đáp:

 

- Tôi thấy suốt ngày đêm những người thợ gốm không ngừng sản xuất ra các loại đồ gốm nhưng không biết chúng đi về đâu?

 

Vua nói:

 

- Ta cũng không biết chúng đi về đâu?

 

Kiền Đà La đáp:

 

- Những vật này cuối cùng trở thành đất bùn.

 

Vua nói:

 

- Đúng như ngươi nói, cuối cùng chúng nát thành đất bùn.

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Mãnh-quang thân vấn mẫu,

    Tri tùng hiết sở sinh,

    Dữ bỉ ngũ bách kim,

    Khu chi linh xuất quốc.

 

Thấy Kiền Đà La lanh trí ứng đối giỏi, vua hỏi:

 

- Ngươi có nhiều trí tuệ, hiểu biết nhiều chuyện trong đời, vậy vì sao ta không ngủ được?

 

Kiền Đà La thưa:

 

- Cầu mong đại vương tha, tội ban cho sự an toàn, tôi mới dám nói với ngài.

 

Vua nói:

 

- Ta ban cho sự an toàn, ngươi hãy tùy ý nói việc ấy.

 

Kiền Đà La tâu vua:

 

- Ngài do bồ-cạp sinh ra.

 

- Ngươi mắng ta!

 

Đáp:

 

- Ngài bảo tôi nói thật, nào dám mắng ngài. Nếu không tin, đợi sáng mai vua tự nghiệm biết rõ.

 

Vua nói:

 

- Tốt.

 

Trời sáng, Kiền Đà La đào một cái hố, đổ đầy phân bò, trên phủ tấm nệm, bảo vua nằm lên liền ngủ được. Tự biết như vậy, vua còn nghi hư thật nên vào vương cung hỏi mẹ:

 

- Con có việc cần hỏi cho biết, mẹ nên nói thật con sinh ra từ đâu?

 

Mẹ nói:

 

- Nay, nếu đại vương ban cho sự bình an, tôi sẽ nói ra.

 

Vua nói:

 

- Cho mẹ sự bình an.

 

- Ngày xưa, phụ vương của con có nhiều thể nữ. Nhân khi ngài đi sang nước khác trải qua nhiều năm, ta sinh dục tâm bỗng thấy một con bồ-cạp, nên suy nghĩ: "Nếu đây là đàn ông cùng ta hành dục chẳng khoái lạc hay sao". Khi ấy, bồ-cạp biến thành đàn ông, cùng giao hợp với ta, nhân đó có thai sinh ra con.

 

Nghe như vậy, vua suy nghĩ: "Kiền Đà Lađại trí tuệ, biết rõ ta vốn do bồ-cạp sinh ra". Ta đã cho hắn sự an ổn nên không giết được, nay nên trọng thưởng rồi đuổi ra khỏi nước chớ để mọi người biết việc này.

 

Sau khi ban thưởng Kiền Đà La năm trăm tiền vàng, vua khiến anh ta ra khỏi nước.

 

CĂN-BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển thứ hai mươi hết

 

--- o0o ---

Quyển thứ hai mươi mốt

 

--- ooOoo ---

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Mãnh Quang thị phược ca,

    Kim quang y la bát,

    Na kích đà đắc quả,

    Diệu phát bát trì du.

 

Vua Mãnh Quang thầm nghĩ: "Ta đang mắc bệnh mất ngủ này, ngày càng nặng thêm, phải làm cách gì để hết bệnh, nên triệu tập hết thầy thuốc trong nước đến trị bệnh cho ta".

 

Sau khi suy nghĩ, vua triệu tập hết các y sĩ lại và bảo họ rằng:

 

- Ta mắc bệnh không ngủ được, hãy cùng nhau trị cho ta.

 

Các thầy thuốc tâu:

 

- Bệnh này không tầm thường, những người chúng tôi không thể trị được. Nhưng vua Tần Tỳ Sa La thành Vương Xá có con là Thị Phược Ca là đại y vương, ai cũng đều biết, đầy đủ trí tuệ trị được bệnh này.

 

Vua Mãnh Quang sai sứ giả đem thư đến cho vua Tần Tỳ Sa La. Thư viết:

 

- Bạch vua Ảnh Thắng, xin khiến đại y vương Thị Phược Ca đến gặp tôi một thời gian ngắn, vì muốn được trị liệu, mong chớ chống trái. Nếu không đến, Ngài nên dự trữ lương thảo binh lính để nghinh đón.

 

Sau khi nhận thư, đọc xong vua Tần Tỳ Sa La rất lo buồn, chống má suy nghĩ, nếu đưa con ta đi, sợ yêu cầu nữa, phải tuân lời thì nước ta bị lệ thuộc. Nếu không đưa đi, nước họ binh cường gấp bội sẽ gây rối.

 

Thấy sắc diện vua ưu sầu, Thị Phược Ca quỳ tâu:

 

- Vì sao vua ưu sầu?

 

Vua nói:

 

- Vì con có nhiều tài năng hiểu kỹ thuật này khiến cho ta ưu buồn, còn biết nói gì.

 

- Xin ngài nói rõ việc này.

 

Bấy giờ, vua trình bày đầy đủ ý của thư.

 

Nghe xong, Thị Phược Ca tâu vua:

 

- Xin ngài ban lệnh, con sẽ phụng chỉ lên đường.

 

Vua nói:

 

- Này con, tánh vua Mãnh Quang rất bạo ác, bất luận lành hay không, chỉ nổi sân lên thì sát hại ngay, sợ hắn làm việc vô đạo, giết con oan uổng.

 

- Nếu không tự cứu hộ được thân mình sao gọi là thầy thuốc.

 

- Xin đại vương chớ sinh buồn khổ, con đi cho đúng hẹn với họ.

 

Vua nói:

 

- Tùy ý con đi, cẩn thận giữ gìn, đừng làm cho ta và quốc dân, người lớn nhỏ trong cung sinh lo buồn.

 

- Xin chớ ưu sầu, không có lý ấy đâu! Con xem bệnh trạng làm cho thuyên giảm khiến họ không nổi sân.

 

Vua im lặng.

 

Thị Phược Ca hỏi sứ giả:

 

- Vua Mãnh Quang đang bị bệnh gì, ăn được gì và không ăn được gì?

 

Sứ giả trình bày bệnh trạng của vua. Nghe xong, đại y vương dùng bơ hòa với cao làm cho màu sắc, hương, vị đều giống như rượu.

 

Sau khi chế thuốc, chọn giờ tốt tổ chức cầu an lành, y vương từ giã thân thuộc theo sứ giả lên đường. Trên đường đi đến nước Oân Thệ Ny, gặp thành Khúc Nữ. Trong thành ấy, có một thầy thuốc trẻ nghe đại Y Vương sắp đến nước Oân Thệ Ny nên đem một trái Ha Lê Lặc dâng lên y vương.

 

Sau khi giao tiếp, hai bên rất hợp ý nhau, y vương hỏi đồng tử:

 

-Vua Mãnh Quang bị bệnh như vậy vì sao các người không trị liệu?

 

Đáp:

 

- Vua ấy bị bệnh mất ngủ, nên trị bằng bơ, tính vua ghét bơ ưa rượu lại bạo ác. Trước vua, ai nói đến tên bơ liền bị chặt đầu. Biết tính vua bạo ác nên các y sĩ đều cao bay xa chạy không ai dám trị.

 

Y Vương nói với đồng tư û:

 

- Pháp đệ nên biết, ta vì vua ấy dùng bơ hòa với cao không khác gì rượu. Em hãy đi cùng ta đến ông ấy, nếu ta có làm dấu để phương tiện chỉ dạy, em nên theo đó lo liệu cho ông ta dùng thuốc. Em nên ở lại trông chừng, ta sẽ ra đi. Sau khi vua hết bệnh, ta sẽ thưởng cho em và khiến cho vua ban thưởng em trọng hậu.

 

Đồng tử đồng ý rồi cùng nhau đi dần đến thành vua.

 

Nghe y-vương đến, vua Mãnh Quang suy nghĩ: "Thị Phược Ca đã là vương tử lại là Y Vương, nên dùng lễ long trọng nghênh tiếp vào thành".

 

Nhà vua ra lệnh trang hoàng thành quách, sửa sang đường phố, trần thiết nghi trượng. Vua và thái tử, quần thần, thứ dân cùng ra nghênh tiếp. Giữa vô lượng trăm ngàn người vây quanh trước sau, y vương cùng đi vào trong thành.

 

Sau khi để Y Vương nghỉ ngơi, vua Mãnh Quang hoan hỷ thăm hỏi y-vương:

 

- Tôi có bệnh thức không ngủ được, nay đã quá nặng hãy trị liệu cho.

 

Y Vương đáp:

 

- Tôi sẽ chữa trị, nhưng cần dược liệu, phần lớn chúng ở các nước và thành khác. Chỉ có tôi biết được, người khác không biết, hoặc người khác biết mà tôi không biết, hoặc cùng biết, hoặc có gần, có xa. Xin phép đại vương đưa cho tôi voi mẹ Hiền Thiện, được cỡi đi tùy ý.

 

Vua đáp:

 

- Lành thay, tùy ý ngài.

 

Vua ra lệnh cho người điều voi:

 

- Nếu đại y vương cần voi Hiền Thiện, ngài tùy ý cỡi, các ngươi không được tự tiện ngăn cản.

 

Lại bảo đại thần và thủ môn:

 

- Y vương có thể sớm đi trưa về, trưa đi tối về, khi cần tùy ý cỡi voi Hiền Thiện ra vào, không được ngăn cản.

 

Nhận lệnh vua, các đại thần và người thủ môn không dám ngăn trở.

 

Bấy giờ, hoặc ban ngày hoặc nữa đêm, y vương lấy voi cỡi đi đi về về không nhất định làm cho mọi người không để ý nữa.

 

Một hôm, vua Mãnh Quang nói với y vương:

 

- Sao không trị liệu?

 

Thị Phược Ca bảo vua tắm rửa, sau khi tắm rửa lại bảo vua ăn, ăn xong lại tâu vua:

 

- Tôi vừa có rượu ngon thượng hạng của nước Ma-già-đà, vua nên uống đi.

 

Rất vui mừng, vua Mãnh Quang nói:

 

- Hãy đem đến đây.

 

Y-vương ra dấu hướng dẫn sai đồng tử bạn đem thứ ấy đến. Nhận được thuốc, vua uống ngay. Sau khi uống, vua liền ngủ say. Biết vua đã ngủ, y vương liền cỡi voi chạy đi. Đến nữa đêm, vua thức dậy, thở ra biết có mùi bơ nên rất tức giận sai tả hữu hãy mau bắt lấy Thị Phược Ca đem đến chặt đầu.

 

Mọi người cùng đi bắt, mới biết y vương đã chạy nên vào tâu vua:

 

- Tìm không thấy chắc đã chạy xa rồi.

 

Rất tức giận, vua liền gọi Phi Ô:

 

- Hãy cỡi voi lớn Vi Sơn rượt theo Y Vương cột cổ đem về chặt lấy đầu. Khi gặp, hắn giỏi huyễn thuật nên không được nhận dược vật gì của hắn cả.

 

Phụng lệnh vua, Phi Ô cỡi voi số một vội vàng rượt theo. Theo dấu chân voi đến vườn cây xoài, Phi Ô theo kịp nên gọi Y Vương:

 

- Ngài mau trở lại!

 

Đáp:

 

- Sao ông vội vậy, hãy đến đây ăn xoài.

 

Phi Ô nói:

 

- Ta tuân lệnh vua, người giỏi huyễn thuật nên đưa vật gì cũng không được nhận lấy.

 

Đáp:

 

- Ông không nên sợ, nay đang đói khát, tôi lấy một trái xoài, mỗi người ăn một nữa.

 

Phi Ô suy nghĩ:

 

- Ăn chung một trái, nào có thuật gì!

 

Y-vương lấy một trái xoài và ăn trước nữa trái, còn lại nữa trái, dùng móng tay có chứa thuốc độc bấm vào nữa trái này làm nhiễm độc, rồi đưa cho Phi Ô.

 

Sau khi nhận xoài và ăn xong, trước đây Phi Ô đã bị bệnh nan y, nay ăn trái xoài có thuốc, thuốc công phạt bệnh nên trên đau dưới chảy không cầm được.

 

Y-vương vào thôn, bảo mọi người:

 

- Đây là voi lớn số một, voi mẹ Hiền Thiện và sứ giả Phi Ô của vua Mãnh Quang. Các người phải trông nom kỹ chớ làm cho tổn thất, nếu có sai sót phải bị tội nặng.

 

Dặn dò xong, Y Vương lên đường. Mọi người phụng mệnh, chăm sóc Phi-Ô làm cho hết bệnh.

 

Đồng tử y sĩ cũng đã trị cho vua Mãnh Quang hết bệnh. Khi Phi Ô trở về, vua hỏi:

 

- Y vương ở đâu?

 

Đáp:

 

- Bắt được Y Vương, vua sẽ làm gì?

 

- Khi ta bắt được, sẽ chặt đầu hắn.

 

Đáp:

 

- Vua đã hết bệnh, chứng nan y của thần cũng sạch, phải cùng nhau trọng thưởng, sao lại chặt đầu?

 

Nghe như vậy, vua nói:

 

- Lành thay! Lành thay! Trọng thưởng tùy ý để báo ân lớn cho ông ấy.

 

Phi-Ô làm sắc chỉ báo cho Y vương:

 

- Ngài là Y vương đáng được trọng thưởng, sao lại chạy đi. Đuợc thư, ngài hãy trở lại nhận thưởng của vua.

 

Thi Phược Ca gửi thư đáp:

 

- Tôi nhờ ân vua nên tài sản quý không thiếu, nếu nhà vua hoan hỷ với tôi xin đưa cho đồng tử y sĩ phục vụ những vật ban cho tôi.

 

Nhà vua đem nhiều tài sản ban thưởng cho đồng tử y sĩ. Vua lại sai sứ đem một tấm vải nỉ lớn trị giá trăm ngàn lượng vàng dâng cho y vương. Được tấm vải này, với suy nghĩ:

 

- Thế Tôn là bậc Vô-thượng đại sư, là bậc cha lành của ta, vậy nên dâng cúng cho Ngài, Thị Phược Ca đến gặp Phật, dâng tấm vải nỉ lên.

 

Thế Tôn nhận lấy, bảo A Nan Đà:

 

- Đem tấm vải này may y.

 

Sau khi đem cắt rọc, may ba y cho Phật nhưng vẫn còn dư, A Nan thưa lại Ngài. Phật dạy:

 

- Ông và La Hổ La tùy ý xử dụng.

 

Sau khi dùng làm hai y trên dưới cho mình, A Nan Đà đưa phần còn lại cho La Hổ La làm áo Tăng khước-kỳ.

 

Lại nữa nên biết về nhân duyên của rồng Y La Bát.

 

Ngày xưa, trên cung điện ở cõi trời Đổ Sử Đa, có ghi những lời vấn đáp của Phật bằng bài tụng:

 

    - Nơi nào vua là lớn

    Bị đắm nhiễm nơi nào,

    Không nhiễm mà bị nhiễm,

    Hạng nào là kẻ ngu?

    Nơi nào kẻ ngu buồn?

    Nơi nào bậc trí vui?

    Ai biệt ly hòa hợp,

    Gọi đó là an-lạc?

 

Nếu Phật Thế Tôn không xuất hiện trong đời, ý nghĩa tụng này không ai thọ trì và không ai hiểu được. Nếu Phật ra đời thì có người thọ trì và hiểu được ý nghĩa.

 

Bấy giờ, Đa-văn Dược xoa Thiên vương ở phương Bắc có việc đi đến thiên cung Đổ-sử, thấy bài vấn tụng này, sinh tâm ái mộ liền ghi lại văn nhưng không hiểu nghĩa, đem về cung mình chép lên bảng.

 

Tại nước Đắc Xoa Thi La có cựu trú long vương tên Y La Bát, ngày đêm mong mõi bao giờ được gặp Thế Tôn xuất thế. Long vương này có một Dược xoa thân hữu tên Kim Quang. Dược xoa này nhân đến chỗ Đa Văn thiên ở phương Bắc, thấy bài tụng này trên bảng nên thuộc lòng nhưng không hiểu nghĩa. Dược xoa này đem bài tụng đến nước Đắc Xoa Thi La, bảo với Long vương Y La Bát:

 

- Này bạn thân, đây là lời Phật, ý nghĩa sâu xa không ai hiểu được. Bạn hãy ghi nhớ bài pháp tụng này, mang một rương đầy vàng, đi khắp làng xóm thành phố các nước, rao lên rằng:

 

- Ai giải được ý nghĩa bài tụng này, tôi xin cúng dường rương vàng.

 

Nếu nơi nào không ai giải đáp được thì nói lên:

 

- Nơi này không có người nên không gọi là làng nước. Nói như vậy rồi, đi đến nơi khác.

 

Nghe như vậy, Long vương cung kính thọ trì bài tụng rồi hóa thành một thanh niên mang rương vàng đi khắp làng xóm thành phố các nước ... dần dần đến nước Bà La Ny Tư. Đến giữa ngã tư đường trong thành, thanh niên ấy rao lên:

 

- Này những người đang ở trong thành và thương khách bốn phương xa đến, hãy nghe lời tôi nói.

 

Sau khi thuyết tụng, thanh niên ấy nói:

 

- Bài vấn tụng do tôi đem đến này, nếu ai giải được, xin dâng cúng rương vàng.

 

Vô số trăm ngàn người tụ tập đến như mây, trong này có kẻ thông minh bác học, tâm ý kiêu ngạo. Nghe xong, mọi người ái mộ kinh ngạc vô cùng, nhưng không có ai giải thích được cả. Long vương xướng lên:

 

- Ba La Ny Tư đã không có bậc trí vậy không phải là thành phố.

 

Các Bà-la-môn cư sĩ đều bảo thanh niên ấy:

 

- Chớ rao như vậy cho rằng đây không phải thành phố. Trong thành này của ta có bậc thượng trí trú nơi A Lan Nhã, hãy chờ vị ấy đến sẽ giải ý nghĩa này.

 

Hỏi:

 

- Vị ấy tên gì?

 

Đáp:

 

- Hiệu Na Kích Đà.

 

Nếu như vậy, tôi sẽ chờ đợi.

 

Đang sống trong rừng vắng, được tin, Na Kích Đà đi đến. Đằng ngay trước mặt, hóa Long vương ấy thưa:

 

- Đại tiên tôi đem bài vấn tụng này đến đây, nếu ai giải nghĩa được, tôi sẽ cúng cho rương vàng.

 

Sau khi nghe và ghi nhớ, Na Kích Đà bảo đồng tư û:

 

- Ta sẽ giải thích cho ngươi.

 

Hỏi:

 

- Bao giờ?

 

Đáp:

 

- Hai mươi năm sau.

 

- Đại tiên, thời gian lâu dài quá.

 

Lại nói:

 

- Sáu năm.

 

- Lâu quá.

 

Đáp:

 

- Ba năm ..., một năm ..., sáu tháng ..., ba tháng ..., một tháng ..., nữa tháng ... cho đến bảy ngày .

 

- Đại tiên! X in đợi bảy ngày, tùy ý ngài, tôi rất chí thành. Trước đây, Na Kích Đà là bạn thân với năm Bí-sô, nên đến nói với họ:

 

- Có một thanh niên đem bài tụng này và một rương vàng đến gặp tôi và nói:

 

- Người nào giải được câu tụng này, sẽ đem rương vàng cúng dường. Nhưng bài tụng ấy chữ ít nghĩa nhiều, sâu xa khó hiểu nay phải làm sao?

 

Bí-sô đáp:

 

- Na Kích Đà nên đến hỏi Phật.

 

- Thưa ngài, Phật ra đời rồi sao?

 

Đáp:

 

- Đã ra đời.

 

- Hiện nay đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Đang ở rừng Thi Lộc, Tiên nhân đọa xứ.

 

Nghe như vậy, người ấy rất vui mừng, vội vàng đến gặp đức Thế Tôn, thấy thân ba mươi hai tướng tươi sáng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm rực rỡ, hào quang chiếu xa một tầm sáng chói hơn ngàn mặt trời, thân hình như núi báu, sắc tướng thù diệu, tâm thần yên tịnh hơn người tu tập thiền định mười hai năm. Trực tiếp thấy như vậy, Na Kích Đà sinh tâm hoan hỷ như người không thể sinh con tự nhiên có con, như người nghèo cùng được kho báu lớn, như thái tử đuợc kế vị vua, như hữu tình đã tích chứa thiện căn đã lâu lần đầu gặp Phật. Thâm tâm Na Kích Đà hoan hỷ cũng như vậy. Ông ta đến gần Phật, lạy sát chân rồi ngồi qua một bên.

 

Thế Tôn tùy theo căn cơ sự khác biệt về ý thích, phiền trược, căn tính của họ mà thuyết pháp bốn Thánh-đế làm cho họ khai ngộ. Sau khi nghe pháp, Na Kích Đà dùng chày kim-cương phá tan núi hai mươi Tát Ca Da thân kiến chứng quả Dự Lưu. Sau khi thấy chân đế, vị này lạy sát chân Phật, bạch:

 

- Thế Tôn! Con xin được xuất gia trong thiện pháp luật của Phật, thành tựu tánh Bí-sô, kiên trì tu tập phạm hạnh.

 

Phật dạy:

 

- Trước đây, ông đã hứa với thanh niên giải đáp ý nghĩa câu tụng, nên đến trả lời với họ cho xong, sau đó xuất gia.

 

- Tuy con đạt được trí kiến như vậy, nhưng đối với ý nghĩa câu tụng chưa hiểu rõ ràng, đã không có biện tài dù đến có ích gì.

 

Phật dạy:

 

- Ông hãy đến đó, nói thế này:

 

- Người hãy nói câu vấn tụng ấy cho tôi nghe. Họ nói xong, nên đáp:

 

    Vua thứ sáu là lớn,

    Do ái nhiễm nên đắm,

    Không nhiễm mà sinh nhiễm,

    Gọi phàm phu tham ái.

    Kẻ ngu vì vậy buồn,

    Nơi ấy trí vẫn vui.

    Biệt ly khỏi tham ái,

    Đây gọi là an lạc.

 

Nếu họ nói không hiểu thì nói kệ này:

 

    Người nào nghe diệu ngữ,

    Hiểu rồi tu thắng định,

    Ai nghe không hiểu nghĩa,

    Người ấy do phóng dật.

    Nếu họ nghe kệ, lại nói thế này:

    Ông nói ra lời Phật,

    Tôi chưa rõ nghĩa ấy,

    Ý mê mờ chưa hiểu,

    Mau trừ nghi cho tôi.

 

Khi nói như vậy, ông nên dùng móng tay xé lá trước mặt họ. Nếu họ lại hỏi về Thế Tôn ra đời, thì bảo đã ra. Nếu hỏi ở đâu, thì đáp trong rừng Thi Lộc.

 

Sau khi thọ trì lời Phật dạy, Na Kích Đà đến gặp thanh niên ấy, nói:

 

- Anh hãy nói tụng, tôi sẽ đáp.

 

Đáp hỏi đầy đủ..v.v ... cho đến Phật trong rừng Thi Lộc. Y La Bát suy nghĩ: "Nếu trước mặt Na Kích Đà mà ta hiện thân rồng, ông ấy sẽ khinh ta. Nếu mang thân Bà-la-môn đến gặp Phật thì tại Bà La NyTư có đại Bà-la-môn hiểu ba sách minh và bốn luận minh. Họ thấy ta mang thân hình thanh niên tất cùng nhau chê bai vì các Bà-la-môn sinh trong giòng tộc cao quý, vì sao tự hạ mình đến gặp Kiều Đáp Ma. Nếu ta mang thân rồng đến gặp Thế Tôn, rồng có nhiều oán, sợ bị chướng ngại. Ta nên hóa hình vua Chuyển luân đến gặp Thế Tôn."

 

Sau khi suy nghĩ, rồng hóa làm Luân-vương có bảy báu dẫn đầu cùng 99 câu-đê đội binh theo sau, ngàn con trai vây quanh theo hình bán nguyệt, trang sức bằng các loại báu vật, vô lượng các hạng ngoại đạo Sa-môn phạm chí trăm ngàn người theo tùy tùng, trên đầu vua che tàng lọng trăm nan, uy quang rực rỡ như nhật nguyệt đi đến chỗ Thế Tôn.

 

Bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp trước vô lượng trăm ngàn người. Mọi người vừa trông thấy Luân-vương với vô lượng trăm ngàn quân chúng vây quanh, sinh tâm ái mộ, nói với nhau:

 

- Luân vương này từ đâu đến, chưa thấy trong đời, hay là Phạm thiên vương ... đến cúng dường phải không?

 

Trong đại chúng, người có tâm ái lạc, phát sinh tham đắm ngắm nhìn thân vua đều sinh vọng niệm.

 

Đến gặp Phật, vua lạy sát hai chân Phật, ngồi qua một bên.

 

Đức Phật bảo:

 

- Ngươi là kẻ ngu si, trong thời Phật Ca Diệp Ba, thọ cấm giới của Phật nhưng không hộ trì, vì phá giới nên bị quả báo làm thân rồng hạ liệt sống lâu này. Nay vì sao ngươi lại sinh tâm dối trá, gạt đồ chúng của Ta, hãy mau hiện trở lại hình rồng.

 

Long vương bạch:

 

- Thế Tôn! Con là thân rồng, có nhiều điều oán ghét, sợ có chúng sinh cùng nhau làm hại.

 

Thế Tôn bảo Kim Cương Thủ:

 

- Ông nên bảo hộ rồng đừng để bị tổn hại.

 

Vâng lệnh Thế Tôn, Kim Cương Thủ đi sau bảo hộ. Long vương đứng dậy, đến một nơi khác hiện trở lại hình rồng, có bảy đầu lớn dài vô cùng. Đầu dựa vào thành Bà la ny tư, đuôi nằm ở nước Xoa Thi La( cách nhau hai trăm trạm ngựa). Do nghiệp đời trước, trên mỗi đầu đều có mọc ra một cây đại thọ y-la, bị gió lay động mủ máu chảy ra thấm nhớp thân thể, hôi hám đáng ghét, thường có các loại ruồi, giòi bu khắp thân thể đểû cắn rỉa suốt ngày đêm, làm mọi người ghê tởm không ai muốn nhìn.

 

Bằng thân rồng của mình, Long vương đến lạy sát hai chân Thế Tôn rồi ngồi qua một bên.

 

Khi đại chúng thấy thân thể Long vương ghê gớm đáng sợ như vậy, những người ly dục còn sinh kinh sợ, huống chi người chưa ly dục mà thấy thân thể này với vi vẩy thô kệch đều bị xé rách, vết thương đầy máu mủ với nhiều màu sắc kỳ dị, lồi lõm cao thấp không bằng phẳng rất to lớn, sao lại không kinh hãi. Họ bạch Phật:

 

- Đến trước Thế Tôn là vật gì vậy?

 

Thế Tôn bảo đại chúng:

 

- Đấy là thân vua Chuyển Luân đến đây lúc trước. Các ông sinh tâm tham ái với vinh hoa sinh tử của nó. Đây chính là thân thật, thân trước là biến hóa, do ác nghiệp trước đây nên chịu khổ báo này.

 

Nghe Phật nói xong, mọi người đều buồn rầu im lặng.

 

Long vương bạch Phật:

 

- Cầu xin Thế Tôn thọ ký cho con biết ngày nào bỏ được thân rồng này?

 

Phật bảo Long vương:

 

- Trong tương lai khi loài người thọ tám vạn tuổi, có Phật ra đời hiệu Từ Thị đầy đủ mười hiệu sẽ thọ ký cho ngươi thoát khỏi thân rồng.

 

Bấy giờ, ngay trước Phật, Long vương đau buồn kêu khóc, mắt của các đầu đồng thời đổ lệ làm thành mười bốn giòng sông cuồn cuộn chảy xuống.

 

Phật lại bảo:

 

- Ngươi hãy ngừng lại, đừng khóc lớn nữa, nước mắt chảy mãi phá tan cả quốc độ.

 

Rồng bạch Phật:

 

- Bản tâm con không hại đến mạng nhỏ huống chi làm tổn thất quốc độ.

 

Nói xong, rồng đảnh lễ sát chân Phật rồi biến mất.

 

Bấy giờ, đại chúng đều nghi ngờ, bạch Phật:

 

- Đời trước, Long vương này đã làm nghiệp gì, trên đầu mọc cây, thân chảy ra máu mủ ... như nói trên?

 

Phật bảo đại chúng:

 

- Muốn biết nhân duyên gì của Long vương mà chịu quả báo thân thể đau khổ này, tự làm tự chịu không ai thay thế được, nói rộng như bài kệ nói trên:

 

    Dù trải qua trăm kiếp

    Nghiệp đã làm không mất,

    Khi nhân duyên gặp nhau,

    Tự nhận lấy quả báo.

 

Này các Bí-sô, hãy lắng nghe lời Ta dạy:

 

- Thời quá khứ, trong đời Hiền kiếp, khi loài người sống hai vạn tuổi, có Phật ra đời tên Ca Nhiếp Ba đầy đủ mười hiệu, trú trong rừng Thi lộc thuộc Ba la ny tư. Bấy giờ Long vương xuất gia tu hành trong Phật pháp ấy, thông suốt ba tạng, tu tập đầy đủ các môn thiền định, sống nơi tịch tịnh, dưới cây y la, siêng năng kinh hành. Bị lá y la rơi đánh vào trán nhưng vị ấy vẫn chịu đựng. Một hôm, quá chú tâm nên mệt mõi, liền xuất định, chánh niệm kinh hành, lại bị lá y la rơi đánh vào trán rất đau đớn, vị này phẫn nộ dùng hai tay bẻ lá y la ném xuống đất và nói rằng Phật Ca Nhiếp Ba đối với vật vô tình ở trên thấy có lỗi gì mà chế ra học xứ, làm cho ta bị đau đớn này. Vị ấy do tâm phẫn nộ mãnh liệt nên hủy báng giới, sau khi qua đời đọa vào loài rồng này. Có cây y la mọc trên đầu, mủ máu chảy ra, bị nhiều loại trùng ruồi giòi cắn rỉa hôi hám vô cùng.

 

- Này các Bí-sô, suy nghĩ thế nào, Bí-sô thông ba tạng giỏi thiền địnhphá hoại lá cây y la nào phải ai lạ chính là con rồng ấy. Bí-sô nên biết, nghiệp đen quả báo đen, nghiệp trắng quả báo trắng, nghiệp tạp quả báo tạp ... Thế nên các ông liền từ bỏ nghiệp đen, nghiệp tạp, tu tập nghiệp thuần trắng cho đến nói bài kệ như trước.

 

Khi ấy, tiên nhân Na Kích Đà đến làm lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Điều hứa trước đây con đã làm xong, nay muốn xuất gia tu học trong thiện pháp luật của Như Lai.

 

Phật dạy:

 

- Thiện Lai Bí-sô! Cho phép ông xuất gia để tu phạm hạnh.

 

Nghe Phật nói xong, râu tóc ông ta tự rụng như đã cạo được bảy ngày, thân mặc pháp y, bình bát nơi tay, uy nghi nghiêm túc như Bí-sô trăm tuổi hạ, nói kệ:

 

    - Thế Tôn gọi thiện lai

    Tóc rụng, y kín thân,

    Các căn liền tịch tịnh,

    Theo Phật, ý thành tựu.

 

Các Bí-sô thấy Na Kích Đà xuất gia rồi, những vị đồng phạm hạnh không biết gọi vị này bằng danh hiệu gì nên đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô này họ Ca Đa Diễn Na, nên dùng họ này gọi thành tên.

 

Các Bí-sô theo đó mà gọi. Thế Tôn bảo Ca Đa Diễn Na:

 

-Trong thế gian có hai chỗ y cứ là thấy có và thấy không, lại do phiền não trói buộc nên cố chấp vào hai sự thấy này. Phiền não không trừ thì mãi ôm lòng ngã mạn, tùy theo khổ nên có sinh và diệt. Này Ca Đa Diễn Na, do không còn nghi hoặc nên trí tuệ tự phát sinh, chánh kiến hiện tiền như tri kiến của Phật. Vì sao?

 

- Bằng chánh trí thấy rõ pháp sinh ra thế gian rồi thì không còn sinh cái chấp không theo thế gian, bằng chánh trí thấy rõ pháp diệt thế gian nên không còn sinh cái chấp có theo thế gian. Này Ca Đa Diễn Na, đối với cái thấy hai bên này không nên chấp vào. Như Lai thường y vào trung đạothuyết pháp. Đó là:

 

- Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não, như vậy cả một tập hợp khổ não cực lớn tương tục phát sinh. Cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt, tức là vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lão tử ưu bi khổ não diệt, như vậy cả một tập hợp khổ não cực lớn bị tan diệt.

 

Khi nghe Phật giảng xong, ngay tại chỗ ngồi Ca Đa Diễn Na quán tri năm đường luân hồi sinh tử hữu vivô thường, khổ, không, vô ngã, tâm khai ý ngộ, đoạn trừ các phiền não, chứng quả A-la-hán với ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri:

 

- Ta sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sinh, tâm không chướng ngại như tay vỗ hư không, dao cắt mùi hương, không còn thương ghét, xem vàng và đất như nhau, không còn vướng bận vào danh lợi, Thích Phạm chư thiên đều cung kính.

 

Do Phật đặt tên là Ca Đa Diễn Na nên từ đó về sau Tôn giả được gọi là Đại Ca Đa Diễn Na.

 

Bấy giờ, nhân dân nước Ôn Thệ Ny bị bệnh dịch chết nhiều, xe tang đưa mãi, thây chết khắp đồng. Vua cùng nhân dân đều buồn khổ. Các quan tâu vua:

 

- Đại vương nên tu các phước nghiệp. Có người tâu nên cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn. Có người nói nên làm các pháp chú thuật trị bệnh.

 

Nghe thương nghị xong, vua chuẩn bị đầy đủ việc cầu thỉnh trừ tai họa, mong diệt bệnh dịch cho bá tánh an ninh, rồi bảo người thủ môn:

 

- Các ngươi nên biết, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào đến thành này mà có thể trừ bệnh dịch, báo cho ta ngay.

 

Đức Như Lai Đại sư biết nhiều người trong nước này bị bệnh dịch chết vô số nên muốn cứu hộ. Thường pháp của đấng Vô thượng Thế Tôn như vậy, quán sát nghe biết khắp thế gian, luôn luôn đem tâm đại bi làm lợi ích cho tất cả, là bậc tối thượng trong việc cứu hộ, rất là hùng mạnh không nói hai lời, an trú trong định tuệ hiển lộ ba minh, khéo tu tập tam học, khéo điều phục ba nghiệp, vượt bốn bạo lưu, an trú trong bốn thần túc, trong đêm tối luôn tu bốn nhiếp hạnh, xả bỏ năm triền cái, xa lìa năm chi, siêu việt năm đường sáu căn đầy đủ, viên mãn sáu độ, thí khắp bảy tài, nở hoa bảy giác, ly tám pháp thế gian, chỉ dạy Tám chính đạo, đoạn hẳn chín kết, thông suốt chín định, sung mãn mười lực, tiếng vang khắp mười phương, tối thắng trong các bậc tự tại, được pháp vô-úy, chiến thắng ma oán, phát sấm vang lớn, rống tiếng sư tử, suốt cả ngày đêm luôn dùng Phật nhãn quán sát thế gian ai tăng ai giảm, ai gặp khổ nạn, ai hướng đến nẻo ác, ai bị chìm trong bùn dục, ai có thể hóa độ được, dùng phương tiện gì để cứu ra khỏi, ai không thánh tài làm cho được thánh tài, dùng trí như thuốc An-thiện-na phá trừ mạc mắt vô minh, làm cho người không có thiện căn trồng thiện căn, có thiện căn làm cho tăng trưởng, an trí nơi nẻo trời an ổn không ngại, hướng đến thành Niết bàn, như lời nói:

 

    - Thủy triều của biển lớn

    Có khi sai chu kỳ,

    Với người cần giáo hóa

    Phật tế độ không bỏ.

    Như mẹ có một con

    Luôn giữ gìn mạng nó,

    Với người cẩn giáo hóa

    Phật thương hơn cả mẹ,

    Đối với loài hữu tình

    Phật thương nhớ không bỏ,

    Nghĩ cứu khổ nạn chúng

    Như bò mẹ theo nghé.

 

Sau khi quán sát: "Ai có thể điều phục vua Mãnh Quang nước Ôn Thệ Ny cùng cung phi thể nữ và thứ dân". Đức Phật biết rõ Bí-sô đại Ca Đa Diễn Na có thể điều phục được họ. Ngài bảo:

 

- Này Đại Ca Đa Diễn Na, ông hãy quán sát vua Mãnh Quang, cung phi thể nữ và nhân dân thành Ôn Thệ Ny mà làm cho họ được an lạc.

 

Tôn giả bạch Phật:

 

- Xin vâng lời dạy của Thế Tôn.

 

Vào sáng sớm, Tôn giả mặc y bưng bát vào Bà La Ny Tư thứ lớp khất thực. Sau khi thọ trai, mang theo y bát cùng năm trăm Bí-sô đi về nước Ôn Thệ Ny, trên đường đi đến nước Kiến Noa Cúc Xã. Trong thành này có một Bà-la-môn bạn cũ của Tôn giả. Ông ta có một cô gái hình dáng cân đối, sắc đẹp tuyệt trần, màu tóc sáng mướt, không ai sánh bằng, vì vậy có hiệu là Diệu Phát (tóc đẹp). Có người chơi âm nhạc từ phương Nam đến, thấy mái tóc của Diệu Phát đẹp kỳ lạ nên đến gặp Bà-la-môn nói:

 

- Đại Bà-la-môn, tôi đang cần mái tóc cô gái này, có thể bán cho tôi với giá một ngàn đồng tiền vàng.

 

Bà-la-môn đáp:

 

- Pháp Bà-la-môn không được bán tóc, vì sao ngươi nói lời phi pháp như vậy?

 

Không được toại ý, người kia im lặng bỏ đi.

 

Sau đó, người cha qua đời. Người mẹ nghe thánh giả Đ?i Ca Đa Diễn Na cùng năm trăm người đến nước này, đang ở cách đây không xa. Chồng mới chết nên lòng bà còn ưu buồn, nghe Tôn giả đến, càng thêm lo lắng, chống má suy nghĩ. Thấy mẹ ưu sầu, Diệu Phát hỏi lý do vì sao chống tay lên má ưu buồn vậy?

 

- Thánh giả Đại Ca Đa Diễn Na bạn cũ của cha con đã đến đây. Cha con đã qua đời, nhà ta lại bần cùng không thể dọn được một bữa cúng dường nên ta lo buồn.

 

Cô gái nói:

 

- Nếu vậy, bán mái tóc cho người chơi nhạc với giá 1000 tiền vàng, rồi đem dùng vào việc cúng dường. Sau này, tóc con lại mọc ra, xin mẹ chớ lo buồn.

 

Nghe như vậy, biết con có lòng tin thanh tịnh, mẹ đến gặp người chơi âm nhạc nói:

 

- Thưa ngài, trước đây ngài cần mua mái tóc con gái tôi nên trả giá 1000 tiền vàng, có cần nó, thì trả theo giá cũ.

 

Đáp:

 

- Này bà lão, khi ấy tôi cần tóc này, nay không cần nữa, nếu đã cắt ra bán xin lấy một nữa giá.

 

Người mẹ đồng ý nhận tiền trao mái tóc rồi ra về.

 

Đi đến thành kia rồi, Tôn giả an tâm trú một nơi thanh tịnh. Vợ người Bà-la-môn đến gặp Tôn giả, đảnh lễ sát chân rồi thưa:

 

- Thánh giả! Đi đường có an ổn không. Khi còn sinh tiền, chồng của con quen biết ngài, xin ngài từ mẫn nhận bữa cúng dường nhỏ mọn của con vào trưa mai.

 

Tôn giả nói:

 

- Chúng tôi rất đông, làm sao dâng cho đủ?

 

Hỏi:

 

- Thánh giả, chúng tăng có bao nhiêu vị?

 

- Có năm trăm vị.

 

Đáp:

 

- Rất tốt.

 

Thánh giả im lặng.

 

Biết Thánh giả đã nhận lời, bà lão làm lễ rồi ra về và bày biện các món cúng dường trong nhà.

 

Sáng mai, sau khi trải tòa ngồi, bố trí nước sạch, bà đến bạch:

 

- Thức ăn đã dọn xong, thưa Thánh giả đã đến lúc.

 

Vào buổi sáng ấy, Tôn giả mặc y cầm bát, cùng năm trăm vị khác đến nhà bà lão và ngồi vào chỗ. Thấy đại chúng đã an tọa, bà lão tự tay dâng các món ăn uống thơm ngon thượng hạng. Sau khi đại chúng thọ trai, xỉa răng, súc miệng, thu xếp bát xong, bà lão đặt một chỗ ngồi nhỏ để nghe thuyết pháp.

 

Khi sắp thuyết pháp, Tôn giả hỏi:

 

- Diệu Phát con gái của bà đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Hình dáng không đàng hoàng nên không dám đến.

 

Tuy bậc A-la-hán mà không quán sát cũng không biết, Tôn giả quán sát tâm cô ấy, biết rất thuần thiện, nên bảo:

 

- Con gái bà có thiện tâm hãy gọi ra đây.

 

Diệu Phát liền ra khỏi phòng, đến gặp Tôn giả, chí tâm lạy sát chân rồi ngồi qua một bên. Bà mẹ thưa:

 

- Đây là Diệu Phát, tuy biết xúc phạm, xin thỉnh Tôn giả cho làm con gái ...

 

Bà nói tiếp:

 

- Đã hệ thuộc nhau, có việc quan hệ cần phải thưa hỏi. Cô gái này nên gả cho nhà nào?

 

Tôn giả đáp:

 

- Ta là người xuất gia không nên đem việc thế tục ra hỏi. Nhưng cô gái này sẽ được vật trang sức và anh lạc trong ngoài với số lượng đều bằng năm trăm tiền vàng, được phong ấp bằng năm tụ lạc lớn.

 

Người mẹ nói:

 

- Con là nhà nghèo, ai sẽ ban cho thắng sự như vậy?

 

Tôn giả nói:

 

- Chớ nói như vậy, cô này phước đức cao xa nhờ tâm ân cần thanh tịnh cúng dường nơi phước điền thù thắng tất sẽ thu hoạch quả báo thù thắng này, chớ có lo buồn.

 

Người mẹ im lặng.

 

Sau khi giảng thuyết diệu pháp làm cho mẹ con bà lão được lợi ích hoan hỷ, Tôn giả rời chỗ ngồi, từ giã đi dần đến nước Ôn Thệ Ny.

 

Chúng tăng vừa vào thành, một nữa tai hoạn đã bị trừ diệt. Người thủ môn đến tâu vua:

 

- Đại vương biết không, có năm trăm người dung mạo đặc biệt, vừa vào trong thành thì một nữa tai hoạn đã bị tiêu diệt.

 

Vua nói:

 

- Đây thật là việc thiện, nên đích thân cúng dường.

 

Bấy giờ, các vị Bà-la-môn đến tâu vua:

 

- Chúng tôi cực khổ cả ngày đêm để làm việc trừ tai họa, nhờ uy lực của chúng tôi nên tai hoạn đã bị tiêu diệt một nữa, không bao lâu nữa sẽ bị trừ diệt hết, vì sao nay lại nói nhờ các Bí-sô kia.

 

Sau khi chú nguyện cho nhà vua không bệnh trường thọ xong, các Bí-sô từ giã ra đi.

 

Vua nói với đại thần:

 

- Người giữ cổng tâu với ta, có năm trăm người dung mạo đặc biệt, vừa vào trong thành thì những tai hoạn đã bị tiêu diệt hết một nữa. Các Bà-la-môn nói rằng chúng tôi cực khổ cả ngày đêm, làm việc trừ tai chướng, do uy lực của chúng tôi nên một nữa tai chướng bị tiêu diệt, không bao lâu nữa sẽ không còn chứ không do người ngoài. Ta không biết là do công sức của ai. Các khanh hãy đưa các Bí-sô và Bà-la-môn đến chuồng voi, tại nơi bất tịnh, dùng bánh gạo thô, tẩm nước dấm vào rồi cho họ ăn. Sau khi ăn xong đi rồi, hỏi cả hai phe:

 

- Hôm nay nhà vua dọn ăn như thế nào?

 

Đại thần tâu vua:

 

- Nên làm như vậy.

 

Sau khi làm theo lời vua, dọn ăn nơi chuồng voi, chờ họ ăn xong đi ra, người giữ cửa hỏi Bà-la-môn trước:

 

- Thưa quý ngài, hôm nay đại vương cúng dường, thức ăn như thế nào?

 

Họ rất tức giận, cao giọng nói lớn:

 

- Chúng tôi thấy việc này phi pháp, Bần vương dùng bánh gạo thô dở rưới dấm lên, dọn cho Bà-la-môn, làm sao có phước.

 

Nghe như vậy, người giữ cửa im lặng.

 

Sau khi họ đi, Bí-sô vừa đến. Người giữ cửa hỏi:

 

- Thánh giả! Vật cúng của nhà vua, mùi vị như thế nào?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Vật thí chủ cúng, người nhận ăn chỉ đủ để nuôi thân thể cho qua ngày đêm.

 

Người giữ cửa vào gặp vua, kể lại hai lời nói trên. Nghe xong, vua bảo họ:

 

- Nay tại chỗ sạch sẽ trong chuồng voi, khanh dọn thức ăn ngon và hỏi như trước.

 

Tại nơi sạch sẽ, họ trải chỗ ngồi đẹp, dâng món ăn ngon. Khi khách sắp ra về, họ hỏi như trước, Bà-la-môn đáp:

 

- Ngài như vua Quán Đảnh Sát Đế Lị, dọn món ăn sạch ngon, được phúc vô lượng.

 

Người giữ cửa nói:

 

- Nhà bếp của vương cung làm việc không nhất định, nhờ đâu hôm nay không bị chê bai.

 

Bà-la-môn im lặng.

 

Đến lượt Bí-sô được hỏi đến, đáp như trước. Người giữ cửa vào gặp vua tâu sự việc ấy lên. Vua lại ra lệnh dọn các món ăn sạch bẩn ngon dỡ nơi chuồng ngựa cũng tương tự như nơi chuồng voi ... hỏi và đáp như trước.

 

Nghe như vậy, với suy nghĩ: "Chúng Bí-sô thật đúng là ruộng phúc, Bà-la-môn không phải, vua sinh tín tâm đi đến gặp Đại Ca Đa Diễn Na, đảnh lễ rồi ngồi qua một bên.

 

Tôn giả thuyết pháp làm cho vua lợi ích hoan hỷ rồi ngài im lặng. Nhà vua lại lạy sát chân, bạch:

 

- Tôn giả! Ngưỡng mong Tôn giả từ bi cùng các Thánh chúng sáng mai đến cung con dùng bữa trai phạn đạm bạc.

 

Tôn giả im lặng nhận lời.

 

Thấy Tôn giả đã nhận lời, vua làm lễ từ giã, ngay trong đêm ấy bày biện các món ăn thượng hạng. Sáng sớm, sau khi xếp đặt chỗ ngồi, bố trí bình nước sạch, vua sai sứ giả đến bạch Tôn giả:

 

- Thức ăn đã sẵn sàng, thưa Thánh giả đến giờ.

 

Buổi sáng ấy, Tôn giả mặc y mang bát cùng các Bí-sô đến nơi thiết trai, ngồi vào chỗ. Vua ra lệnh nhạc sĩ vũ công đồng thời cử âm nhạc ca múa. Tôn giảTăng chúng ngồi nghiêm trang tề chỉnh giữ gìn các căn. Trống nhạc tấu xong, vua hỏi Tôn giả:

 

- Âm nhạc như thế nào, ngài nghe thấy có được không?

 

Tôn giả đáp:

 

- Đại vương! Người có thấy nghe mới biết hay dỡ.

 

Vua thưa:

 

- Các căn kín bên trong có thể cho là không biết, tâm theo ngoại cảnh sao không thấy nghe?

 

Tôn giả muốn cho vua hiểu rõ việc ấy nên dùng phương tiện khéo léo nói với vua:

 

- Hiện nay nhà vua có người nào đang bị tội chết không?

 

Vua hỏi:

 

- Cần làm việc gì?

 

Đáp:

 

- Nhà vua có thể dùng một bát dầu đầy đặt vào tay họ, sai người cầm đao đi sau cho kinh sợ nhưng không nên làm hại, ra lệnh rằng nếu để rơi một giọt dầu xuống đất, sẽ bị chặt đầu, cho phép họ đi một vòng, ngay trước mặt bố trí kỹ nữ tấu các loại âm nhạc. Khi trở lại chỗ cũ, hỏi người cầm bát dầu:

 

- Hình dung mỹ nữ và âm nhạc có đẹp và hay không? Sau đó đối với tôi, vua mới tin thật.

 

Nghe như vậy, vua lần lượt làm theo đúng lời nói. Khi người ấy đến trở lại, được hỏi:-

 

- Mỹ nữ có đẹp, âm nhạc có hay không?

 

Đáp:

 

- Ai có thấy nghe mới biết tốt xấu.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi có mắt tai vì sao không thấy nghe?

 

Đáp:

 

- Đại vương, nếu tôi làm rơi một giọt dầu, người cầm đao sẽ chặt đầu tôi, xác ngã ra đất. Trong lúc ấy, tôi vừa sợ bát nghiêng, vừa sợ đầu rơi, nên nhất tâm cầm bát đi lại một cách khổ sở, rảnh đâu mà biết dung mạo của mỹ nữ, ca múa hay dỡ.

 

Nghe như vậy, vua im lặng không biết nói gì.

 

Tôn giả hỏi:

 

- Đại vương thấy không?

 

Vua đáp:

 

- Đã thấy.

 

- Đại vương! Người này chỉ vì sinh mệnh trong một đời, sợ gặp khổ lớn mà còn cẩn thận chánh niệm không dám phóng dật, khéo giữ kỹ thân mạng, huống chi Bí-sô chúng tôi đã từ bỏ các loại ca múa. Biết đấy là nhân sinh ra nhiều đau khổ, lẽ nào tôi lại muốn thấy nghe nữa?

 

Vua xem dầu trong bát, xét rõ sự tình nên càng bội phục kính trọng Tôn giả.

 

Khi ấy, thái tử và các thể nữ trong cung vua cùng nhân dân đều đến tùy hỷ đem các món ăn thượng hạng cúng dường Bí-sô.

 

Sau khi đại chúng thọ trai, xỉa răng, súc miệng, thu cất bát xong, vua ngồi một ghế thấp trước Tôn giả, hỏi:

 

- Có nơi nào dùng thức ăn uống thơm ngon cúng dường cho năm trăm thánh chúng bằng như con không?

 

Tôn giả nói:

 

- Vua là quốc chủ, chế ngự trăm thành, mọi việc vâng theo ý vua không có thiếu sót, dùng thức ăn uống thượng hạng cúng dường năm trăm tăng, nào phải hiếm có. Trước khi tôi đến đây, trong tụ lạc kia, nhà có cô gái nhỏ hận mình nghèo nàn nên tự cắt tóc bán được năm trăm tiền vàng, tổ chức cúng dường món ăn ngon cho chúng tôi, đấy mới là hiếm có.

 

Nghe như vậy, vua suy nghĩ: "Tóc cô gái ấy giá trị đến năm trăm, vậy thể nữ chư thiên cũng khó so được, phải tìm xem ấy là người nào, ta nên lấy cô ta, Tôn giả là bậc cao đức, không nên hỏi ngài".

 

Vua ra lệnh sứ giả:

 

- Ngươi hãy đi đến những nơi Tôn giả đã đến, thôn xóm nào có cô gái bán tóc được năm trăm tiền vàng đem làm thức ăn cúng dường dâng lên. Đại Tôn giả Ca Đa Diễn Na. Cô gái ấy là ai, ta cần gặp.

 

Biết tâm ý vua, sứ giả tìm hỏi, dần dần đi đến thành Kiến Noa Cúc Xã. Vào trong thành, hỏi thăm khắp nơi, biết đúng chỗ muốn tìm, sau khi nghỉ ngơi, sứ giả đến nhà Bà-la-môn, đứng trước cửa, thấy người mẹ đi ra, liền đến thăm hỏi sức khỏe.

 

Bà mẹ hỏi:

 

- Ngài đến đây vì muốn chuyện gì?

 

Đáp:

 

- Tôi muốn tìm Diệu Phát để tính việc hôn nhân.

 

Hỏi:

 

- Với ai?

 

Đáp:

 

- Sung vào ngôi hoàng hậu cho vua Mãnh Quang.

 

Mẹ nói:

 

- Rất tốt, nhưng sính lễ không ít nên sợ việc không thành.

 

Sứ giả hỏi:

 

- Vật ấy bao nhiêu?

 

Mẹ đáp:

 

- Đồ trang sức bên trong phải đủ số năm trăm, số lượng anh lạc đeo bên ngoài cũng vậy, phong ấp bằng năm trăm tụ lạc; Đuợc những vật này, tôi sẽ gã con gái.

 

Nghe như vậy, sứ giả vội chạy về tâu vua:

 

- Đại vương, thần đã tìm được cô gái.

 

Vua hỏi:

 

- Ngươi nói gì với họ?

 

Đáp:

 

- Thần bảo với người mẹ là vua muốn lấy cô gái làm hoàng hậu.

 

Vua hỏi:

 

- Họ đòi sính lễ?

 

Sau khi nghe sứ giả tâu lại đầy đủ, nhà vua ra lệnh:

 

- Cung cấp theo yêu cầu của họ dù nhiều hay ít.

 

Tuân lệnh vua, sứ giả đến nhà cô gái cùng nhau giao kết chọn ngày tốt, nghi lễ đầy đủ, quân lính trước sau nghiêm chỉnh cờ trống đi từ thành Kiến Noa đến nước Ôn Thệ Ny. Ngay trong ngày họ vào thành, tất cả bệnh dịch đều bị tiêu diệt, đất nước bình yên, nhân dân an lạc. Nhân điềm lành này ứng hiện nên mọi người cùng gọi cô gái là An Lạc phu nhân.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA-TẠP-SỰ

 

Quyển hai mươi mốt hết.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22240)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15993)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15011)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18911)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14427)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18597)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14381)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13533)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11801)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13218)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13640)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13916)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16144)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11071)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16433)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11879)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17570)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13682)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12834)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14834)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16365)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12068)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12736)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12873)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12751)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14147)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14088)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16444)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12362)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14370)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11288)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11009)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13874)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13144)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12984)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13477)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12700)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10220)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13947)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10207)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13676)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16245)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11944)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12954)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11620)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12647)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10966)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10918)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11858)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12722)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11043)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11292)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant